Còn Đó Đam Mê
Chương 5
Georgeanne đưa tay lên chỗ đau nơi ngực mình. Những ngón tay cô túm chặt lấy cái nơ bướm xa tanh màu trắng may vào thân váy, trong khi sâu kín trong ngực cô, tình yêu và sự thù hận đang đâm vào nhau như quả cầu thép trên máy cẩu đập vào các công trình xây dựng cần phá vỡ làm trái tim cô tan nát. Quấn mình trong chiếc váy cưới màu hồng và chênh vênh trên đôi giày cao gót, cô cố vật lộn với cảm giác cay cay nơi đáy mắt. Nhưng khi nhìn chiếc Corvette đỏ của John lùi lại hòa vào dòng xe cộ, cô biết mình không thể kìm nén được nữa. Mọi thứ trước mắt cô trở lên nhạt nhòa, nhưng nước mắt rơi cũng chẳng khiến lòng cô khuây khỏa.
Ngay cả khi dõi nhìn bóng John khuất dần, cô cũng không thể tin được anh đã vứt bỏ cô bên vỉa hè trước sân bay Quốc tế Seattle-Tacoma. Không chỉ bỏ rơi cô, anh còn bỏ đi không buồn ngoái lại.
Xung quanh cô là những người vận đồ công sở hay những bộ quần áo mỏng mùa hè đang hối hả bước qua. Đám tài xế taxi dỡ hành lý xuống trong khi khói xả làm ngột ngạt bầu không khí vốn đã oi nồng. Nhân viên khuân vác đồ ở sân bay cười đùa với khách trong khi một giọng đàn ông lạnh lùng nhắc nhở rằng khu vực đánh dấu trước sân bay chỉ dành riêng cho việc xếp dỡ đồ. Những âm thanh hỗn độn quanh Georgeanne hòa trộn với những tiếng lùng bùng rối loạn trong đầu cô. Đêm qua John cư xử với cô khác hẳn với người đàn ông lạnh lùng đã đánh thức cô dậy sáng nay với ly Bloody Mary trong tay. Đêm qua anh không chỉ làm tình với cô một lần và cô chưa bao giờ cảm thấy gần gũi với người đàn ông nào đến nhường ấy. Cô đã tin John cũng cảm thấy gần gũi với cô. Chắc chắn nếu không thích cô, anh sẽ không chuốc lấy mạo hiểm như vậy. Nếu không cảm thấy gì ở cô anh sẽ không liều lĩnh hủy hoại sự nghiệp của mình trong đội Chinooks. Nhưng sáng nay anh đã cư xử như thể đêm qua họ chỉ xem mấy chương trình phát lại trên tivi chứ không phải làm tình. Khi thông báo đã đặt vé cho cô bay tới Dallas, giọng anh như kiểu đang ban cho cô một ân huệ lớn. Khi anh giúp cô mặc áo nịt ngực và váy cưới hồng, cái chạm của anh mới lạnh lùng làm sao. Rất đỗi khác lạ với những ve vuốt nóng bỏng của người tình đêm qua. Trong khi anh giúp cô mặc váy, Georgeanne đấu tranh với những cảm xúc rối bời. Cô đã vật lộn tìm lời thuyết phục để anh cho cô ở lại bên anh. Cô đã bóng gió hứa hẹn sẵn sàng làm bất cứ thứ gì và là bất cứ cái gì mà anh muốn, nhưng anh phớt lờ những gợi ý tế nhị ấy của cô.
Trên đường tới sân bay, anh bật nhạc to đến mức không thể nói chuyện được. Suốt một tiếng đồng hồ ngồi trong xe anh, cô tự dằn vặt mình bằng những câu hỏi. Cô tự hỏi mình đã làm gì và chuyện gì đã xảy ra làm đổi thay mọi thứ như thế. Duy chỉ còn niềm kiêu hãnh ngăn cô không tắt nhạc đòi anh trả lời. Duy chỉ còn niềm kiêu hãnh giúp cô ngăn lại những giọt nước mắt khi anh giúp cô xuống xe.
“Nửa tiếng nữa chuyến bay của cô mới cất cánh, cô còn nhiều thời gian đến lấy vé ở quầy mà vẫn kịp đáp chuyến bay,” John thông báo khi anh đưa cho cô chiếc vali du lịch.
Sự hoảng loạn thắt chặt lấy dạ dày cô. Nỗi sợ hãi đẩy lùi sự kiêu hãnh trong cô, và cô định mở miệng van xin anh đưa cô trở lại ngôi nhà trên bãi biển nơi cô cảm thấy an toàn. Nhưng những từ anh nói sau đó ngăn cô lại: “Với cái váy ấy, hẳn cô sẽ nhận được 2 lời cầu hôn nữa trước khi bay tới Dallas. Tôi không muốn bảo cô nên sống thế nào, Chúa biết tôi đã làm đảo tung đời mình lên như thế nào rồi đấy, nhưng lần sau cô nên suy nghĩ đôi chút trước khi có vị hôn phu tiếp theo.”
Cô yêu anh nhiều đến mức đau đớn, vậy mà anh chẳng bận tâm nếu cô có lấy một người đàn ông khác. Cái đêm họ ở cùng nhau chẳng có ý nghĩa gì với anh cả.
“Tôi rất vui được biết cô, Georgie ạ,” anh nói rồi quay mặt đi.
“John!” Tên anh bật ra từ môi cô, vượt qua cả niềm kiêu hãnh.
Anh quay lại và vẻ mặt cô hẳn đã để lộ tất cả những gì cô cảm thấy trong lòng. Anh thở dài kiên nhẫn. “Tôi không bao giờ muốn làm cô tổn thương, nhưng tôi đã nói với cô ngay từ đầu rồi đấy, tôi sẽ không hủy hoại vị trí của mình trong đội Chinooks vì cô đâu.” Anh dừng lại, rồi nói, “chuyện này là khách quan thôi.” Rồi anh quay bước đi, dọc vỉa hè và ra khỏi cuộc đời cô.
Tay Georgeanne bắt đầu nhức, cô nhìn xuống cái va li du lịch mình đang nắm chặt. Các khớp ngón tay trắng nhợt và cô nới lỏng tay cầm.
Khói xả xe hơi mù mịt khiến cô nôn nao, cuối cùng cô cũng quay người bước vào sân bay. Cô phải rời khỏi nơi này. Cô phải đi xa nhưng không biết phải đi đâu. Cô cảm thấy toàn bộ mạch điện trong mình đều quá tải và cố gạt mọi thứ ra khỏi đầu. Cô tìm thấy quầy bán vé của hãng Delta, và bảo người phụ trách làm thủ tục rằng cô không có hành lý gì để mà kiểm tra. Một tay cầm vé, tay kia xách vali, cô quay đi.
Cô bước qua các gian hàng lưu niệm, nhà hàng và biển báo thông tin chuyến bay. Nỗi đau bủa vây cô, đè nặng như một đám mây đen dày đặc. Cô cụp mắt xuống, tin chắc rằng nỗi đau trong tim cô hiện đang rõ trên mặt, biết chắc chắn rằng nếu người ta nhìn gần cô người ta sẽ thấy sự thật.
Họ sẽ nhận ra chẳng ai sống trên đời này lại đi màng đến Georgeanne Howard khốn khổ. Ở bang nay hay bất kỳ bang nào khác cũng vậy. Cô đã rời bỏ người bạn duy nhất của mình, Sissy và nếu Georgeanne chết sẽ chẳng có lấy nổi một người nào thèm đếm xỉa tới,mà nếu có thì cũng chẳng thật lòng. Ôi dì Lolly có thể sẽ làm như bà đau đớn lắm. Bà sẽ làm món thạch xanh lè ấy cho đám tang của cô và khóc lóc ra chiều không phải mình đang ngấm ngầm nhẹ nhõm khi không phải cảm thấy có trách nhiệm với Georgeanne. Georgeanne thoáng tự hỏi liệu mẹ cô có đau buồn không, nhưng rồi cô biết câu trả lời trước khi kịp nghĩ xong. Không. Billy Jean sẽ không bao giờ đau buồn vì đứa con mà bà ta không bao giờ muốn có.
Cô bước vào phòng chờ của hãng hàng không Delta vừa đúng lúc không còn kìm nổi lòng mình. Cô ngồi quay mặt ra dãy cửa sổ, gạt tờ Seattle Times sang bên và để chiếc va li du lịch của mình lên chiếc ghế bọc vilny bên cạnh. Khi cô nhìn ra đường băng, hình ảnh của mẹ cô hiện ra trước mắt, nhắc cô nhớ tới lần duy nhất trong đời cô gặp Billy Jean.
Đó là ngày đưa tang bà, và cô ngước mắt từ quan tài nhìn chăm chú vào gương mặt của một phụ nữ thanh lịch với mái tóc nâu hợp thời và đôi mắt xanh lá. Cô sẽ không biết người phụ nữ ấy là ai nếu Lolly không nói cho cô. Bất giác nỗi đau trong cái chết của bà cô hòa trộn lẫn lòng cảm kích, niềm vui, niềm hy vọng và vô vàn những cảm xúc mâu thuẫn trong lòng. Cả cuộc đời mình, Georgeanne đã mong đợi biết bao khoảnh khắc được gặp mẹ.
Lớn lên cô vẫn được kể lại rằng khi ấy Billy Jean còn trẻ và rằng chỉ đơn giản bà chưa muốn có con. Vì vậy Georgeanne đã mơ tới cái ngày mẹ cô đổi ý.
Nhưng đến khi bước vào tuổi niên thiếu, Georgeanne đã từ bỏ giấc mơ đoàn tụ. Cô phát hiện ra rằng bấy giờ Billy Jean Howard đã trở thành Jean Obershaw, vợ của nghị sỹ đại diện cho bang Alabama, Leon Obershaw và là mẹ của 2 đứa bé. Cái ngày cô biết về gia đình khác của mẹ là ngày cô phải đối diện với thực tế nghiệt ngã. Bà đã nói dối cô. Billy Jean thực sự muốn có con, chỉ là bà ta thật sự không muốn có cô.
Tại đám tang của bà, khi rốt cuộc Georgeanne cũng được tận mắt nhìn thấy Billy Jean, cô đã nghĩ mình sẽ không cảm thấy điều gì. Cô kinh ngạc nhận ra rằng trong sâu kín trái tim mình, cô vẫn ấp ủ ảo tưởng về một người mẹ đầy yêu thương. Cô vẫn mơ ước mẹ sẽ lấp đầy những khoảng trống trong lòng cô. Tay Georgeanne run run và đầu gối cô bủn rủn khi cô tự giới thiệu mình với người đàn bà đã bỏ rơi cô ngay sau khi sinh cô. Cô nín thở… chờ đợi… khao khát. Nhưng Billy Jean gần như không thèm để mắt tới cô khi bà ta nói, “Ta biết cô là ai.” Rồi bà ta bỏ ra phía sau nhà thờ. Sau tang lễ bà biến mất, hẳn là trở về với chồng con. Trở về với cuộc sống của bà.
Thông báo chuyến bay của hãng Delta đang chuẩn bị cất cánh kéo Georgeanne khỏi miền hoài niệm. Hành khách đã bắt đầu chật kín phòng đợi nên cô chộp lấy chiếc vali đặt lên lòng mình. Một bà lão tóc trắng xoăn búi chặt bận chiếc áo rộng thùng thình vải polyester tìm đường tới chỗ chiếc ghế còn đang trống. Theo thói quen, Georgeanne tự động với lấy tờ Seattle Times rồi bỏ nó khỏi chỗ của bà. Cô để tờ báo lên vali, rồi lại quay ra cửa sổ nhìn xe móc và xe chở hành lý. Bình thường Georgeanne sẽ mỉm cười và có lẽ sẽ trò chuyện vui vẻ với bà. Nhưng giờ cô cảm thấy khó ở. Cô nghĩ về đời mình và việc mình cứ bị hút về phía những người không thể đáp lại tình yêu của cô.
Chưa đầy một ngày cô đã phải lòng John Kowalsky. Những cảm xúc trong cô dành cho anh đến quá nhanh khiến chình bản thân cô cũng khó lòng tin. Nhưng cô biết tình yêu đó là thật. Cô nghĩ tới đôi mắt màu xanh lam của anh và lúm đồng tiền hằn sâu bên má phải mỗi khi anh mỉm cười. Cô nghĩ tới vòng tay mạnh mẽ ôm quanh cô, đem lại cho cô cảm giác an toàn.Nếu nhắm mắt lại cô có thể cảm thấy bàn tay anh nơi mông cô, nhấc cô lên nóc tủ trưng bày đồ sứ tựa như cô nhẹ bẫng. Chưa người đàn ông nào khác cô từng biết, thậm chí cả những người tình cũ mà cô tưởng mình đã yêu, từng đem lại cảm giác như John.
Đáng lẽ ra cô nên báo trước với tôi rằng cô thật hoàn hảo mới phải chứ, anh nói, khiến cô cảm giác như mình là nữ hoàng trong lễ hội San Antonio Fiesta. Không người đàn ông nào từng khiến cô thấy mình được khao khát đến vậy. Không người đàn ông nào từng khiến cô đớn đau như thế.
Mắt cô lại bắt đầu cay, tầm nhìn trở lên nhạt nhòa. Gần đây cô toàn đưa ra những quyết định ngớ ngẩn cho đời mình. Tệ nhất là quyết định kết hôn với người đàn ông đáng tuổi ông cô. Kế đến là chạy trốn khỏi đám cưới như kẻ đớn hèn. Nhưng rơi vào lưới tình với John không phải là quyết định, chỉ là tự dưng thế thôi.
Một giọt nước mắt lăn xuống má và cô lau đi. Lúc này cô phải quên John, cô phải tiếp tục sống cuộc đời mình.
Cuộc đời nào đây? Chờ đợi cô phía trước là cuộc sống không nhà và không việc làm. Cô không có một gia đình thực sự để mà nhắc tới, còn người bạn duy nhất có thể bây giờ đã ghét cô. Tất cả quần áo của cô đều ở chỗ Virgil và trong đầu cô biết rõ ông ta sẽ khinh miệt cô. Người đàn ông cô yêu thì đã bỏ rơi cô bên lề đường mà không ngoảnh lại.
Cô chẳng có gì và chẳng có ai ngoài chính bản thân mình.
“Xin hãy chú ý,” một giọng nữ thông báo, “những hành khách mua vé đi trên chuyến bay 624 của hãng Delta, sân bay quốc tế Dallas – Fort Worth xin hãy chuẩn bị lên máy bay trong mười lăm phút tới.”
Georgeanne nhìn vào tấm vé trong tay. Mười lăm phút, cô nghĩ. Mười lăm phút trước khi cô lên chiếc máy bay đưa mình trở lại điểm không. Sẽ chẳng có ai ở đó chào đón cô. Cô chẳng có ai. Chẳng ai quan tâm tới cô. Chẳng ai bảo cô phải làm gì.
Chẳng ai ngoài chính bản thân cô. Chỉ có Georgeanne.
Nỗi hoang mang làm lòng cô thắt lại, cô nhìn trân trân vào tờ Seattle Times trên chiếc vali để trên đùi. Cô có thể cảm thấy xúc cảm chất chứa đến quá tải ngay dưới da mình. Cô dán mắt vào tờ báo để ngăn mình không đoản mạch. Đôi môi mấp máy khi cô chậm chạp đọc mục rao vặt.
Tấm biển nhà hàng Ẩm thực Heron xộc xệch lệch hẳn sang phải. Đêm bão hôm thứ ba quăng quật nó xoay tít cho tới khi một mắt xích treo bật tung ra. Lúc này con chim phượng hoàng to lớn sơn trên tấm biển trông chẳng khác nào đang giữa đà đâm bổ xuống lề đường. Những khóm đỗ quyên trồng hai bên cửa sống sót qua trận cuồng phong, nhưng đám phong nữ đỏ treo rủ phía trên thì hầu như chỉ còn là quá vãng.
Bên trong tòa nhà nhỏ bé, mọi thứ được bài trí theo trật tự hoàn hảo. Văn phòng phía trước nhà hàng từng là một cửa hàng bách hóa này có một chiếc bàn giấy và một chiếc bàn tròn. Trên tường treo một bức tranh lớn hình hai người mặc quần áo cùng màu có khuôn mặt giống hệt nhau. Mỗi người giữ một đầu một tờ đô la. Trong bếp là một máy cắt lát mỏng, máy nghiền công nghiệp và nồi chảo inox sáng bóng. Vài món làm sẵn theo thực đơn để trên khay trong tủ lạnh, trong khi chiếc lò nướng hai tầng chiếm cứ góc đối diện.
Cô chủ nhà hàng đứng trong phòng tắm với chiếc chun buộc tóc màu xanh lam kẹp giữa môi. Ngọn đèn huỳnh quang kêu o o chập chờn hắt chút màu xám nhạt lên khuôn mặt của Mae Heron. Cô dõi đôi mắt nâu nhìn chăm chú vào hình ảnh phản chiếu của mình lên chiếc gương phía trên bồn rửa khi chải những lọn tóc vàng thành bím tóc đuôi ngựa buộc cao.
Mae là hình ảnh tiêu biểu của một cô gái chỉ dùng xà phòng Ivory. Cô không dùng bất cứ loại chất làm sạch da dạng lỏng hay nước hoa hồng hay loại kem dưỡng đắt tiền nào. Cô ghét cảm giác bôi son trát phấn trên mặt. Thỉnh thoảng cô có đánh một chút mascara nhưng vì ít khi làm thế nên không giống như Ray, cô chẳng biết đánh thế nào cho đẹp. Ray thì lúc nào cũng giỏi chuyện ăn mặc, trang điểm.
Mae xoay người nhìn mặt nghiêng của mình trong gương rồi đưa tay vuốt thẳng một chỗ tóc phùng lên trên đầu. Có lẽ cô sẽ tháo cột tóc buộc đuôi ngựa ra nếu không có tiếng chuông cửa trước vang lên báo hiệu người khách Mae mong đợi đã đến. Candace Sullivan là khách hàng thường xuyên của nhà hàng Heron, và bà đã gọi cho Mae về việc tổ chức lễ kỷ niệm ngày cưới lần thứ 50 của bố mẹ bà. Candace là vợ của một bác sĩ chuyên khoa tim đáng kính. Bà ta giàu có và là niềm hy vọng cuối cùng của Mae để giữ cho ước mơ của cô và Ray sống mãi.
Cô nhìn xuống kiểm tra để chắc chắn chiếc áo phông màu lam có cổ đã được nhét gọn trong chiếc quần lửng kaki chưa rồi hít một hơi thật sâu. Trong công việc kinh doanh cô không giỏi lắm phần này. Săn đón để lấy lòng khách và tán gẫu với khách là sở trường của Ray. Cô là kế toán – nhân viên kế toán. Cô không giỏi giao thiệp với mọi người. Cô đã mất cả tối hôm trước và gần như cả ngày hôm nay loay hoay với những con số cho tới khi hai mắt hoa lên, nhưng dù điều chỉnh số liệu thế nào đi nữa, nếu công việc kinh doanh nhận đạt tiệc mà cô và Ray mở ba năm trước không sớm thu được một lượng kha khá tiền mặt để quay vòng vốn, cô sẽ phải đóng cửa. Cô cần bà Sullivan; cô cần tiền của bà ta.
Mae với lấy chiếc bì thư trên bồn rửa có để sẵn thực đơn bên trong rồi ra khỏi phòng tắm. Cô đi qua bếp rồi đứng khựng lại ngay ngưỡng cửa đi vào văn phòng. Người phụ nữ trẻ đứng trong phòng chẳng mảy may có nét gì giống bà Sullivan. Thực ra cô ta trông như một kẻ trốn khỏi Playboy Mansion. Cô ta là tất cả những gì Mae không có: cao, ngực lớn, mái tóc dày màu sẫm và làn da rám nắng tuyệt đẹp.Mae chỉ có thể nghĩ tới mặt trời và rằng cô ta đã tắm nắng đến khi đạt được sắc rám đỏ tuyệt đẹp của món tôm hùm. “À… tôi giúp gì được cô đây?”
“Tôi đến xin việc”, cô ta trả lời với giọng đặc sệt miền Nam. “Phụ tá bếp trưởng.”
Mae liếc nhìn tờ báo người phụ nữ cầm trong tay, rồi lại đưa ánh mắt chằm chằm nhìn lên chiếc váy xa tanh hồng có chiếc nơ bướm to màu trắng. Hẳn là em trai Ray của cô sẽ yêu chiếc váy ấy lắm. Có khi cậu còn muốn mặc nó. “Cô đã bao giờ làm công việc nhận đặt tiệc chưa?”
“Chưa nhưng tôi là một đầu bếp giỏi.”
Nhìn dáng vẻ cô ta thì Mae thật lòng khó tin được là cô ta biết cách đun nước sôi. Nhưng hơn ai hết cô hiểu rằng không nên đánh giá một người qua màu sắc bộ đồ dạ tiệc mà anh ta hay cô ta mặc. Bao năm nay cô đã luôn dang tay bảo vệ cậu em song sinh khỏi những con người thô lỗ từng phán xét cậu một cách nghiệt ngã, trong đó có cả người thân trong chính gia đình cô.
“Tôi là Mae Heron,” cô nói.
“Rất hân hạnh, cô Heron.” Người phụ nữ để tờ báo lên chiếc ban cạnh cửa, rồi bước thẳng tới chỗ Mae và bắt tay cô. “Tôi là Georgeanne Howard.”
“Ồ, Georgeanne, tôi sẽ nhận đơn xin việc của cô,” cô vừa nói vừa bước tới sau bàn giấy. Nếu cô nhận được hợp đồng đặt tiệc này của bà Sullivan, cô sẽ cần phụ bếp, nhưng cô thực sự không chắc có nên thuê người phụ nữ này không. Không chỉ vì cô thích tuyển những đầu bếp giàu kinh nghiệm mà còn bởi cô băn khoăn về đầu óc của bất kỳ ai khi đi xin việc bếp núc lại đi mặc một chiếc váy khêu gợi.
Dù không định tuyển Georgeanne, cô vẫn nghĩ nên để cô ta điền vào đơn xin việc rồi sẽ loại sau. Cô đang lục lọi ngăn kéo cuối cùng thì chuông cửa reo lần nữa. Cô ngước lên và nhận ra bà khách giàu có. Giống như phần lớn phụ nữ tham gia câu lạc bộ thể thao ngoài trời, chơi tenis và uống coktail, kiểu tóc của bà Candace Sullivian mô phỏng một chiếc mũ bảo hiểm màu bạch kim. Trang sức của bà là thật, móng thì giả, và bà là điển hình của những phụ nữ lắm tiền nhiều của mà Mae từng phục vụ. Bà ta lái chiếc xe tám-mươi-ngìn-đô-la nhưng lại lèo nhèo mãi về giá quả mâm xôi. “Xin chào, Candace. Tôi đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng cho bà cả rồi.” Mae chỉ tới chiếc bàn tròn có để ba cuốn album ảnh. “Sao bà không ngồi xuống và chút nữa tôi sẽ tới làm việc với bà.”
Bà Sullivian dứt cái nhìn tò mò khỏi cô gái mặc váy hồng rồi mỉm cười với Mae. “Cơn bão hôm thứ Ba có vẻ đã tàn phá nặng nề bên ngoài nhà hàng của cô nhỉ,” bà ta vừa nói vừa ngồi xuống.
“Hẳn vậy rồi.” Mae biết là cô phải sửa lại tấm biển và mua thêm cây mới, nhưng ngay lúc này thì cô không có tiền. “Cô có thể ngồi đây,” cô nói với Georgeanne, và đặt tờ khai xin việc lên bàn. Rồi, tay cầm bì thư, cô bước sang bên kia căn phòng tới ngồi bên chiếc bàn tròn. “Tôi đã lên vài thực đơn cho bà chọn lựa. Khi nói chuyện điện thoại, chúng ta đã bàn sẽ chọn món vịt làm món khai vị.” Cô lôi tờ thực đơn ra khỏi bì thư, đặt chúng lên bàn, và chỉ vào sự chọn lựa đầu tiên. “Với món vịt quay, tôi xin đề nghị món cơm gạo dại với rau trộn hoặc đậu xanh. Một khoanh bánh mì nhỏ sẽ…”
“Ồ tôi không biết nữa,” Bà Sullivian thở dài.
Mae đã chuẩn bị cho tình huống này. “Tôi có để sẵn mẫu trong tủ lạnh cho bà thử.”
“Không, cám ơn. Tôi vừa ăn trưa rồi.”
Nén cơn cáu kỉnh, cô di ngón tay tới lựa chọn tiếp theo cho món ăn kèm. “Có lẽ bà sẽ thích hầm măng tây hoặc Atiso …”
“Không”, Candace cắt ngang. “Tôi không nghĩ vậy. Tôi không thích ý tưởng về món vịt nữa.”
Mae chuyển sang thực đơn khác. “Không sao. Thế còn sườn bò thượng hạng chấm nước xốt thịt, khoai tây rán, đậu xanh,…”
“Tôi đã đến dự ba bữa tiệc trong năm nay với món sườn bò thượng hạng rồi. Tôi muốn cái gì đó khác lạ. Cái gì đó đặc biệt. Ray thường nảy ra những ý kiến tuyệt vời nhất.”
Mae lật đi lật lại các trang giấy trước mặt mình và đưa tờ thực đơn thứ ba lên đầu. Ai cũng biết cô là người ít kiên nhẫn và không có năng khiếu trong chuyện này. Cô không giỏi làm việc với những khách hàng kén cá chọn canh, những người chẳng biết mình muốn gì trừ việc họ không thích bất cứ gợi ý nào mà cô đã làm việc cật lực để đưa ra cho họ. “Vâng, Ray thật tuyệt,” cô nói và cồn cào nhớ em trai mình như thể một phần nào đó trong trái tim và tâm hồn cô đã chết sáu tháng trước đây.
“Ray tuyệt nhất,” bà Sullivian tiếp tục. “Dù cậu ta là một …ồ … cô biết đấy.”
Phải Mae biết và nếu Candace không cẩn thận, bà ta sẽ thấy mình bị tống ra khỏi cửa. Dù Ray không còn có thể bị tổn thương vì bất cứ điều gì nghiệt ngã, Mae cũng sẽ không dung thứ cho điều đó. “Bà đã nghĩ gì tới món bít tết dày chưa?” cô vừa hỏi vừa chỉ vào thực đơn gợi ý thứ ba.
“Chưa,” Candace trả lời. Rồi trong vòng chưa đầy mười phút bà ta gạt phăng tất cả các ý tưởng cảu Mae. Mae muốn giết bà ta nhưng lại phải tự dặn lòng rằng mình cần tiền của bà ta.
“Tôi mong đợi điều gì đó độc đáo hơn một chút cho lễ kỷ niệm lần thứ 50 ngày cưới của cha mẹ tôi. Vậy mà cô đã chẳng đưa ra được cho tôi bất cứ món gì đặc biệt cả. Tôi ước gì Ray ở đây. Cậu ấy hẳn sẽ nảy ra được ý tưởng nào đó hay ho.”
Tất cả các thực đơn Mae cho bà ta xem đều tuyệt cả. Thực ra thì chúng đều được lấy ra từ tập thực đơn của Ray. Mae cảm thấy mình đang bốc hỏa nhưng vẫn phải dằn lòng hỏi bà ta với vẻ nhã nhặn hết mức, “Trong đầu bà có ý tưởng nào chăng?”
“Ồ tôi không biết nữa. Cô là người chuyên nhận đặt tiệc cơ mà. Cô phải sáng tạo chứ.”
Nhưng Mae chưa bao giờ là người sáng tạo.
“Tôi chẳng thấy có món nào đặc biệt cả. Cô còn món nào khác nữa không?”
Mae với lấy một cuốn album rồi mở ra. Cô không nghĩ Candace sẽ tìm được thứ gì đó khiến bà ta thỏa lòng. Cô biết chắc chắn rằng lý do duy nhất đển Sullivian đến đây là làm cô sầu não. “Đây là hình ảnh các món ăn mà chúng tôi phục vụ. Có lẽ bà sẽ thấy cái gì đó bà thích.”
“Tôi cũng mong là thế.”
“Xin lỗi,” cô gái mặc váy hồng ngồi bên bàn giấy chen ngang. “Tôi không thể không nghe hai người nói chuyện. Có lẽ tôi có thể giúp được.”
Mae thậm chí còn quên mất là Georgeanne cũng ở trong phòng và quay lại nhìn cô.
“Bố mẹ bà hưởng tuần trăng mật ở đâu?” Georgeanne hỏi từ chỗ ngồi sau bàn giấy.
“Ý”, Candace đáp.
“Umm.” Georgeanne đặt đầu bút lên vành môi dưới căng mọng của mình. “Bà có thể khai vị với món pappa col Pomodoro,” cô tư vấn, Tiếng Ý của cô nghe thật đặc biệt với ngữ điệu miền nam kéo dài tất cả các nguyên âm. “Rồi đến món thịt lợn rán kiểu Florence ăn kèm với khoai tây, cà rốt, cùng một lát dày bành mì nướng dưới dầu ôliu và tỏi. Hoặc nếu bà thích vịt hơn, ta có thể làm theo phong cách Arezzo với mì ống và xa lát tươi.”
Candace nhìn Mae rồi lại nhìn người phụ nữ kia. “Mẹ tôi nghiền món mì ống lasagne ăn kèm xốt húng quế.”
“Lasagna ăn kèm xalat cải bắp đỏ radicchio sẽ thật hoàn hảo. Rồi bà có thể tráng miệng với chiếc bánh mơ kỷ niệm ngon tuyệt.”
“Bánh mơ?” Candace hỏi, giọng nghe có phần kém nhiệt tình. “Tôi chưa bao giờ nghe đến nó cả.”
“Món này thì tuyệt vời,” Georgeanne xuýt xoa.
“Cô chắc chứ?”
“Hoàn toàn chắc.” Cô nhoài người tời trước chống khuỷu tay lên bàn. “Bà Vivian Hammond thuộc dòng họ Hammond ở San Antonio thích món bánh mơ này đến điên lên. Mê nó tới mức trong một cuộc họp thường niên của CLB Hoa Hồng Vàng, bà ta đã phá vỡ truyền thống một trăm ba mươi năm để mời các quý bà thưởng thức món này đấy,” Mắt cô nheo lại và giọng cô hạ thấp xuống như thể cô đang chia sẻ chuyện dưa lê nóng nhất. “Bà thấy đấy, trước Vivian, cái CLB ấy lúc nào cũng phục vụ món bánh chanh trong các cuộc họp, chanh có màu như hoa hồng vàng ấy, đại loại thế.” Cô dừng lại, tựa người ra sau ghế rồi nghiêng đầu sang một bên. “Cố nhiên thì mẹ bà ta thì bị bẽ mặt.”
Mae nhíu thấp hàng lông mày rồi nhìn trân trân vào Georgeanne. Ở cô có cái gì đó thân thuộc mơ hồ. Cô không thể chỉ ra điều đó rõ ràng, và băn khoăn tự hỏi liệu trước đó họ từng gặp nhau chưa.
“Thật sao?” Candace hỏi. “Sao bà ta không phục vụ cả 2 món nhỉ?”
Georgeanne nhún đôi vai trần. “Ai mà biết được chứ. Vivian là người phụ nữ kỳ lạ.”
Georgeanne càng nói, cảm giác thân quen trong Mae càng lớn dần lên.
Candace nhìn đồng hồ rồi nhìn Mae. “Tôi thích ý tưởng về đồ ăn Ý, và tôi sẽ cần một chiếc bánh mơ kỷ niệm đủ lớn cho khoảng 100 người ăn. Cho tới khi bà Sullivian ra khỏi tòa nhà thì Mae đã có kế hoạch lên thực đơn, một tờ hợp đồng đã ký, một tấm sec đặt cọc. Cô đứng tựa vào bàn và khoanh tay dưới ngực.
“Tôi có vài câu hỏi cho cô,” cô nói. Khi Georgeanne ngước lên từ tờ đơn xin việc cô đang vờ nghiên cứu, Mae nhìn vào tờ thực đơn đang cầm trong tay. “Pappa col Pompdoro là món gì thế?”
“Xúp cà chua.”
“Cô biết làm món đó chứ?”
“Tất nhiên rồi. Món này dễ làm thôi.”
Mae đặt tờ thực đơn lên bàn cạnh hông phải mình. “Cô đã bịa ra chuyện về chiếc bánh mơ phải không?”
Georgeanne cố trông có vẻ hối hận, nhưng khóe miệng cô hơi nhếch lên thành một nụ cười. Georgeanne cũng là nghệ sỹ nửa mùa và ngoan cố giống như Ray trước đây. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi cô cảm thấy sự trống rỗng trước cái chết của em trai thoáng vơi đi phần nào. Mae đẩy mình khỏi chiếc bàn và bước tới chỗ chiếc bàn giấy chỗ Georgeanne. “Cô đã bao giờ làm phụ bếp hay phục vụ chưa?” cô hỏi và liếc nhìn xuống tờ đơn xin việc.
Georgeanne vội lấy tay che nhưng Mae vẫn kịp nhận ra kỹ năng viết rất kém của cô ta, và ở dòng công việc dự định tuyển cô ta viết là phụ tá bếp chưởng thay vì bếp trưởng.
“Tôi từng làm phục vụ ở nhà hàng Luby trước khi làm ở nhà hàng Dillard, và tôi đã học hầu như tất cả các lớp nấu ăn.”
“Cô đã bao giờ làm việc gì như là nhận đặt tiệc chưa?”
“Chưa, nhưng tôi có thể nấu bất cứ món nào từ ẩm thực Hy Lạp đến Tứ Xuyên, từ món tráng miệng Trung Đông sang món sushi Nhật Bản, và tôi thật sự giỏi giao thiệp với mọi người.”
Mae nhìn Georgeanne và hy vọng mình không mắc sai lầm. “Tôi còn một câu hỏi cuối. Cô có muốn một công việc nào đó không?”
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.