Hồi Ký Của Một Tay Súng Bắn Tỉa
Chương 13. Trận chiến ở Mogadishu
Khi trở về chúng tôi thấy mọi người đang tập trung khá đông. Cánh trực thăng đang quay tít, xe Humvee vào vị trí sẵn sàng và mọi người đều đã lắp hộp tiếp đạn vào súng. Mặc dù ánh nắng mặt trời đang rọi tia sáng qua bầu trời trong xanh, nhưng tôi biết không phải các binh lính này đi picnic. “Cái quái gì đang diễn ra ở đây vậy?”
Chỉ huy trưởng Olson tiến về phía chúng tôi trước khi chúng tôi bước xuống chiếc “Humvee chế” của mình. Chiếc xe này nguyên dạng là chiếc Humvee nhưng đã được chúng tôi bỏ mui và các cửa. Nó không được bọc lớp thép đặc biệt và còn có tên gọi là xe chở quân/hàng hóa M-998. Tuần trước, một nhóm kỹ sư từ Mỹ đã sang lắp tấm thép chống đạn vào gầm xe để chống mìn bộ binh và mìn phân mảnh. Tôi ngồi ở ghế lái cùng với Casanova, trong tay là một khẩu súng ngắn. Ghế sau tôi là Gã Mập lùn và Sourpuss. Phía sau họ là hai băng ghế chạy dọc theo xe là hai quân nhân khác. Tôi nghĩ họ là các biệt kích Ranger, nhưng cũng có thể họ là các đặc nhiệm Delta. Hơn nữa, lính biệt kích Ranger thường ở vị trí điều khiển súng máy cỡ nòng 0,50 caliber.
Chỉ huy trưởng Olson phổ biến nhanh nhiệm vụ cho chúng tôi trong vòng vài phút “Các bạn sẽ tham gia với tư cách là lực lượng đánh chặn. Lực lượng Delta sẽ đu dây xuống và tấn công tòa nhà. Các bạn sẽ bắt các tù binh, rồi nhanh chóng rút khỏi đó”. Thông thường việc quán triệt nhiệm vụ này phải kéo dài khoảng một tiếng rưỡi. Lực lượng Delta, Ranger và những người khác cũng nhận quán triệt nhiệm vụ, nhưng chúng tôi sau đó đã quên béng điều này. Mặc dù, nhiệm vụ khá quan trọng và lẽ ra chúng tôi phải có thời gian để tự quán triệt nhiệm vụ, nhưng nó lại xảy ra quá bất ngờ, trong khi chúng tôi đang đi lắp các thiết bị tiếp sóng cho CIA. Chỉ huy trưởng Olson vỗ vỗ vào vai tôi rồi nói “Không nên để mất nhiều thời gian. Chúc may mắn. Gặp lại nhau khi các anh trở về.”
Mỗi chiếc trực thăng Little Bird AH-6J đều chở bốn lính bắn tỉa, ngồi hai bên cửa và các rocket dưới gầm máy bay. Hai chiếc Little Bird AH-6J, được vũ trang súng máy cỡ nòng 7,62 li và rocket 6,8 li, yểm trợ mặt trước tòa nhà mục tiêu từ trên không, trong khi hai chiếc còn lại bay phía sau. Phi đội Charlie của Delta sẽ nhanh chóng đu dây xuống từ hai chiếc Little Bird MH-6 và tấn công tòa nhà.
Cùng tham gia là tám chiếc Black Hawk bay phía sau. Hai chiếc chở lực lượng tấn công của Delta. Bốn chiếc chở biệt kích Ranger. Một chiếc bay lượn phía trên và chở đội tìm kiếm và giải cứu. Chiếc thứ tám chở hai Chỉ huy chỉ đạo chiến dịch − một người điều phối hiệp đồng tác chiến giữa các phi công và người còn lại chỉ đạo lực lượng trên mặt đất.
Ba chiếc trực thăng Kiowa OH-58 với quả cầu đen được gắn trên cánh quạt không lẫn vào đâu được, có nhiệm vụ bay phía trên mục tiêu. Quả cầu đen là một con mắt, bên trong có hệ thống truyền hình, hệ thống thu hình bằng nhiệt và radar dò tìm nhằm chuyển hình ảnh và âm thanh các hành động dưới mặt đất về cho Tướng Garrision ở Trung tâm Hoạt động Chung (JOC). Bay trên cùng là một chiếc máy bay trinh sát P-3 Orion.
Tôi đánh xe vào vị trí thứ ba trong đoàn xe. Đằng sau đoàn xe Humvee của chúng tôi là ba chiếc xe tải thùng trọng tải năm tấn và khóa đuôi là năm chiếc xe Humvee khác. Biệt kích Ranger ngồi ở hầu hết tất cả các xe. Tổng cộng tất cả có 19 máy bay, 12 xe ô tô và 160 quân tham gia chiến dịch lần này.
Người của Aidid đã chứng kiến cách chúng tôi tác chiến trong sáu lần trước đó và lần này chúng tôi tác chiến giữa ban ngày, ngay trong lãnh địa của chúng. Giờ này, nhiều quân lính của Aidid hẳn vừa nhai xong lá Khat. Tinh thần của chúng đang hăng chứ không rơi vào trạng thái uể oải như lúc tối muộn. Sự mạo hiểm luôn đòi hỏi những hành động táo bạo. Những người không chấp nhận mạo hiểm hẳn là những kẻ ngốc. Một phần công việc của chúng tôi là phải biết chấp nhận rủi ro và mạo hiểm.
Lúc 3 rưỡi chiều, các máy bay trực thăng cất cánh trước, bay men theo bờ biển. Khi nhận được mật lệnh “Chim trời đã vào đất liền”, chúng tôi sẽ xuất phát. Tôi không hề run sợ bởi đây là hoạt động thường xuyên đối với tôi.
Trên đường, chiếc Humvee đi đầu rẽ nhầm hướng. Nhưng không xe nào đi sau nó rẽ theo cả. Chiếc xe đi đầu sẽ bắt kịp mọi người. Chúng tôi tăng tốc theo hướng đông bắc xuyên qua Gesira. Trước khi đến ngã tư K4, chúng tôi vấp phải hỏa lực lẻ tẻ của đối phương. Đột nhiên Gã Mập lùn hét lên: “Mẹ kiếp, tôi trúng đạn rồi!”
Phải chăng chúng tôi đang rơi vào ổ mai phục? Phải chăng Gã Mập lùn bị thương vào ngực? Kim đồng hồ đo chỉ số sợ hãi của tôi vẫn gần vạch số không. Gã Mập lùn bị dính đạn chứ không phải tôi. Cũng giống nhau cả thôi, tôi lo lắng cho mạng sống của Gã Mập lùn và tôi bắt đầu cảnh giác hơn.
Tôi rê xe vào bên lề đường phía trên có phần đất nhô ra, nhấn phanh, nhảy xuống phía sau kiểm tra vết thương Gã Mập lùn. Gã Mập lùn nằm lăn dưới sàn xe và phần lưỡi của con dao Randall, gã luôn mang theo bên mình, rơi bên cạnh. Tôi cứ nghĩ sẽ nhìn thấy máu chảy từ một bộ phận nào đó từ cơ thể Gã Mập lùn nhưng rồi tôi chỉ thấy một vết đỏ to trên chân. Một viên đạn của súng AK-47 đã bắn trúng vào làm hỏng con dao và phần lưỡi bật ra bên ngoài. Con dao đã cứu cái chân của Gã Mập lùn.
Đoàn xe vẫn tiếp tục di chuyển trong lúc tôi đậu xe bên đường. Tôi trở lại ghế lái rồi tăng tốc về phía trước, bắt kịp vị trí cũ của mình. Đoàn xe vượt qua ngã tư K4 và đi theo hướng bắc, theo đường Lenin, rồi tiến về hướng đông theo đường quốc lộ. Cuối cùng, chúng tôi rẽ trái vào con đường đất chạy song song và ở phía nam con đường Hawlwadig.
Lúc 4 giờ kém 20, chúng tôi đến gần khách sạn Olympic năm tầng màu trắng. Khi đó, tôi không biết là, cách về phía tây mục tiêu khoảng1,5 km, quân lính của Aidid đang tụ tập tại khu chợ Bakara để nhận vũ khí và đạn dược. Cách khoảng 1,5 km về phía đông, quân nổi dậy đã đến từ lâu. Chúng tôi bị kẹp giữa hai gọng kìm mà không hề hay biết.
Lực lượng tình báo của chúng tôi hẳn đã chế áp điện tử với sóng di động trong một vùng rộng lớn bao quanh mục tiêu. Lợi dụng trận bão cát sa mạc, đặc nhiệm Delta đu dây tụt xuống tòa nhà mục tiêu, một tòa nhà hai tầng màu trắng ở phía trước và ba tầng phía sau, mái có cấu trúc hình chữ L và nhiều cây xanh được trồng trên sân. Đây là một căn cứ của quân Aidid. Lực lượng Delta áp sát cửa ra vào thành hàng ngang, chuẩn bị phá cửa đột nhập và tấn công mục tiêu. Bốn nhóm Ranger − mỗi nhóm có mười hai người – nhanh chóng đu dây xuống và đứng chặn bốn góc xung quanh tòa nhà mục tiêu. Họ đóng vai trò là lực lượng ngăn chặn bảo đảm nội bất xuất, ngoại bất nhập.
Tôi rời chiếc Humvee của mình và chọn vị trí bắn tại một hành lang song song với khách sạn. Phía cuối khách sạn, một tay súng bắn tỉa của đối phương di chuyển phía sau bức tường. Phía trên cùng tòa nhà năm tầng về phía trái, một tay súng bắn tỉa khác di chuyển trên hiên.
Chuyển vị trí bắn đến chỗ khác thuận lợi hơn, nhưng tôi nhận thấy không thể bắn được từ vị trí chúng tôi đang nấp. Tôi nói với một lính bắn tỉa của Delta “Chúng ta buộc phải di chuyển về phía chúng.”
Chúng tôi nhảy lên, tiến về phía trước cách khách sạn chưa đầy 100m. Trong khi chúng tôi còn đang chiếm lĩnh vị trí bắn, kẻ địch đã nhả đạn vào tòa nhà mục tiêu đặc nhiệm Delta đang tấn công. Điều này làm cho tôi cảm thấy hình như chúng đã bố trí để chờ chúng tôi đến. Chúng chuẩn bị rất kỹ càng và vị trí ẩn nấp của các tay súng bắn tỉa thật hoàn hảo. Có lẽ, nguồn tin về chiến dịch tấn công của chúng tôi đã bị rò rỉ.
Tay súng bắn tỉa dưới mặt đất kê súng lên một bức tường, cách chỗ chúng tôi chừng 100 – 150 m, nòng súng chĩa về phía biệt kích Ranger trong đoàn của tôi. Tay súng này chọn vị trí bắn thật hoàn hảo, chỉ nhô lên mỗi phần đầu. Tôi siết cò, bắn trúng vào phần đầu nhô lên của hắn.
Nhờ hành lang, tôi có thể nhìn thấy mái hiên của tòa nhà năm tầng gần bên. Chưa đầy 200m trên tầng năm, có hai tay súng đang dùng AK-47 nã đạn vào phía sau tòa nhà mục tiêu, chỗ lực lượng Delta đang xung kích. Từ chỗ đang đứng, tôi không thể bắn được hai tên này.
Tôi ngoái lại phía sau nói với tay súng bắn tỉa của Delta: “Chúng ta cần tiếp cận hai tên phía trên tầng năm nếu không chuyện tồi tệ sẽ xảy ra.”
Chúng tôi trườn dọc theo hành lang và chiếm lĩnh vị trí bắn phía sau một cột trụ bên phải. Vị trí này vẫn chưa ổn.
Hai tay súng trên tầng năm tiếp tục nhảy ra bắn xối xả vào lực lượng xung kích của Delta rồi lại thụt vào trong.
Viên đặc nhiệm của Delta và tôi tiếp tục di chuyển về phía trước. Sau khi tìm được vị trí bắn tốt, tôi nằm xuống. Các đồng đội bảo vệ sự an toàn xung quanh cho tôi. Tôi di chấm đỏ trên ống ngắm vào vị trí tay súng bên phải vừa nhô lên. Theo thuật ngữ của dân bắn tỉa thì hành động này được gọi là bắn đón đầu − nhằm vào một điểm và đợi mục tiêu xuất hiện. Tương tự, kỹ thuật này có thể áp dụng cho bắn mục tiêu di động − nhắm vào một điểm phía trước đường di chuyển của mục tiêu. Khi tay súng nhô lên, tôi siết cò và viên đạn trúng vào thân trên của gã. Gã đổ vật ra phía sau và không thấy nhô ra lần nào nữa. Tên thứ hai không rút kinh nghiệm từ tên trước đó. Hắn cũng nhô lên và nã đạn như mưa nhưng cũng dính đạn của tôi vào phần thân trên và mất dạng. Nếu tôi không hạ gục được hai tên này, có lẽ chúng đã sát hại nhiều người khác bằng kiểu nã đạn từ các cửa sổ của tòa nhà − kiểu bắn này là cơn ác mộng đối với các đặc nhiệm Delta: Trong khi lực lượng xung kích Delta tập trung tấn công tòa nhà và tìm cách kiểm soát mọi thứ phía trong, bỗng nhiên đạn lại bay ra từ các cửa sổ phía ngoài.
Ít nhất ba mươi phút đã trôi qua kể từ khi chúng tôi đến. Cứ thêm một phút ở lại vùng mục tiêu thì mức độ nguy hiểm lại gia tăng thêm. Lệnh thu quân đã được phát ra qua vô tuyến điện. Trên đường rút lui ra chiếc xe Humvee, tôi bị trúng đạn vào kheo trái, ngã đập mặt xuống đất. Ngay lúc đó, tôi không cử động được nữa. Kim chỉ mức độ sợ hãi dừng ở con số 1 trên 10. Sau đó kim chỉ nhảy lên số 2 rồi số 3. Sự đau đớn làm tôi ngạc nhiên bởi tôi nghĩ mình đã được đào tạo kỹ càng và giỏi hơn tất cả. Mọi người xung quanh tôi có thể bị trúng đạn hoặc thương vong chứ không phải tôi. Ngay cả các tay súng bắn tỉa khác cũng có thể bị bắn hoặc bị thương bởi họ không phải là tôi. Tôi đã được đào tạo tốt hơn. Thậm chí cả những đồng đội SEAL khác có thể bị bắn hoặc bị thương bởi vì họ không phải là tôi. Đó là lý do tại sao bạn bị rơi xuống từ thang dây – bởi bạn không phải là Howard Wasdin. Bạn chưa vượt qua tôi trong khóa học vượt vật cản – bởi bạn không phải là Howard Wasdin. Ngay cả sau lần đầu bị trúng đạn trong trận chiến ở Mogadishu, tôi vẫn rất ngạo mạn.
Dan Schilling CCT, xuất hiện. Casanova đến và bình tĩnh bắn gục một tên địch. Rồi một tên khác nữa. Một bác sĩ bắt đầu chữa trị cho tôi khi Dan nắm lấy dây đeo súng của tôi và kéo tôi ra khỏi vùng chết. Viên bác sĩ nhét miếng gạc loại Kerlix vào chân tôi và buộc lại. Ngay sau đó, tôi đã đi lại được.
Những tên khốn đốt lốp xe ô tô − một hình thức đánh tín hiệu đến chỉ huy của chúng là hãy tăng quân tham chiến và những cột khói đen làm cản trở tầm nhìn của chúng tôi. Du kích quân của Aidid cùng với súng AK-47 bất ngờ xuất hiện từ những cột khói, từ những đường phố và tòa nhà xung quanh – có thể nói là ở mọi nơi. Ngay khi tôi hạ gục được một tên nào đó, ngay lập tức có một tên khác xuất hiện thay thế. Những người phụ nữ không trang bị vũ khí bước ra và đóng vai trò là người chỉ thị các mục tiêu bắn. Họ có nhiệm vụ phát hiện các vị trí của chúng tôi và ra dấu cho các tay súng bắn. Súng chống tăng RPG bắt đầu nhả đạn.
Người của Aidid hét vào loa. Khi đó, tôi không hiểu ý nghĩa của những câu nói đó là “Hãy cút khỏi mảnh đất này và về bảo vệ tổ quốc của các ngươi” nhưng tôi hiểu những lời nói đó hàm ý sự có mặt của chúng tôi gây hại cho họ.
Một chiếc xe tải 5 tấn trong đoàn chúng tôi bốc cháy do bị trúng đạn RPG. Ai đó trong đoàn đã ném lựu đạn phá hủy chiếc xe để không bị rơi vào tay kẻ địch. Chiếc xe bốc cháy bùng bùng.
Lực lượng Delta đẩy khoảng 20 tù binh đã bị trói tay lên hai trong số những chiếc xe tải 5 tấn còn lại. Trong số những tù binh này có cả cố vấn chính trị hàng đầu của Aidid, Ngoại trưởng Omar Salad. Mặc dù, Delta để sổng Qeybdid nhưng lại bắt được thủ hạ có vai trò quan trọng tương đương, Mohamed Assan Awale. Họ cũng trao thưởng cho thủ lĩnh một thị tộc Abdi Yusef Herse vì đã cung cấp tin tức giá trị. Sau khi trở về trại, lực lượng Delta đã giữ lại những nhân vật chủ chốt trong số tù binh và phóng thích số còn lại.
Vào phút thứ 37 của cuộc chiến, trên vô tuyến điện vang lên lời nói “chiếc Black Hawk 61 đã trúng đạn”. Một viên đạn của khẩu RPG đã bắt trúng chiếc trực thăng Black Hawk có treo hình Elvis Presley bên cạnh và bắt sống Velvet Elvis. Cơ trưởng, chuẩn úy Cliff Wolcott, đã từng nhại lại vai diễn của Elvis và là một trong số phi công theo chúng tôi tham gia chiến dịch săn lùng này. Giờ đây, nhiệm vụ của chúng tôi chuyển từ bắt giữ tù nhân sang giải cứu đồng đội.
Chúng tôi lên xe để rút lui. Đưa mắt nhìn vào hành lang, tôi thấy một biệt kích Ranger, khuôn mặt trẻ măng như một cậu bé.
Tôi ngồi trong ghế lái gọi anh ta: “Lên xe nhanh, chúng ta còn đi”.
Cậu lính này vẫn cứ trơ ra đó.
Tôi nhảy xuống xe, chạy đến góc tòa nhà và đá vào cậu ta. Cậu ngước mắt nhìn tôi đầy vẻ ngỡ ngàng.
“Nhanh lên xe đi!”
Cậu ta trèo lên chiếc xe Humvee của mình.
Đôi khi các biệt kích Ranger trẻ tuổi chỉ tập trung vào nhiệm vụ được giao từ đầu nên họ thường mất cái nhìn bao quát toàn cục. Mắt của họ không bắt nhịp với sự thay đổi của điều kiện hoàn cảnh và tai của họ không chú ý đến những mệnh lệnh miệng. Gặp phải tình huống phức tạp làm hệ thần kinh quá tải, họ thường không bắt kịp với những diễn biến thay đổi mau lẹ.
Thật may mắn, sự nghiêm khắc của cha dượng đối với tôi đã giúp rất nhiều trong những tình huống khó khăn như thế này. Ngoài ra, nhờ nhiều tuần huấn luyện gian khổ, nhờ thời gian công tác ở Đội đặc nhiệm số 2, số 6 của SEAL và ở Trường đào tạo lính bắn tỉa, tôi đã trui rèn được khả năng này. Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu. Chiến dịch Bão táp Sa mạc cũng giúp tôi rất nhiều. Tôi đã phát triển được khả năng chịu đựng trong những tình huống hệ thần kinh quá tải. Một số lính Ranger rất trẻ, chỉ mới vừa tốt nghiệp cấp ba vài ba năm nhưng tất cả họ đều chiến đấu vô cùng dũng cảm.
Ngồi cùng xe với tôi có Casanova, Gã Mập lùn và một số người khác nữa. Sourpuss không ngồi cùng xe với tôi. Do quá tập trung vào trận đánh nên tôi quên béng chuyện Sourpuss phải hộ tống đưa một lính Ranger bị thương trở về trước.
Tôi lái xe ra khỏi khu vực mục tiêu theo hướng bắc, đi theo đường Hawlwadig. Tay trái tôi để trên vô lăng, tay phải tôi cầm khẩu CAR-15. Đạn AK-47 bắn vào chúng tôi từ cả bên trái và phải. Khi những viên đạn này bay qua đầu tôi, chúng tạo ra sóng áp lực còn nhanh hơn tốc độ của âm thanh. Tôi nghe thấy một số viên đạn đang bay đến − nhờ vào âm thanh phát ra như tiếng vỗ tay do va chạm giữa hai loại sóng.
Những cột khói trắng tỏa ra, kéo theo là tiếng đạn RPG nổ làm rung chuyển không khí khiến cho không khí có vị cay. Mùi lốp cao su và chất thải cháy bốc lên khét lẹt làm cho Mogadishu hôi thối khủng khiếp chẳng khác gì địa ngục.
Súng máy cỡ nòng 0,50 caliber của chúng tôi nhả đạn, chiếc Humvee lúc lắc và tai chúng tôi chấn động. Tuy nhiên, tiếng súng làm cho mọi người cảm thấy yên tâm hơn. Tôi chẳng mấy cảm nhận được điều này vì tôi còn đang mải quan sát phát hiện địch trong tầm bắn của mình. Các cựu chiến binh SEAL sau này thường nói rằng tiếng súng máy làm họ yên tâm hơn. Chúng tôi được đào tạo, huấn luyện phải sử dụng các yếu tố bất ngờ, tốc độ và hành động vũ lực để giành thắng lợi. Trong đoàn xe, chúng tôi không tạo được bất ngờ với kẻ địch, không thể chạy nhanh hơn chiếc xe Humvee phía trước. Khẩu súng máy cỡ nòng 0,50 caliber tạo cho chúng tôi có hành động vũ lực. Nòng súng lóe sáng trút đạn ra, nhai hết cả bê tông, sắt thép và da thịt – nói theo nghĩa đen là nó phá sập hết các bức tường. Thật vậy, khẩu súng máy có sức sát thương rất khủng khiếp. Thật không may, kẻ địch cũng có loại súng máy cỡ nòng 0,50 caliber này, được bắt vít trên sàn những chiếc xe bán tải ở gara ô tô của Osman Atto. Những chiếc xe tải này lúc ẩn, lúc hiện ở các hành lang nhả đạn vào chúng tôi.
Một khẩu súng máy trên trực thăng nhả đạn vào kẻ địch, phá nát hai bên của một tòa nhà. Quân Somali chạy tán loạn. Một số gào thét, một số choáng váng đứng chôn chân. Xác người chết và xác một con lừa nằm lăn trên mặt đất.
Người của Aidid được trang bị tốt hơn những gì chúng tôi tưởng, họ chiến đấu giỏi hơn chúng tôi nghĩ và có rất nhiều người được trang bị vũ khí tốt hơn chúng tôi dự cảm. Giờ đây tôi lo sợ mình sẽ làm các mật vụ của mình bị nguy hiểm. Trên đồng hồ đo mức độ sợ hãi, kim chỉ vượt qua số 3 và chạm vạch số 5. Bất kỳ ai nói không sợ hãi khi lâm chiến thì hoặc là kẻ điên, hoặc là kẻ nói dối trắng trợn. Tất cả mọi người trở nên sợ hãi. Đó là một nỗi sợ hãi lành mạnh. Tôi không bao giờ muốn sát cánh cùng với những người không có chút sợ hãi nào khi tham chiến. Sự khác biệt giữa một chiến binh với một người thường là ở chỗ người chiến binh có thể kiểm soát nỗi sợ hãi. Người chiến binh phải phát triển khả năng này để kiểm soát nỗi sợ hãi bằng cách tin rằng mình có thể kiểm soát được nỗi sợ hãi. Niềm tin này có được từ việc biết vượt qua nỗi sợ hãi trong những trải nghiệm trước đó, chứng kiến cách đồng đội vượt qua những nỗi sợ hãi kiểu này, biết rằng mình là một chiến binh ưu tú và biến sự sợ hãi thành hành động.
Trong đoàn xe của chúng tôi, xe nào cũng có người bị thương. Chúng tôi vẫn muốn cứu cơ trưởng và phi hành đoàn của chiếc trực thăng bị bắn rơi. Gần một con đường ở đó có hai biệt kích Ranger bị thương đang nằm. Tôi nghĩ, Chẳng biết cái quái gì đang xảy ra với những người Somali này? Chúng tôi đến đây để chấm dứt cuộc nội chiến. Họ đã nhận được lương thực nhưng lại đang giương súng bắn chúng tôi. Chẳng lẽ đây là những cái chúng tôi được đền đáp? Tôi thật không tin nổi điều này. Tôi tấp xe vào lề đường và dừng lại. Người biệt kích Ranger đầu tiên tôi bế lên xe bị thương vào chân. Chúng tôi đưa cậu ta lên phía sau của xe. Rồi chúng tôi đưa người thứ hai lên. Cậu ta bị thương bên má tay – đây không phải là vết thương nặng và không thể làm cậu ta suy kiệt. Trở về ghế lái, tôi ngoái lại phía sau. Cậu biệt kích Ranger bị thương ở chân đang hỗ trợ chúng tôi nạp đạn, trong khi đó cậu còn lại ngồi đó đầu cúi xuống nhìn chằm chằm vào vết thương ở tay.
Người biệt kích Ranger giúp chúng tôi nạp đạn lại bị dính đạn, lần này trúng thương vào vai, nhưng cậu ta vẫn tiếp tục giúp chúng tôi nạp đạn ở phía trước. Rồi một viên đạn nữa trúng vào cánh tay cậu ta. Nhưng cậu vẫn tiếp tục công việc nạp đạn giúp chúng tôi.
Trong khi đó, cậu biệt kích Ranger trúng đạn ở tay vẫn ngồi yên một chỗ, kim chỉ mức độ sợ hãi của cậu ta lên đến số cao nhất, số 10. Cậu là lính Ranger duy nhất tôi thấy suy sụp tinh thần vì cuộc chiến. Phản ứng của cậu là có thể hiểu được − cậu mới chỉ là một cậu bé nhưng lại phải tham gia vào một trận chiến khủng khiếp đến vậy. Ngoại trừ một số Ranger trẻ tuổi và thiếu kinh nghiệm, tất cả đều chiến đấu rất dũng cảm.
Nhấn mạnh chân ga, tôi bắt kịp đoàn xe. Đoàn xe rẽ phải vào con đường đất. Khi chiếc Humvee đi đầu giảm tốc tại ngã tư, các xe sau buộc phải chạy chậm theo. Sau đó, chúng tôi lại quặt phải đi về hướng nam – nhưng khi đến chúng tôi cũng đã đi từ hướng nam.
Tôi vô cùng thất vọng với Trung tá Danny McKnight, chỉ huy hoạt động trên mặt đất, nhưng lúc đó tôi không biết ông chỉ làm theo chỉ thị. Chiếc máy bay trinh sát P-3C Orion có thể thấy được diễn biến nhưng lại không thể trực tiếp thông tin cho McKnight. Nên nó chuyển thông tin về Bộ chỉ huy tại JOC. Tiếp theo, JOC gọi điện cho máy bay chỉ huy. Cuối cùng, máy bay chỉ huy điện đàm cho McKnight. Thời điểm Mcknight nhận được hướng dẫn đổi hướng là lúc chúng tôi đã đi qua con đường đó.
Tất cả những gì tôi biết là chúng tôi lại một lần nữa bị phục kích, thành xe tôi bị bắn thủng lỗ chỗ. Những người ngồi phía sau xe đang bị dính đạn. Thật không thể tin nổi. Tôi muốn nhấn gara khỏi vùng chết, nhưng cũng không thể vượt quá tốc độ của chiếc xe phía trước. Tôi bắn quân địch ở hai bên đường. Cố gắng vừa lái xe vừa bắn vào mục tiêu lúc ẩn lúc hiện ở hai bên đường và ngạc nhiên khi tỷ lệ sát thương vẫn đạt tới 30%.
Quân địch ở các tòa nhà trên tầng hai nhắm bắn chúng tôi. Tôi nhanh chóng lấy đường ngắm, di chấm đỏ vào mục tiêu đầu tiên và bóp cò. Một tên địch bị hạ, rồi lại tên nữa.
Bọn khốn ném những tấm rào chắn đang cháy ra đường và đào rãnh ngang đường để chúng tôi không đi nhanh được. Trong khi tôi đang lách qua các chướng ngại vật, năm người phụ nữ đi sát bên nhau, tay cầm những sợi dây màu sắc, tiến về phía đoàn xe. Khi chiếc Humvee đi đầu đến vị trí những người phụ nữ này, họ kéo váy lên và những tên lính vũ trang đứng phía sau dùng AK- 47, để ở chế độ bắn tự động, nã đạn vào chiếc xe đó. Sau đó, họ cũng áp dụng chiến thuật này với xe của tôi. Lần đầu tiên trong cuộc giao tranh này, tôi chuyển cần gạt sang chế độ bắn tự động. Một tay lái xe, tay kia cầm khẩu CAR-15, tôi bắn hết 30 viên đạn hạ gục hết số phụ nữ này và bốn tên có vũ trang ẩn phía sau. Tôi thực sự không muốn thế và đây chỉ là hành động tự vệ mà thôi.
Sau đó, trên vô tuyến điện, tôi nghe được tin chiếc trực thăng Black Hawk do Mike Durant lái vừa bị một khẩu RPG bắn rơi. Mệnh lệnh đưa ra là trước tiên cứu Velvet Elvis, sau đó di chuyển đến khu vực máy bay thứ hai rơi để cứu Mike.
Chúng tôi dừng lại trên đường tạo thành một hình tròn, nạp đạn và vạch kế hoạch hành động tiếp. Sử dụng băng dính sơ cứu để băng bó vết thương ở vai và tay cho các biệt kích Ranger cùng một số binh lính khác trong xe. Một số lính Ranger trông như những kẻ mất hồn, ánh mắt họ mất hết thần khí.
Một chỉ huy của Delta bước đến. “Tôi trúng đạn. Nhờ cậu xem giúp vai bên này hộ tôi chút.” Một viên đạn đã xuyên qua miếng thép cứng chống đạn trên lưng nhưng vẫn chưa đủ để loại anh ta ra khỏi vòng chiến đấu.
Xạ thủ súng máy cỡ nòng 0,50 caliber ở một chiếc Humvee khác, đã mặc áo chống đạn có thể chống lại được những loại đạn nhỏ. Cẩn thận hơn, cậu còn cho thêm vào ngực miếng thép chống đạn kích thước 10 x 12 cm trước ngực bảo vệ chống lại loại đạn nặng hơn như AK-47. Tuy nhiên cậu ta không mang miếng thép này trên lưng. Có lẽ như những binh lính khác, cậu cũng cho rằng nhét miếng thép vào lưng chỉ khiến thêm nóng và thêm nặng. Hơn nữa, đa số đạn bắn từ phía trước chứ mấy khi từ phía sau. Sự trớ trêu đã xảy ra và cậu ta hy sinh. Qua vô tuyến điện, chúng tôi đề nghị để xạ thủ súng máy bên xe tôi sang thay thế. Chiếc Humvee của cậu bắn súng máy bị chết di chuyển lên sát xe tôi. Bên trong xe, một biệt kích Ranger, nước mắt chảy dài trên khuôn mặt, đang ôm ghì lấy xác đồng đội và nói trong nước mắt: “Tôi đã bảo cậu đeo miếng thép vào mà cậu có nghe đâu”.
Họ kéo xác cậu ta ra và xạ thủ của chúng tôi vào vị trí thay thế.
Casanova và tôi đã sử dụng hết 10 băng đạn loại 30 viên trong bao đạn của mình, cộng với 5 băng đạn lấy từ cậu biệt kích Ranger bị thương ở vai và tay đã giúp chúng tôi nạp đạn. Do cả hai chúng tôi đều sử dụng súng CAR-15 nên loại đạn của chúng tôi giống với lực lượng biệt kích Ranger. Gã Mập lùn không mang súng CAR-15 mà lại mang khẩu M-14. Lúc này, Gã Mập lùn nhận ra sự sai lầm của mình vì chẳng ai có chung cỡ đạn đó cả.
Đoàn xe di chuyển về phía trước và chúng tôi rẽ trái đi về phía đông, rồi lại rẽ trái về phía bắc. Tôi không biết McKnight bị thương ở tay và cổ. Chúng tôi dừng lại. McKnight dùng vô tuyến điện liên lạc với trực thăng chỉ huy để xin chỉ dẫn nhưng một lần nữa họ lại chỉ nhầm đường cho chúng tôi. Đoàn xe tiếp tục tiến về phía bắc, sau đó rẽ trái.
Tôi cũng không biết Dan Schilling đã thay McKnight. Dan đã thành công trong việc bỏ qua các vòng lặp thông tin liên lạc phức tạp và liên lạc thẳng với một trong hai chiếc trực thăng chỉ huy. Khi Dan bảo họ chỉ đường cho chúng tôi tới vùng chiếc máy bay đầu tiên bị nạn để cứu Velvet Elvis, chỉ huy trực thăng lại chỉ thị chúng tôi đến khu vực tai nạn gần nhất, khu vực chiếc máy bay thứ hai bị tai nạn − cứu Mike.
Chúng tôi rẽ trái lên đường Hawlwadig, chạy về gần khách sạn Olympic và tòa nhà mục tiêu. Đoàn xe đã đi một vòng tròn! Chúng tôi đã vô tình để lộ lực lượng trước quân của Aidid trong các cuộc tấn công trước đó, sau đó chúng tôi mở cuộc tấn công giữa ban ngày và giờ đây một lần nữa bị mai phục − thật không còn gì để nói! Cán bộ chỉ huy SEAL từng dạy chúng tôi: “Nếu bạn sống sót sau một cuộc phục kích, hãy rửa tay gác súng và cảm ơn Chúa cả phần đời còn lại”. Tôi vẫn nhớ chỉ huy trưởng nhóm SEAL Olson vỗ vai trước khi chúng tôi rời trại: “Đừng để mất nhiều thời gian.” Mẹ kiếp. Những tên này vẫn là những tên vừa bắn chúng tôi lúc trước. McKnight đang làm cái quái quỷ gì thế? Ngớ ngẩn thật, chúng tôi đã chiến đấu ở nơi này. Lần đó đã chẳng có mấy kết quả tốt đẹp gì.
Trong khi trên vô tuyến điện vẫn đang băn khoăn không biết chúng tôi đang tiến đến chiếc máy bay thứ nhất hay thứ hai bị tai nạn, tôi thấy một đám đông đang tiến đến chỗ Mike Durant và tôi chợt nhớ lại những điều đã đã xảy ra với binh lính Pakistan khi bị một đám đông tấn công và xé xác sau đó.
Trong lần phục kích đoàn xe chúng tôi, quân Aidid đã gây thương vong và giết chết một số lính, nhưng chúng tôi kịp rút khỏi ổ mai phục trước khi cho chúng một bài học đau thương. Xác chết nằm rải rác khắp nơi. Giờ đây kẻ địch lại phục kích chúng tôi lần thứ hai. Lần này phải cho chúng một trận ra trò mới được. Súng máy và rocket từ trực thăng sẽ bắn xuống xé tan xác chúng thành nghìn mảnh.
Trong lần giao tranh này, tôi đã gọi nhiều trực thăng hơn để đánh đuổi kẻ địch phía sau.
Một phi công trả lời, “Chúng tôi hết đạn rồi.” Họ đã sử dụng hết số đạn mang theo, kể cả 20% số đạn dự trữ để tự vệ khi bay về căn cứ. Tôi đang tính đến 20% số đạn dự phòng chúng tôi mang theo. Mặc dù họ hết đạn nhưng các phi công vẫn lái trực thăng bay sát kẻ địch và dùng đuôi máy bay tấn công chúng. Kẻ địch rời bỏ chúng tôi và chĩa súng vào các máy bay trực thăng. Trong khi bọn chúng ngắm bắn trực thăng, chúng tôi bắn chúng. Các phi công không chỉ dùng đuôi máy bay tấn công chúng một lần. Họ đã làm vậy tổng cộng sáu lần. Các phi công trong Trung đoàn không vận 160 quả là đáng kính phục khi tự biến mình thành mục tiêu sống để cứu tính mạng chúng tôi.
Lúc này, khẩu CAR-15 của tôi cũng hết đạn. Tôi bỏ nó sang một bên và rút khẩu súng lục SIG SAUER cỡ nòng 9 li ra khỏi bao súng bên hông. Đoàn xe của chúng tôi chạy chậm lại và một tên địch xuất hiện trước cửa ngôi nhà, chĩa nòng khẩu AK-47 về phía tôi. Tôi vung khẩu súng lục và bóp cò hai phát. Tôi đã tập kiểu bắn này hàng nghìn lần. Nhưng trong hoàn cảnh chiến trận, tôi bóp cò khá vội và kết quả là trượt. Hoóc môn từ tuyến thượng thận tiết ra ồ ạt, mọi thứ xung quanh tôi hình như đều chậm lại. Tên địch từ từ siết cò. Viên đạn trúng vào ống đồng phải của tôi và phần ống chân dưới gần như bị đứt lìa. Khóa nòng súng của hắn lùi lại phía sau, vỏ đạn văng ra bên ngoài. Mất hơn nửa giây tôi mới lấy được đường ngắm. Hai tiếng súng vang lên. Cả 2 viên đạn đều trúng mặt hắn. Nếu lần bắn đầu tôi lấy đường ngắm lâu hơn độ hơn nửa giây thì tôi đã diệt được tên khốn kiếp và đã cứu được cái chân của mình.
Chiếc xe của tôi đột nhiên chạy chậm lại. Cái quái gì xảy ra với chiếc xe này vậy? Tôi lấy sức nhấn chân ga nhưng không thể. Đưa mắt xuống sàn xe, tôi nhìn thấy đầu ngón chân cái quay ngược ra sau. Lúc đó, tôi thậm chí không nhận ra bàn chân của mình bị xoắn vào phía trong. Tôi cố gắng dẫm lên chân ga một lần nữa. Chiếc chân phải của tôi hoàn toàn tê liệt. Trời đất, đó là chân của tôi. Đưa chân trái sang, tôi nhấn ga. Vấn đề rắc rối thật rồi. Mặc dù đây là lần thứ hai bị trúng đạn trong trận đánh nhưng tôi vẫn tin vào sức mạnh của mình. Kim chỉ mức độ sợ hãi mới tăng lên số 6 chứ chưa phải số 10. Tôi chỉ cảm nhận được cảm giác tê cứng chứ không cảm thấy đau đớn bởi các thụ thể thần kinh của tôi đã quá tải. Mặc dù ngạc nhiên khi bị thương lần thứ hai trong trận đánh nhưng tôi vẫn ngầm từ hào khi là một lính bắn tỉa của Đội đặc nhiệm SEAL số 6.
Tôi vô cùng bực tức với McKnight và gọi ông ta qua vô tuyến điện. “Hãy đưa chúng tôi ra khỏi nơi chết dẫm này!” Cuối cùng chúng tôi cũng ra khỏi được vùng chết, đoàn xe dừng lại để cầm máu cho những người bị thương, nạp đạn và lập kế hoạch cho hành động tiếp theo. Casanova giúp tôi bò qua bảng điều khiển trung tâm vào ghế sau, nhường ghế lái lại cho anh. Khẩu CAR-15 của tôi được treo trên bảng điều khiển trung tâm. Gã Mập lùn cầm lấy khẩu súng CAR-15 của tôi và bỏ lại khẩu M-14 của mình.
Phần xương vỡ có cạnh răng cưa, có thể làm đứt các động mạch chủ và làm tôi chảy máu đến chết. Casanova đặt cái chân bị thương của tôi lên trên capô của chiếc Humvee và đặt chân trái của tôi bên cạnh để đỡ. Kê chân dốc lên cao giúp máu chảy chậm hơn. Casanova khẽ nói “Tôi sẽ đưa anh về nhà”.
Đoàn xe bắt đầu khởi hành và Casanova nhấn chân ga. Chiếc xe của chúng tôi chạy trên ba chiếc bánh đã hết hơi. Đoàn xe quay đầu và quặt phải tại Khách sạn Olympic, hướng về nơi chiếc máy bay đầu tiên bị bắn rơi. Việc làm này chẳng khác gì cảnh bộ phim Groundhog Day, lặp đi lặp lại các hành động tương tự.
Khoảng năm hay mười phút sau đó, một viên đạn của đối phương xuyên qua mắt cá chân trái của tôi. Không giống như chỗ xương gãy ở ống chân phải, không làm tôi đau đớn vì hệ thần kinh trung ương làm tắt cơn đau, vết thương ở mắt cá chân hành hạ tôi muốn chết đi sống lại. Kim chỉ mức độ sợ hãi của tôi đã nhảy lên số 7. Lúc này cảm xúc của tôi đối với kẻ thù đã hoàn toàn chuyển sang tức giận. Chúng đã cướp đi sức mạnh của tôi. Đột nhiên, tôi nhận ra mình đang thực sự gặp rắc rối.
Đúng vậy, đoàn xe của chúng tôi lại một lần nữa không đến đúng vị trí chiếc máy bay đầu tiên bị bắn. Chúng tôi dừng lại. Mọi người bước ra khỏi xe và đứng thành vòng tròn. McKnight ra khỏi xe cùng với một người nào đó và hình như họ trải bản đồ ra để xác định vị trí. Thật ngớ ngẩn hết mức. Trong khi bị kẻ địch bủa vây, tại sao không vào quầy hàng 7- Eleven mà hỏi đường?
Đoàn xe của chúng tôi đã hai lần nhầm lẫn trong việc tìm vị trí các phi công bị bắn rơi. Chúng tôi sắp hết cơ số đạn mang theo. Bính lính bị thương và tử thương đã chật ních các xe. Khoảng một nửa số binh lính bị thương nặng, đa số là các đặc nhiệm. Nếu chúng tôi không trở lại căn cứ và tái hợp, có thể đoàn sẽ chẳng còn một mống nào để làm nhiệm vụ giải cứu.
Chiếc xe của tôi bị đạn bắn thủng lỗ chỗ chẳng khác gì miếng bọt biển. Gương hai bên xe đều hỏng. Khi đoàn xe tiến về phía trước, xe của tôi bị trúng mìn bộ binh. Tấm thép dưới gầm xe đã cứu chúng tôi khỏi tan xác. (Sau này tôi trở thành thành viên danh dự của câu lạc bộ Những người sống sót Kevlar.) Casanova đánh xe vào lề đường rồi xe chết máy. Kẻ địch bất ngờ tấn công chúng tôi. Chúng tôi sắp toi rồi.
Tôi nhớ đến bộ phim yêu thích The Alamo sản xuất năm 1960, với nhân vật chính Dany Crockett do diễn viên John Wayne. Đây hẳn là cảm giác của Davy Crockett trước khi họ giết chết anh ta: bại trận, hết người chiến đấu. Chứng kiến cảnh đồng đội của mình từng người từng người một tiêu diệt trong khi kẻ địch vẫn tiếp tục áp sát. Vậy đó. Howard Wasdin sẽ chấm dứt cuộc đời của mình tại Mogadishu ở Somali vào buổi chiều ngày 03/10/1993. Điều tôi nuối tiếc nhất chính là tôi đã không thường xuyên nói với những người tôi yêu qúy những lời yêu thương. Suốt thời gian sống trên cõi đời, lẽ ra đó là điều mà tôi phải làm nhiều hơn. Hai người đầu tiên xuất hiện trong tâm trí tôi là các con tôi Blake và Rachel. Có lẽ tôi chỉ nói với chúng câu “bố yêu các con” khoảng sáu lần một năm. Một phần vấn đề nằm ở chỗ, do thường xuyên bận tập luyện và tham gia các chiến dịch tác chiến nên tôi chẳng có nhiều thời gian bên chúng. Mặc dù đã kết hôn, nhưng lúc này tôi chẳng nghĩ đến vợ tôi Laura. Mối quan hệ của tôi với Đội đặc nhiệm SEAL đã trở nên quan trọng hơn cuộc hôn nhân của tôi. Nhưng tôi muốn nói với Blake và Rachel rằng tình yêu của tôi dành cho chúng là vô bờ bến.
Kim đo mức độ sợ hãi của tôi chỉ ở số 8. Nó sẽ không bao giờ lên tới số 10. Khi kim chỉ mức độ sợ hãi của ai đó nhảy lên số 10 thì người đó sẽ không còn hành động được nữa. Khi đó bạn sẽ phó mặc số phận của mình cho hoàn cảnh xung quanh. Tôi vẫn chưa chết. Tôi dùng súng lục quay lại bắn phía sau nhằm xua đuổi 6 hay 7h tên địch xung quanh. Về thể lực, tôi không thể bắn trúng được bất kỳ tên nào vào thời điểm đó. Tôi bắn hết hai băng đạn của khẩu súng lục Casanova đưa cho tôi. Trên vô tuyến điện, tôi nghe thấy thông tin QRF đang trên đường đến cứu chúng tôi − bốn giờ nữa sẽ tới nơi xảy ra giao tranh. Lực lượng phản ứng nhanh − chẳng hiểu khái niệm của lực lượng này về chữ “nhanh” là cái quái gì nữa?
Xe của chúng tôi vẫn chết máy bên lề đường, tôi ngước mắt lên và thấy máy bay của QRF bay qua chỗ chúng tôi. Chúng tôi đã có cơ hội được cứu sống nhưng họ lại bay vượt qua. Chắc họ muốn bỏ mặc chúng tôi chết ở nơi đây. Sau đó QRF dừng lại và yểm trợ cho một chiếc xe trọng tải 3,5 tấn. Cám ơn Chúa, cuối cùng họ cũng đã nhìn thấy chúng con. Khi họ đến con đường bên cạnh chúng tôi, quân địch bỏ chạy hết. Xe của QRF dừng lại.
Casanova và Gã Mập lùn giúp chuyển những người bị thương lên xe của QRF.
Một biệt kích Ranger đang loay hoay cuộn thang dây vừa thả từ trực thăng xuống – đây là công việc đã được làm đi làm lại nhiều lần khi tập luyện. Do thần kinh quá tải, người lính này chỉ làm theo bản năng mà quên hết những gì đã được dạy.
Không tự đi được, tôi nhìn chằm chằm vào cậu lính Ranger trong sự hoài nghi. Tôi hét lên “Đây không phải là đợt huấn luyện! Hãy đặt sợi dây xuống, vứt vào trong xe và đưa chúng tôi ra khỏi đây!”.
Tay biệt kích của Ranger tiếp tục kéo sợi dây mà không ý thức được hoàn cảnh xung quanh và không nghe theo mệnh lệnh của tôi.
Tôi dí khẩu súng lục SIG SAUER của tôi vào cậu ta: “Tôi sẽ không giết anh nhưng anh sẽ phải đi tập tễnh nếu không vứt sợi dây đó vào xe!”
Cậu ta bối rối mất một lúc rồi thả sợi dây ra. Cậu ta vội vã vào xe.
Cuối cùng, những người trong xe cũng đưa được tôi lên chiếc xe tải của QRF. Casanova bảo mọi người hãy để ý hơn đến tôi vì chân phải của tôi chỉ treo lủng lẳng như vậy chứ không còn cử động được nữa.
Chúng tôi lái xe về trại mà không hề gặp bất kỳ cản trở nào từ quân của Aidid. Sau khi vào trong cổng, khoảng 40 đến 50 người đang chờ sẵn ở đường băng, trong đó có cả các nhân viên y tế. Họ đến để làm nhiệm vụ phân loại những người bị thương không thể cứu chữa với những người có thể cứu chữa được cũng như mức độ nặng nhẹ của thương tích. Một người lính của Ranger mở thành xe phía sau của một chiếc Humvee – máu từ xe chảy ra nhiều vô kể.
Casanova và Dan Schilling đưa tôi đến khu vực phân loại.
Lúc này trời vẫn sáng, các nhân viên y tế cởi hết quần áo của tôi ra để thuận lợi cho việc chữa trị. Họ để tôi nằm trần truồng trên đường băng, vây quanh là các xác chết.
Một lần nữa, tử thần lại “vồ” trượt tôi như những lần trước đó: như khi kẻ địch bắn rơi chiếc trực thăng của QRF và giết chết ba người bay cùng chuyến đó; như khi quân của Aidid mở cuộc tấn công lớn vào Pasha; như khi các pháo thủ của kẻ địch nã pháo vào khu của CIA, nơi tôi đến thăm và rời đi hôm trước. Tôi nghĩ có lẽ Casanova và tôi đã có một kết cục khác nếu chúng tôi bay cùng trong chuyến bay có ba lính bị sát hại hôm đó, nhưng có thể cũng sẽ chẳng khác gì và tôi có lẽ đã bị chết hôm đó. Tuy nhiên, điều đó không xảy ra bởi Chúa luôn bên cạnh phù hộ tôi. Giờ đây tôi đã 48 tuổi và đôi khi vẫn tự hỏi, Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi không hạ gục kẻ địch trước khi hắn hạ gục tôi? Có lẽ mọi người chỉ có thể gặp tôi ở nghĩa trang mà thôi.
Trước khi diễn ra trận đánh ở Mogadishu, những hỗ trợ chúng tôi nhận được từ chính quyền Clinton thật đáng chê trách. Chính quyền Clinton đã từ chối cấp cho chúng tôi loại xe chiến đấu bộ binh M-2 Bradley, xe tăng M-1 Abrams và máy bay cường kích AC-130 Spectre. Chính quyền Clinton quan tâm đến khía cạnh chính trị nhiều hơn là tính mạng binh sĩ Mỹ.
Trong trận đánh ở Mogadishu, 18 binh sĩ Mỹ thiệt mạng và 84 binh sĩ khác bị thương; 1 lính Malaysia chết và 7 người khác bị thương; hai binh sĩ Pakistan và 1binh sĩ Tây Ban Nha bị thương. Mặc dù chỉ khoảng 180 binh sĩ chiến đấu chống lại gần 3.000 quân của Aidid nhưng chúng tôi vẫn bắt được Omar Salad, Mohamed Hassan Awale, Abdi Yusef Herse và nhiều thủ hạ quan trọng khác. Hàng ngàn người trong bộ tộc của Aidid thiệt mạng và số bị thương còn nhiều hơn thế. Chúng tiêu hao rất nhiều đạn dược. Nhiều tù trưởng phải sơ tán vì sợ các cuộc phản kích của Mỹ. Bốn lính bắn tỉa từ Đội Anh ba Xanh (Blue Team) đang trên đường sang thay chúng tôi. Phi đội Alpha của Delta đang làm công tác chuẩn bị sang thay Phi đội Charlie. Một loạt lính Ranger mới cũng đang trên đường sang. Chúng tôi đã phá vỡ được hậu phương của Aidid và chúng tôi muốn hoàn tất sứ mệnh này.
Bất chấp những thắng lợi của chúng tôi, Tổng thống Clinton vẫn coi chúng tôi là những kẻ bại trận. Mặc dù chúng tôi vẫn chưa bắt được Aidid và chưa chuyển được số lương thực viện trợ đến người dân nhưng Clinton đã rũ tay. Ông ra lệnh ngừng tất cả các hành động chống lại Aidid. Bốn tháng sau, Clinton trả tự do cho Osman Atto, Omar Salad, Mohamed Hassan Awale, Abdi Yusef Herse và các tù nhân khác. Đúng là chó chết thật.
Chúng tôi đã mất rất nhiều thời gian sát cánh với người dân Somali để tạo dựng lòng tin, thuyết phục họ rằng chúng tôi sẽ ở bên họ trong thời gian dài. Nhiều người trong số những người Somali này đã dám mạo hiểm tính mạng bản thân để giúp chúng tôi. Một số còn dám đánh đổi cả sự an toàn của gia đình. Những lính canh trước đây của chúng tôi ở Pasha đều tham gia vào trận đánh ở Mogadishu và họ chiến đấu đến phút cuối. Chỉ một ít người trong số họ sống sót. Những người còn lại đều đã hy sinh khi sát cánh cùng chúng tôi. Chúng tôi đã bỏ lại những người bạn Somali của mình trong lúc họ vẫn đang cần sự giúp đỡ. Tôi có cảm giác sự hy sinh của chúng tôi là vô ích. Tại sao họ lại điều chúng tôi đến Somali trong khi vẫn chưa hạ quyết tâm phải hoàn tất sứ mệnh? Lẽ ra chúng tôi không nên tham gia vào cuộc nội chiến ở Somali – đây là vấn đề của họ chứ không phải của chúng tôi. Nhưng khi chúng ta cam kết, chúng ta nên hoàn thành cái chúng ta phát động: đó là một bài học chúng tôi luôn nhớ mãi trong lòng.
Somali không còn nhận được sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế trong nỗ lực mang lại hòa bình và lương thực cho đất nước nữa. Sự hỗn loạn và nạn đói gia tăng. Aidid đã ém nhẹm đi khá nhiều con số thương vong, mất mát của phe hắn trong cuộc chiến nhưng cũng chẳng thống trị được nước Somali thống nhất. Aidid chết năm 1996 trong một trận chiến tranh giành quyền lực nội bộ với Osaman Atto.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.