Hồi Ký Của Một Tay Súng Bắn Tỉa

Chương 7. Bão táp sa mạc



Khi nền kinh tế Iraq suy thoái, Tổng thống Saddam Hussein đổ lỗi cho Kuwait. Iraq tiến hành xâm lược Kuwait ngày 2 tháng Tám năm 1990, và bắt giữ các con tin phương Tây. Liên Hợp Quốc lên án hành động này, yêu cầu Iraq rút quân, áp đặt lệnh trừng phạt kinh tế đối với Iraq và tiến hành cấm vận nước này. Tuy nhiên, dường như mục tiêu xâm lược tiếp theo của Hussein là Ả Rập Xê-út.

Ngày 7 tháng Tám, Chiến dịch Lá chắn sa mạc bắt đầu. Tàu sân bay và tàu chiến Mỹ tiến vào vùng vịnh Péc-xích. Quân đội được gửi tới Ả Rập Xê-út. Liên Hợp Quốc ra tối hậu thư yêu cầu Iraq rút khỏi Kuwait trước ngày 15 tháng Một năm 1991, nếu không sẽ sử dụng bạo lực để buộc họ rút quân. Mỹ thành lập một liên minh gồm 34 nước với sự hậu thuẫn về tài chính của Đức và Nhật.

Trung đội của tôi chuẩn bị trang thiết bị sẵn sàng triển khai tới Machrihanish, Scotland. Khi biết Lá chắn sa mạc sắp trở thành Bão táp sa mạc, chúng tôi bay tới Sigonella, Sicily. Trạm đường không Hải quân của chúng tôi đặt ở căn cứ của NATO, có vai trò là một trục dẫn ra Địa Trung Hải. Ở đó, chúng tôi đợi tàu đến.

Trong khi chờ đợi, tôi thường đi ăn ở một cửa hàng gần căn cứ. Món mì ống cuốn thịt của họ đặc biệt thơm ngon. Một buổi tối, tôi hỏi cô phục vụ cách chế biến món đó. Cô ấy quay vào trong bếp hỏi, sau đó đi ra và hướng dẫn cho tôi. Sau khi ăn ở đó thêm vài lần nữa và lần nào cũng hỏi cách nấu món này, cô nói: “Anh và bếp trưởng nói chuyện nhé.” Cô đưa tôi vào bếp. Tôi nhận ra rằng một gia đình đang điều hành nơi này. Bếp trưởng và tôi uống Chianti (rượu vang đỏ vùng Tuscany) trong khi ông chỉ cho tôi cách chuẩn bị thực phẩm và sau một vài lần viếng thăm, ông dạy tôi cách nấu món Sicilian với thịt viên, xúc xích, mì ống nướng và mì ống cuốn thịt tại gia. Ông có vẻ vui khi tôi thích giúp ông nấu nướng. Phần việc quan trọng nhất trong việc chế biến các món Italia là chế nước sốt, thứ nước chấm có thể phải mất vài ngày mới xong. Trước tiên phải băm nhỏ ớt, hành, tỏi, cà chua và nấm. Sau đó xào chúng lên. Dùng sốt cà chua để nấu một vài loại rau thơm cho sôi lên, sau đó giảm nhiệt và cho thêm rau. Thêm rượu vang. Việc này có thể mất cả ngày. Làm thịt viên và xúc xích trong khi món nước sốt đang được đun liu riu. Sau đó cho thêm thịt vào nước sốt. Nửa đêm phải thức dậy để cho nước sốt vào tủ lạnh. Hôm sau, bao giờ ăn thì lấy ra khỏi tủ lạnh. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn nấu món Sicilian. Vợ chồng tôi thường mời bạn bè và hàng xóm đến thưởng thức món này và hồi tưởng lại không khí mà tôi rất thích khi ở Sicily. Thỉnh thoảng khi tôi dắt chó đi dạo ở ngoài đường, một người hàng xóm lại hỏi tôi: “Howard này, khi nào anh sẽ lại nấu cái món Italia đó vậy?”.

Một buổi tối vài tuần sau đó, tôi từ quán ăn trở về và dừng lại đài không lưu để xem vài chương trình ti vi. Trên CNN, họ chiếu hình ảnh những phát súng đầu tiên của chiến dịch Bão táp sa mạc. Tôi chạy ào tới Kho xử lý chất nổ, nơi trung đội của tôi đang ngủ trong các túi ngủ và đánh thức họ dậy: “Này, cuộc chiến bắt đầu rồi.”

Mọi người bật dậy, sẵn sàng chiến đấu. Nhưng rồi chúng tôi nhận ra một điều, Tất cả chúng ta đang háo hức cái quái gì nhỉ? Còn chưa có ai nói chúng ta phải làm gì mà. Thế là tôi túm lấy một cái túi ngủ và chui tọt vào trong.

Sáng hôm sau, chúng tôi nhận được thông báo rằng chúng tôi sẽ đến tàu sân bay John F. Kennedy, nơi tôi đã trải qua kỳ huấn luyện Tìm kiếm và Cứu nạn. Khi con tàu từ biển Địa Trung Hải tới, chúng tôi chuyển trang thiết bị lên tàu: các thùng đạn chống tăng nhẹ bắn phát một 84mm (AT-4), mìn định hướng, đạn dược… nhiều đến mức tưởng như không bao giờ có thể chất hết lên tàu được. Vì không biết mình được giao nhiệm vụ cụ thể nào, chúng tôi đem theo đủ mọi thứ.

Tàu John F. Kennedy dài 320m và cao 60m tính từ mớn nước đến đỉnh cột buồm. Nó có thể chở theo 5.000 nhân viên và chạy với tốc độ 34 hải lý một giờ. Ngoài hơn 80 máy bay, con tàu còn được trang bị hai hệ thống phóng tên lửa có điều khiển Mark-29 dùng tên lửa Sea Sparrow, hai hệ thống vũ khí cận chiến Phalanx để phá hủy tên lửa tấn công của đối phương và hai thiết bị phóng tên lửa Rolling Airframe Missile dùng để phóng đi các tên lửa đất đối không điều khiển bằng tia hồng ngoại.

Tôi gặp lại nhiều bạn cũ của mình ở trên tàu. Thậm chí có cả các phi công nữa. John F. Kennedy đi qua kênh đào Suez tới Biển Đỏ, hướng ra vịnh Péc-xích. Hầu hết mọi tàu đều không bố trí khu vực riêng cho đội SEAL. Chúng tôi ngủ và nhóm họp ở bất cứ chỗ trống nào mà chúng tôi có thể tìm thấy. May là chúng tôi có quan hệ rất tốt với nhân viên của tàu. Bất cứ khi nào họ nhìn thấy chúng tôi mặc đồng phục ngụy trang và đeo phù hiệu SEAL đi qua hành lang, họ đều nói: “Tránh đường nào, SEAL đang đi qua đấy.” Chúng tôi cảm thấy mình như là những người nổi tiếng vậy.
Chúng tôi cũng cố gắng tôn trọng họ.

Ban đầu không có ai đến chỗ chúng tôi ở trong phòng ăn. Một vài lần sau, mọi người bắt đầu đến ngồi cạnh. Họ hỏi chuyện về BUD/S và những việc khác. Trong ngôi nhà nổi chứa máy bay khổng lồ này, chúng tôi rèn luyện thể lực vào mỗi buổi sáng. Một số nhân viên của tàu cũng đến và tham gia cùng chúng tôi.

Chúng tôi không theo trường phái Dick Marcinko kiêu ngạo và xa lánh mọi người. Marcinko là người thành lập Đội SEAL Số 6, từng ngồi tù vì tội lừa đảo chính phủ, từng viết cuốn tự truyện Rogue Warrior (tạm dịch: Chiến binh ma cà bông) và sản xuất một trò chơi video. Mặc dù tôi kính trọng ông vì đã thành lập ra Đội 6, nhưng Marcinko khiến chúng tôi coi thường vì ông không tôn trọng những người không phải là thành viên SEAL và những người SEAL không cùng nhóm với ông. Một lần đi máy bay, tôi thấy một viên phi công ngạc nhiên trước thái độ của chúng tôi khi so sánh với thái độ ồn ào, khó chịu, hợm hĩnh của những người lính SEAL của Marcinko. Tồi tệ hơn, Marcinko lừa rút tiền của chính phủ, đặt Đội 6 dưới đám mây u ám của sự nghi ngờ. Ông bị ngồi tù vì đồng lõa âm mưu với một nhà thầu dân sự tính giá cao các loại chất nổ cho chính phủ và bỏ túi số tiền đó. Trong nhiều năm sau đó, chúng tôi phải tìm cách thoát khỏi tai tiếng này. Đặc biệt là ở Đội SEAL Số 6, các chỉ huy kế nhiệm đã làm việc cật lực để xóa sạch những vết nhơ mà Marcinko để lại.

Trên con tàu John F.Kennedy, chúng tôi là khách ở nhà người khác. Họ là những người có trách nhiệm, chăm lo cho con tàu có thể làm cho chuyến đi của chúng tôi trở nên thú vị hay tồi tệ nếu họ muốn. Nếu con tàu bị rò rỉ, chúng tôi phải nhớ vào nhân viên của tàu để bít lỗ rò đó lại. Chúng tôi cư xử với thủy thủ đoàn rất tốt và họ coi chúng tôi như những thành viên của hoàng tộc vậy.

Tôi không có ý rằng chúng tôi phải nịnh bợ nhau, nhưng tất cả chúng tôi ở cùng một đội. Những người lính không thuộc lực lượng SEAL cũng cùng tuyên thệ lời thề Hải quân rằng “bảo vệ Hiến pháp của nước Mỹ trước tất cả mọi kẻ thù, trong và ngoài nước.” Đối xử với những người đồng ngũ như rác rưởi sẽ phải trả giá vì họ có thể quay lại tấn công mình. Nếu gặp Marcinko trên phố, tôi sẽ tỏ lòng kính trọng vì ông đã thành lập Đội SEAL số 6, nhưng nếu ông thể hiện rằng mọi việc tốt đẹp hơn khi ông còn là sĩ quan chỉ huy thì tôi sẽ nói với ông: “Ông hãy về chơi trò chơi video của mình và tiếp tục ảo tưởng đi.”

Trong suốt hơn một tuần, các phi công từ tàu chúng tôi cất cánh với máy bay chở đầy bom, bỏ lại chúng tôi ngồi xem bom của họ nổ trên CNN. Sau đó chúng tôi đứng lép một bên khi họ trở về với máy bay trống rỗng. Chúng tôi đã tập luyện và tập luyện cho thời khắc này. Đặc biệt là trong đợt tác chiến mùa đông, chúng tôi trượt tuyết hướng đến mục tiêu và dựng đèn hiệu để phi công trên máy bay quan sát được vị trí của chúng tôi. Sau đó chúng tôi sẽ “quét sơn” cho mục tiêu bằng tia laze để những trái bom tìm được điểm đến. Chúng tôi đang mất cơ hội đây. Đeo cặp kính phi công Ray-Ban, tôi đứng trên boong tàu cảm nhận luồng gió nhẹ thoảng qua và hướng mắt về phía đại dương tĩnh lặng, lung linh, nhìn về phía Iraq. Tôi nhìn thấy tàu USS San Jacinto (CG-56), một chiếc tàu tuần dương được trang bị tên lửa Tomahawk. Tàu USS America (CV-66) và tàu USS Philippine Sea (CG-58) cũng trong nhóm chiến đấu của chúng tôi. Tôi được trang bị đầy đủ mà không biết để làm gì cả. Các thành viên thuộc trung đội tôi không phải là những người duy nhất như vậy. Mặc dù Tướng Norman Schawarzkopf đã sử dụng lực lượng đặc nhiệm Anh, Quân chủng Không quân Đặc biệt (SAS), nhưng vào lúc bắt đầu cuộc chiến, ông không sử dụng lực lượng đặc nhiệm của Mỹ. Rõ ràng là ông thiên vị các lực lượng thông thường của Mỹ hơn là các lực lượng đặc biệt như SEAL hay Delta. Thật tệ quá!

Một chuyện bên lề khác, mặc dù SEAL đã luyện tập cẩn thận cách bảo vệ các giếng dầu ở Kuwait, Schwarzkopf vẫn không dùng chúng tôi. Sau đó, khi các lực lượng quân sự liên minh đánh đuổi quân đội Iraq khỏi Kuwait, quân đội của Saddam thực hiện chính sách tiêu thổ, phá hủy tất cả những gì có thể, trong đó có cả việc đốt hơn 600 giếng dầu của Kuwait. Kuwait mất chừng 5 đến 6 triệu thùng dầu mỗi ngày. Phần dầu chưa cháy hết tạo thành hàng trăm hồ dầu, làm ô nhiễm hàng ngàn hecta đất. Cát trộn lẫn với dầu tạo thành lớp “tarcrete” bao phủ 5% diện tích của Kuwait. Chỉ riêng việc dập tắt những ngọn lửa Kuwait cũng tiêu tốn đến 1,5 tỷ đô-la. Chúng cháy âm ỉ suốt hơn 8 tháng, làm ô nhiễm mặt đất và không khí. Nhiều người dân Kuwait và quân Liên minh mắc các chứng bệnh về đường hô hấp. Những cuộn khói đen dày đặc bao phủ vịnh Péc-xích và các khu vực lân cận. Gió thổi khói về phía đông bán đảo Ả Rập. Trong nhiều ngày, bầu trời đầy khói và những trận mưa đen trút xuống các nước láng giềng. Cho đến nay người ta vẫn còn chứng kiến những tổn thất về môi trường và con người do các đám cháy gây ra. Nếu không phải là do Schwarzkopf đã đánh giá thấp khả năng người Iraq phóng hỏa các giếng dầu, Đội chúng tôi tin rằng mình đã có thể tiêu diệt những tên xấu xa đó trước khi chúng tiếp cận được 600 giếng dầu, làm giảm mức thiệt hại mà chúng gây ra.

Một hôm, vào khoảng nửa đêm, chúng tôi được đánh thức tập trung tại một trong những phòng chờ bên một cánh của chiếc máy bay phản lực. Tình báo cho biết một chiếc tàu hàng cải trang cắm cờ Hy Lạp đang đặt mìn ở Biển Đỏ. Nhiệm vụ của chúng tôi là phải đánh chiếm con tàu đó. Đội SEAL số 6 đã thực hiện kiểu nhiệm vụ này với trực thăng Black Hawk và các thiết bị tiên tiến nhất. Đội SEAL số 2 chúng tôi phải thực hiện nhiệm vụ với những chú ong Sea King SH-3 và tài xoay xở của mình.

Chúng tôi bắt đầu lên kế hoạch thực hiện nhiệm vụ. Cần bao nhiêu trực thăng? Ai lên máy bay? Ai ngồi ở đâu? Chiếc trực thăng nào sẽ bay tới chiếc tàu đó trước tiên? Chiếc nào thứ hai?
Chúng tôi bố trí vị trí bắn tỉa như thế nào? Kế hoạch rút lui và lẩn trốn nếu chúng tôi phải thoát ra? Trong khi chúng tôi tiếp tục tiếp nhận thông tin mới, chiếc tàu sân bay đưa chúng tôi gần tới vị trí tấn công hơn.

Tiếng còi tàu vang lên − đã đến giờ ăn trưa. Chúng tôi ăn như thể không biết đến khi nào mời lại có cơ hội ăn nữa. Sau đó chúng tôi đi đến trung tâm thông tin để cập nhật tình hình và tìm hiểu chi tiết của con tàu chở hàng mà chúng tôi sẽ đánh chiếm. Có bao nhiêu tầng? Bao nhiêu phòng? Bao nhiêu thủy thủ? Lượng thông tin cần thiết để lập kế hoạch thực hiện nhiệm vụ là rất lớn.

Khi ở trên không, tôi chuẩn bị các thang cuốn thoát hiểm xách tay để leo trở lại trực thăng khi cần, chuẩn bị cuộn dây thừng bền chắc và các thiết bị khác liên quan đến hoạt động trên không. Tôi thắt một dây nylon dài 30m vào một cái chốt hình chữ U trên một thanh chắn cài vào trần bên trong của máy bay SH-3 − một chiếc trực thăng tác chiến chống ngầm hai động cơ. Do vốn không được thiết kế để thực hiện loại nhiệm vụ này, sau này nó được thay thế bằng Sea Hawk SH-60 − phiên bản hàng hải của Black Hawk. Đội SEAL số 6 có Black Hawk, nhưng chúng tôi, đội SEAL nước sâu, phải thực hiện nhiệm vụ với bất kể thứ gì có được. Tôi đặt một đoạn dây thừng ra gần cửa chiếc trực thăng.

Chúng tôi phân công nhiệm vụ. Là người đảm nhiệm vai trò dẫn đầu đội quản lý tù nhân, tôi phải mang thêm mười chiếc còng tay nhựa trong ba lô ngoài hai chiếc ban đầu theo quy định và xác định địa điểm giữ tù nhân khi chúng tôi đánh chiếm con tàu.

Chúng tôi chuẩn bị trang thiết bị và mặc trang phục đen BDU. Chúng tôi đi giày chiến adidas GSG9 đế mềm và đế bám chắc như giày tennis vậy. Ngay cả khi bị ướt, bạn cũng có thể xỏ giày vào. Cho đến giờ đó vẫn là loại giày ưa thích của tôi. Chúng tôi bịt mũ đen kín đầu và ngụy trang phần người bị lộ. Còn với đôi tay, chúng tôi sửa những đôi găng tay hàng không màu xanh của mình bằng cách nhuộm đen rồi cắt đi hai trong số các ngón của chiếc găng tay bên phải: ngón bóp cò cắt đến đốt thứ hai và ngón cái cắt đến đốt thứ nhất. Cắt đi những ngón này sẽ dễ dàng hơn khi bóp cò, thay băng đạn, kéo chốt lựu đạn hơi cay… Những chiếc đồng hồ đeo tay giúp chúng tôi theo dõi thời gian. Ở dây thắt lưng chỗ eo gắn một chiếc mặt nạ phòng độc. Trong chiến dịch Bão táp sa mạc, mọi người đều chuẩn bị sẵn sàng để ứng phó với hơi độc và vũ khí sinh học; thông tin cho biết Hussein vẫn sở hữu vũ khí hoá học và sẽ không ngần ngại sử dụng chúng. Tôi cũng mang theo 2 hoặc 3 quả lựu đạn hơi cay.

Tôi mang theo súng tiểu liên Heckler và Koch MP-5 cùng với một khẩu SIG SAUER 9mm bên hông phải. Tôi để một băng đạn 30 viên trong khẩu MP-5. Một số người muốn mang hai băng, nhưng theo kinh nghiệm của tôi thì có hai băng đạn sẽ làm hạn chế khả năng cơ động và khó khăn hơn khi thay băng đạn mới. Tôi đem theo 3 băng đạn bên đùi trái và 3 băng nữa trong ba lô. Chúng tôi thử vũ khí ở khu vực phía sau đuôi tàu.

Mặc dù trung đội chúng tôi có 16 người nhưng vẫn sẽ để lại lính bắn tỉa trên hai chiếc trực thăng lượn vòng bên trên. Như vậy chỉ có 14 người chúng tôi đánh chiếm toàn bộ con tàu − hai chiếc trực thăng với 7 lính tấn công ở mỗi chiếc. Máy bay của tôi sẽ là chiếc dẫn đầu.

Các thành viên trong đội bay trên chiếc trực thăng đó là những gương mặt quen thuộc – tôi đã làm việc cùng với đội SH-7, trong những ngày đầu tiên khi tôi là một lính bơi SAR. Là người phụ trách những sợi dây, tôi ngồi bên trong cửa chiếc trực thăng, ở giữa những cuộn dây, đặt tay trái lên phần dây dẫn đến đỉnh cần trục và thò ra ngoài chiếc trực thăng. Khi ở trên không, tôi cảm thấy gió ở bên ngoài đang giằng kéo sợi dây ra khỏi tay tôi. Tôi nhắm mắt lại và nghỉ ngơi một chút.

“15 phút”, giọng một thành viên phi hành đoàn vẳng đến tai nghe của tôi, truyền đi thông tin từ viên phi công.

Tôi mở mắt và chuyển thông điệp đó cho các thành viên trong Đội. “15 phút!” và tôi lại nhắm mắt lại.

“10 phút.”

Tôi đã quen với quy trình này. “5 phút.”
Đã đến gần rồi đấy. “3 phút.”
Chúng tôi chầm chậm tiếp cận con tàu từ phía sau, từ 100 rồi 50 hải lý.

“1 phút.”

Chếch mũi chiếc trực thăng lên một góc, viên phi công kéo phanh. Khi chúng tôi bay là là lượn qua con tàu, ánh sáng còn lại của ngày đủ để tôi quan sát boong tàu. Chúng tôi vào vị trí. Tôi đá chiếc dây dài 30m ra ngoài cửa và hô: “Dây!” Chiếc dây chạm vào phần đuôi tàu – một khoảng trống không đủ lớn để trực thăng hạ cánh.

“Đi!” Đeo đôi găng tay có những miếng đệm len dày dặn, tôi túm lấy chiếc dây thừng và tụt xuống như trượt trên một cây cột của lính cứu hỏa. Với hơn 50 kg quân tư trang trên lưng, tôi phải nắm thật chắc để không bị rơi bộp xuống boong tàu. Dĩ nhiên, với 6 người sau tôi đang đợi trong chiếc trực thăng, một mục tiêu lớn đang bay, tôi không muốn xuống quá chậm. Đôi găng tay của tôi quả thực đã “bốc khói” trong khi tôi tụt xuống. Thật may là tôi đã tiếp đất an toàn.

Nhưng không may là viên phi công không giữ yên được máy bay ở vị trí phía trên con tàu khi biển động dữ dội, bóng tối ập xuống và gió rít từng cơn. Khó khăn hơn nữa là vì những viên phi công thường không quen với việc bay lượn trên một mục tiêu trong khi một người nặng 100 kg với 50 kg quân trang của anh ta đang leo dây ra ngoài. Thế là chiếc trực thăng đột ngột bay lên cao. Viên phi công phải sửa sai bằng cách hạ thấp trực thăng cho từng người một tụt dây xuống. Mặc dù trước đó chúng tôi đã luyện tập với các phi công nhưng đó vẫn là một thao tác khó khăn. Nếu phi công không điều chỉnh được thì người đầu tiên sẽ tụt khỏi dây với khoảng 1m dây trên boong tàu, người thứ hai sẽ chỉ còn 1m và sợi dây của người thứ ba sẽ ở ngoài boong tàu. Rồi cũng chẳng mất nhiều thời gian để một anh chàng tội nghiệp rơi tự do không có chỗ bám từ độ cao 3m xuống sàn tàu chẳng lấy gì làm êm ái. Ngay cả đối với các viên phi công Black Hawk giàu kinh nghiệm hơn, đó vẫn là một thao tác khó khăn. Chiếc trực thăng lao đi. Chết tiệt. Tôi ở đó, giữa cuộc chiến, giữa Biển Đỏ, một mình trên con tàu địch xa lạ. Tôi cảm thấy trơ trọi. Nếu tình hình thật sự tồi tệ, tôi có thể chiến đấu theo cách của mình để vượt qua. Nếu tình hình thật sự, thật sự tồi tệ thì Mẹ Đại dương ngay ở đó. Nhảy xuống, sải nhịp bơi và lướt đi. Chiếc trực thăng phải bay vòng, xác lập lại tầm quan sát, tìm cách tiếp cận mục tiêu lần nữa và bay lơ lửng phía trên con tàu. Có lẽ việc đó chỉ mất hai phút thôi nhưng tôi cảm giác cứ như là đã hai giờ trôi qua vậy.

Tôi đưa họng súng MP-5 quét xung quanh trong khi trung đội của tôi nhanh chóng tụt dây xuống. Khi tất cả đã cùng có mặt, chúng tôi vào đội hình chiến đấu. Đội trưởng Mark của chúng tôi, và thông tín viên DJ, dẫn một nhóm đi đến buồng lái để chế ngự và kiểm soát con tàu. Hai tay súng khác đi đến khu vực phía sau buồng lái để làm chết máy tàu – giữ cho nó bập bềnh trong làn nước. Đội của tôi đến cabin để bắt giữ thủy thủ đoàn.

Bên trong con tàu, chúng tôi tới cabin đầu tiên. Bạn cần mềm trước cứng sau. Giữ im lặng càng lâu càng tốt. Nếu nghe tiếng súng nổ hoặc tiếng một quả lựu đạn hơi cay, tôi sẽ phải hành động. A, khỉ thật. Bắt đầu nào. Và từ đó tôi sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Tung chân đá vào các cánh cửa và ném lựu đạn choáng vào các phòng. Kiểm soát mọi người. Sử dụng bạo lực thật nhanh và mạnh. Chúng tôi sẽ cố gắng để mức độ bạo lực phù hợp với tình huống. Không hơn, không kém.

Tôi mở cửa và bốn người chúng tôi bước vào trong thật lẹ khi hai người khác ở lại hành lang yểm trợ phía sau. Tốc độ là yếu tố quan trọng khi di chuyển cùng nhau. Hai chúng tôi đánh chiếm bên trái còn hai người kia đánh chiếm bên phải. Hai thủy thủ ở bên trong bị vô hiệu hoá. Chúng tôi đã chiếm được chỗ này. Họ không nói được tiếng Anh nhưng chúng tôi biết một ít tiếng Ả Rập: Xuống.

Họ muốn nói đến vị trí.

Tôi và một đồng đội đứng nép vào tường để yểm trợ trong khi hai đồng đội khác thông báo: “Đi được không?”

“Đi,” tôi trả lời, kiểm soát toàn bộ căn phòng. Họ tóm được hai thủy thủ trên boong tàu.
Tôi hét to, yêu cầu cho biết liệu phòng lớn bên ngoài có an toàn cho chúng tôi đi ra không: “Ra được không?”

“Ra đi,” một giọng đáp lại từ căn phòng.

Chúng tôi đưa các tù nhân qua hành lang và sang phòng bên cạnh. Đa số mỗi phòng có hai thủy thủ. Một số phòng không có ai.

Chúng tôi bước vào một phòng và bắt giữ các thủy thủ. Tôi hỏi: “Ra ngoài được không?”

“Không,” hai tay súng trong hội trường trả lời.

Bốn người chúng tôi ở lại với hai tù nhân và chờ đợi. Tôi nghe thấy tiếng tranh cãi trong hội trường.

“Wasdin,” một người trong hội trường gọi.

Tôi men theo hành lang và thấy một thủy thủ đang đứng ở lối rẽ phía cuối căn phòng. Trong tay anh ta là một bình cứu hỏa. Một lính bắn tỉa của chúng tôi định tóm lấy vì anh ta không phục tùng.

“Chuyện gì vậy?” − tôi hỏi.

“Gã này không nghe lời,” – Anh lính bắn tỉa nói.

Có thể anh ta nghĩ là chúng tôi đang phá hoại con tàu. “Bỏ xuống đi,” – tôi nói bằng tiếng Arập.

Viên thủy thủ đáp bằng tiếng Arập: “Không.”

Tôi nhìn vào mắt anh ta. Dường như anh ta bối rối, có vẻ không phải anh ta tỏ ra thù địch chỉ vì muốn thù địch. Cho rằng việc này đơn giản là sự hiểu lầm, tôi hạ thấp khẩu tiểu liên MP-5 một chút.

Anh ta ném thẳng chiếc bình cứu hỏa vào tôi.

Chết tiệt.

Tôi né người sang một bên vừa khi chiếc bình cứu hỏa sượt qua đầu tôi. Ngày đó chúng tôi không đội mũ sắt. Nếu tôi không né được thì chiếc bình cứu hỏa đó đã lao thẳng vào mặt tôi rồi.

A, gã này suýt nữa thì đã giết chết tôi bằng một cái bình cứu hỏa. Lúc đó trông sẽ thế nào nhỉ? Tôi đã cố tử tế nhưng đổi lại thì bị đáp trả bằng cái bình cứu hỏa ấy. Tôi vô cùng tức giận. Tôi túm lấy gã và dí nòng súng MP-5 vào dưới tai phải, đẩy gã lùi lại rồi sút vào mông gã một cú cho bõ tức.

Người bạn của “Ngài Bình cứu hỏa”, một gã nhỏ bé gầy gò, giơ tay lên như định đánh tôi.

Một đồng đội của tôi định túm lấy hắn.

“Không, tớ làm được.” Tôi dùng tay trái giáng cho người bạn của Bình Cứu hỏa một cú đấm ngay dưới mũi làm hắn lùi lại. Lực của cú đập đó đủ làm cho hắn phải đi nẹp lại răng. Gã nhanh chóng trở nên phục tùng, không dám ngo nghoe thêm gì nữa.

Ngay sau đó, Bình Cứu hỏa nhận được một cú đánh trời giáng: tôi vặn cánh tay gã ra sau gáy, túm tóc, khóa tay và nhấc lên cho đến khi cánh tay của gã suýt tuột khỏi khuỷu rồi đá đít gã xuống hành lang. Đồng đội của chúng tôi đưa gã và những tù nhân khác tới nơi giam giữ.

Máu chảy nhỏ giọt từ đầu xuống tai tôi. Bây giờ tôi mới ngấm mệt. Tôi đã cố gắng tử tế và mọi thứ diễn ra như vậy đó. Ngẫm lại, Bình Cứu hỏa lẽ ra phải nhận được hai cú vào người và một cú vào đầu. Xem ra tên đáng ghét này vẫn còn chút may mắn.

Chúng tôi thấy nhiều người trên mạn tàu – khu vực rộng gấp hai lần phòng ăn và sự xuất hiện của chúng tôi làm gián đoạn tuần trà Thổ Nhĩ Kỳ và điếu thuốc của họ.

Chúng tôi rà soát con tàu gần như từng centimet, từ đỉnh tới đáy, từ đuôi đến mũi. Đội SEAL số 6 thường dùng 30 lính chiến để đánh chiếm một con tàu tương tự. Vì chúng tôi có ít người hơn và không được chuyên môn hoá như Đội 6, chúng tôi phải mất đến 2 giờ. Nhóm của tôi ở lại mũi tàu trong bóng tối cùng với các tù nhân. Từ buồng lái, Mark truyền lệnh cho trung đội chúng tôi. Cậu DJ phụ trách thông tin ở cạnh ông. Không ai bị thương ngoại trừ cái tên ngu ngốc là tôi. Bây giờ con tàu thuộc về chúng tôi. Các tàu chiến vây quanh khi chúng tôi đứng bập bềnh trên biển. Những chiếc xuồng cao tốc RHIB dập dềnh bên cạnh chúng tôi chở theo Biệt đội Thực thi Pháp luật bảo vệ bờ biển (LEDET), một đơn vị huyền thoại nổi danh về truy bắt tội phạm buôn lậu ma túy tại các vùng biển xa. Xét về tổng thể thì giai đoạn nguy hiểm đã qua.

Chúng tôi gom các tù nhân lại. Thuyền trưởng của con tàu, ở trên buồng lái với Mark, cử người phụ trách kỷ luật xuống để đếm người. Chúng tôi phát hiện ra mình còn bỏ sót một thủy thủ. Có người đang lẩn trốn.

Chúng tôi hỏi các tù nhân xem họ có biết anh ta ở đâu không.

Không ai biết gì cả.

Vì thế chúng tôi phải rà soát lại toàn bộ con tàu chết tiệt. Để lại bốn người canh giữ tù nhân, chúng tôi quay trở lại khu vực phía sau buồng lái và bắt đầu rà soát. Chúng tôi quá mệt khi phải quần thảo lại từng centimet của con tàu mà chúng tôi tưởng rằng đã kiểm soát được. Khi đang tìm kiếm, tôi nhận được điện thoại thông báo đã tìm thấy người kia. Anh ta đang rúc đầu vào giữa các ống dẫn của khoang động cơ để trốn và rất sợ hãi.

Chúng tôi đưa anh ta đến chỗ các bạn của mình ở mũi tàu và tháo còng tay cho tất cả các tù nhân, ngoại trừ Bình Cứu hỏa. Tôi bắt anh ta ngồi trên cái tời, trông giống như một ống cuộn cước có động cơ khổng lồ, một chỗ ngồi khó chịu nhất trên mũi tàu.

Trong khi đó, Mark nói chuyện qua bộ đàm với một phiên dịch viên trên một trong những con tàu để trao đổi với viên thuyền trưởng đứng bên cạnh Mark.

“Các anh đang đặt mìn phải không? Đặt ở đâu? Các anh đang đi đâu? Các anh từ đâu tới?”

“Chúng tôi không đặt mìn.”

“Nếu không, tại sao các anh lại không chở theo loại hàng hoá nào? Tại sao các anh đang trên hành trình rời khỏi Ai Cập trong khi lẽ ra các anh phải trở về nhà chứ?”

Những người này không cho chúng tôi câu trả lời xác đáng. Rõ ràng có điều gì đó rất khả nghi.

Bình Cứu hỏa than phiền: “Mông tôi bị đau.”

Đầu tôi vẫn đau nhức. Tên đáng ghét, may mắn là ngươi vẫn có cảm giác đấy.

Một tù nhân trên mũi tàu luồn tay vào trong áo khoác tìm khẩu súng trong bao súng khoác vai. Các tay súng trên trực thăng chĩa tia laze cảm ứng hồng ngoại vào anh ta khi chúng tôi ấn nút an toàn của các khẩu MP-5, sẵn sàng bắn tung anh ta. Tuy nhiên không có khẩu súng hay bao súng nào cả, đó chỉ là một gói thuốc lá trắng mà thôi.

“Không, không, không, không,” người tù van vỉ. Mắt anh ta nhìn như hai quả trứng rán vậy. Anh ta may mắn vì chúng tôi có nguyên tắc nổ súng rất chặt chẽ, không giống như bốn viên cảnh sát ở New York, những tay đã bắn Amadou Diallo 41 lần khi anh này tìm kiếm chiếc ví của mình.

Một thủy thủ nói được tiếng Anh và chúng tôi trao đổi thông qua anh ta: “Không được di chuyển đột ngột. Không được đưa tay vào trong người vì bất cứ điều gì.”

Bình Cứu hỏa lại rên rỉ: “Mông tôi đau quá.” Tao đang mong mày cho tao cái cớ để nổ súng đây.
Lát sau, một thiếu niên chạy xồng xộc vào mũi tàu. Chúng tôi ngay lập tức quật ngã cậu ta. Sau khi gọi cho Mark, chúng tôi biết rằng cậu bé là người thuyền trưởng cử đến để lấy chìa khóa làm gì đó. Có lẽ là bất cứ khi nào thuyền trưởng ra lệnh, cậu ta đều vội vã làm ngay, nhưng chúng tôi nói rõ với cậu ta: “Không di chuyển nhanh và không chạy.” Tôi thấy thương cậu bé tội nghiệp bởi vì chúng tôi đã đánh cậu ta quá đau.

Thuyền trưởng và thủy thủ vẫn không cho chúng tôi câu trả lời đúng, vì thế những người lính LEDET, được trang bị súng bắn đạn ghém, lên tàu chào chúng tôi, rồi chúng tôi chuyển giao con tàu và tù nhân cho họ. Họ sẽ lái tàu cập bến ở một cảng biển phù hợp nào đó tại Biển Đỏ, nơi mà câu chuyện về những tù nhân này vẫn chưa kết thúc.

Bình Cứu hỏa vẫn bị còng tay khi LEDET tiếp quản. Tôi mong cho đến tận bây giờ anh ta vẫn cứ bị như vậy.

Công việc của chúng tôi đã xong. Thời tiết trở nên xấu hơn, vì vậy chúng tôi không thể về bằng trực thăng. Thay vào đó, chúng tôi dùng các thang cuốn thoát hiểm để rời con tàu và xuống các xuồng cao tốc RHIB của LEDET. Các xuồng này đưa chúng tôi đến con tàu đổ bộ của LEDET.

Chúng tôi lên tàu vào buổi sớm, như vậy chúng tôi đã thức hơn 24 giờ liền. Lần cuối cùng chúng tôi ăn là bữa trưa ngày hôm trước. Không chỉ căng thẳng về thể xác và giảm lượng adrenaline, chúng tôi còn đói gần chết. Trong phòng ăn, mặc dù chưa đến giờ ăn sáng, họ đã mang cho 16 người chúng tôi một bữa ăn khổng lồ. Tôi không nhớ chính xác họ cho chúng tôi ăn những gì, nhưng có vẻ như họ cho chúng tôi ăn cả bữa sáng và bữa tối cùng một lúc: bánh trứng, thịt dăm bông xay, bánh kếp bơ sữa, nước cam, cafe nóng, bít tết, súp măng tây có kem, bắp cải luộc, khoai tây nghiền và bánh táo nóng.

Đầu bếp trưởng bước ra và bắt tay từng người chúng tôi: “Tôi vừa chế biến một số món ăn đặc biệt cho các cậu đấy. Hy vọng là các cậu thích nó.”

“Tuyệt quá,” tôi nói.

“Chúng tôi vừa mới biết là các cậu đến nên chỉ kịp làm thế này thôi.”

Cuộc trò chuyện diễn ra khi chúng tôi ăn. Hình như tất cả các sĩ quan trên tàu đều có mặt. Họ đối đãi với chúng tôi như là những ông hoàng vậy. Dường như tất cả những ai có thể vào được phòng ăn thì đều đến cả. Mọi người muốn gặp gỡ, nói chuyện và trở thành một phần của đội chúng tôi. Sự thân thiện của mọi người có ý nghĩa rất lớn đối với tôi, làm cho tôi cảm thấy mình thật quan trọng.

Gần đầu giờ chiều, những chú chim sắt đến đón chúng tôi hạ cánh xuống phần đuôi chiếc tàu lưỡng cư, chúng tôi vẫy chào tạm biệt và bay trở về tàu Kennedy.

Sau đó, tôi nhận được Bằng khen của Hải quân, trong đó ghi:

Bộ trưởng Quốc phòng hân hạnh trao Bằng khen cho Kỹ thuật viên Tàu thủy Hạng 1 Howard E. Wasdin, Hải quân Mỹ, vì kết quả công tác như sau: Có thành tích tốt trong thực hiện nhiệm vụ của một chuyên gia chiến dịch đường không của Trung đội SEAL số 2 Foxtrot khi được triển khai đến Biển Đỏ yểm trợ cho Chiến dịch Bão táp sa mạc từ ngày 17 tháng Một đến 28 tháng Hai năm 1991. Trong thời gian này, Hạ sĩ quan Wasdin đã không ngừng thực hiện nhiệm vụ khó khăn của mình với một thái độ mẫu mực và có tính chuyên nghiệp cao. Là một chuyên gia chiến dịch đường không chịu trách nhiệm tất cả các hoạt động sử dụng thang dây trên trực thăng của SEAL, nỗ lực làm việc không mệt mỏi của anh đã giúp Đội đột kích duy trì khả năng xâm nhập nhanh chóng và hiệu quả các mục tiêu được xác định. Trong một sứ mệnh của SEAL, anh đã khéo léo chỉ đạo một cuộc xâm nhập và là người đầu tiên đáp xuống tàu để yểm trợ hiệu quả cho đồng đội. Anh tiếp tục là người dẫn đầu nhóm canh giữ tù nhân và đã thể hiện kỹ năng chiến đấu giỏi, góp phần quan trọng vào thành công của sứ mệnh. Kỹ năng nghề nghiệp phi thường, sáng kiến và sự cống hiến hết mình cho nhiệm vụ của Hạ sĩ quan Wasdin thể hiện sự tín nhiệm cao đối với bản thân anh và với Quân chủng Hải quân Mỹ.

“Tôi nhận được yêu cầu chọn ba người cho một chiến dịch bí mật, nhưng tình báo không cho tôi biết chiến dịch đó là gì cho đến khi tôi chọn được người,” Mark nói.

Bên ngoài Trung tâm thông tin tàu sân bay (CVIC), Smudge, DJ và tôi đứng ở lối đi khi Mark đi khuất vào bên trong, một lát sau quay trở lại và nói: “Được rồi.”

Chúng tôi bước vào. Có một phòng nghỉ nhỏ bên phải, trong đó có một máy pha café và một tủ lạnh. Cửa bên trái mở ra căn phòng chính có một bàn họp và các ghế xếp xung quanh. Trên một bức tường treo một tấm bảng trắng và phía trước một bức tường khác đặt một chiếc ti vi và đầu video. Hai chiếc ghế dài bằng da màu đen đặt ở bên cạnh. Một viên sĩ quan thông tin của tàu đang đứng ở giữa phòng. Bên cạnh ông là một người mà chúng tôi chưa bao giờ gặp. Tôi không biết ông ta là ma hay quỷ nữa. Không giới thiệu về mình, người đàn ông chào: “Chúc các qúy ông một buổi sáng tốt lành.”

“Xin chào Ngài.” Chúng tôi không biết chức vụ của ông, nhưng thà lịch sự quá mức còn tốt hơn là có thái độ bất kính.

“Một tên lửa Tomahawk được phóng đi nhưng không trúng mục tiêu và không nổ. Nó rơi xuống lãnh thổ của một nước bạn, nhưng lại có các lực lượng thù địch ở đó. Chúng tôi cần các anh phát nổ quả tên lửa để quân Iraq không thể lấy được công nghệ vô giá đó. Đồng thời, chúng tôi cũng không muốn họ chuyển số thuốc nổ đó thành các thiết bị nổ cải tiến (IED).”

Chúng tôi trở lại phòng ngủ, nơi đặt giường, tủ cùng một chiếc ghế dài và bắt đầu chuẩn bị quân trang. “Chuyện gì vậy?” Những đồng đội háo hức hỏi chúng tôi.

“Bốn người bọn tớ sẽ tham gia một chiến dịch. Thật tiếc là không thể kể chi tiết cho mọi người được.”

Sự háo hức của mọi người giảm xuống khi họ biết rằng 12 người còn lại không được cùng tham gia.

Tôi dùng khẩu CAR-15 có báng nhỏ và ổ đạn 30 viên 5,56 mm. Bên trong tất, tôi đút vài tờ một trăm đô-la. Trong túi đựng đồ ở đùi trái, tôi để bộ đồ E&E: đèn pin, đồng hồ chống nước, com-pa, bản đồ, đèn chiếu thấu kính đỏ, chăn giữ nhiệt và khẩu phần ăn MRE. Trong túi bên phải, tôi để bộ dụng cụ sơ cứu: băng gạc 10 x 10 cm có dây buộc, một mảnh vải lụa và một cuộn băng gạc có vaseline dùng để băng các vết thương nhỏ trên ngực − tất cả đều được bọc trong túi nhựa hút chân không để chống thấm nước.
Đây là bộ nhỏ nhất, chủ yếu dùng cho vết thương chảy máu do dính đạn. Mặc dù lính SEAL thường có trang phục khác biệt và đem theo nhiều vũ khí nhưng chỗ để bộ sơ cứu thì cũng giống như những lính khác. Như vậy, nếu một tay súng ngã xuống, chúng tôi sẽ không phải chơi trò phỏng đoán nơi để bộ sơ cứu đó để tiến hành băng bó cho anh ta. Dĩ nhiên là tôi cũng có thể dùng bộ của mình để băng bó cho đồng đội bị thương, nhưng sau đó nếu tôi cần cho chính mình thì không còn dụng cụ để làm nữa.

Bốn người chúng tôi lên chiếc máy bay SH-3 Sea King với khuôn mặt được ngụy trang bằng vệt kẻ và nốt chấm màu cát nâu nhạt. Smudge mang theo 2 kg thứ giống như đất sét màu trắng nhạt có mùi nhựa đường nóng − chất nổ dẻo C-4. Tôi mang theo các ngòi nổ chậm, kíp nổ và bộ phận kích nổ. C-4 không thể nổ tung nếu không phát hỏa một ngòi nổ chậm, đó là lý do tại sao chúng tôi tách biệt hai thiết bị này. Thiết bị mà Smudge mang theo an toàn hơn. Mặc dù chỉ riêng các ngòi nổ chậm thôi thì không đủ để làm nổ tung một bàn tay, nhưng chúng đã từng làm nổ tung một hoặc hai ngón tay bất cẩn rồi.

Chúng tôi mang theo ít trang thiết bị bởi vì đây sẽ là nhiệm vụ chớp nhoáng. Chiếc trực thăng bay một vài cây số trước khi giảm tốc độ xuống còn 10 hải lý khi ở độ cao 3m so với mặt nước. Tôi bước ra cạnh máy bay, để bộ chân vịt hướng thẳng xuống dưới rồi rơi xuống xuyên qua những tia nước sắc buốt do cánh trực thăng khuấy lên. Tôi không nghe được tiếng rơi tõm của mình trong tiếng ồn ào của lưỡi cánh quạt chém vào không khí trên đầu.

Từng người một trong số chúng tôi nhảy qua cửa bên sườn máy bay xuống biển. Tương tự như việc tụt dây xuống, mỗi người nhảy xuống sẽ làm giảm trọng tải của trực thăng, khiến chiếc trực thăng vút lên cao − và phi công phải chú ý điều chỉnh lại.

Người lính SEAL cuối cùng hy sinh tại chiến trường Việt Nam là trung úy Spence Dry. Anh nhảy từ trực thăng xuống, chiếc trực thăng đang bay với tốc độ hơn 20 hải lý một giờ bỗng bốc vút lên cao hơn 10m và làm gãy cổ Dry.

Vừa bơi tôi vừa nhìn xung quanh. Mọi người có vẻ đều ổn cả. Một ánh sáng nhấp nháy từ bờ biển − tín hiệu của chúng tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy lạnh. Chúng tôi xếp thành một hàng và hướng mặt về phía tín hiệu. Tôi bơi nghiêng, đạp nước dài, sâu và chậm để đẩy thân mình đi thật nhanh, cố gắng duy trì hàng ngũ với những người khác. Động tác bơi làm tôi ấm áp hơn. Khi đến vùng nước nông có thể đứng được, chúng tôi dừng lại quan sát bờ biển. Chưa có dấu hiệu nguy hiểm. Tôi gỡ chân vịt ra và móc vào một dây thun buộc quanh lưng. Sau đó chúng tôi trườn vào bờ biển. Smudge và DJ tản ra cánh trái và cánh phải. Tôi yểm trợ cho Mark bằng khẩu CAR-15 khi anh tiến đến chỗ ánh sáng, ở đó là một người Ả Rập có thân hình quả lê. Anh ta là người của chúng tôi. Họ trao đổi theo quy ước. Mark kéo tai trái. Viên mật vụ xoa xoa bụng bằng tay trái. Cho đến nay mọi việc vẫn tốt.
Xoay lưng nhân viên này lại, tôi khóa tay anh ta và kiểm tra khắp người để tìm vũ khí, điện đài hay bất cứ thứ gì không thuộc về anh ta. Có vẻ như không có gì nghi vấn cả. Tôi mở khóa tay cho anh ta.

Mark ra dấu hiệu gọi Smudge và DJ đi vào. Sau khi họ vào cùng chúng tôi, tôi chú ý đến viên mật vụ trong khi chúng tôi di chuyển vào bên trong. Nếu anh ta tỏ ra bồn chồn một cách không bình thường khi chúng tôi đến gần mục tiêu, tôi sẽ biết liệu anh ta có thể đưa chúng tôi vào một trận địa mai phục nào đó không. Nếu anh ta đưa chúng tôi đến một vị trí mai phục, tôi sẽ là người đầu tiên găm một viên đạn vào đầu anh ta. Tôi chưa từng nghe thấy một điệp viên hai mang nào sống được khi dẫn lính SEAL vào trận địa mai phục. Trưởng nhóm Mark bám theo tôi và nhân viên mật vụ, tiếp đó là DJ cùng với chiếc điện đài. Smudge đi sau cùng.

Sau khi di chuyển thận trọng 800m trên cát, chúng tôi dừng lại ở một địa điểm cách một con đường đất 100m và nằm sấp xuống trong khi nhân viên mật vụ nhặt một hòn đá to, bước lên phía trước và đặt bên cạnh con đường. Sau đó anh quay trở lại và cùng nằm sấp xuống với nhóm của chúng tôi. Thân thể ướt sũng của tôi bắt đầu run rẩy. Sa mạc nóng vào ban ngày nhưng lạnh vào ban đêm và nếu bị ướt thì vấn đề càng thêm tồi tệ. Tôi muốn đi tiếp, nhưng không thích thú gì việc bị ăn đạn vì di chuyển quá sớm. 15 phút sau, một chiếc xe địa phương dừng lại bên lề đường (gần tảng đá). Chúng tôi chĩa các khẩu CAR-15 giảm thanh vào chiếc xe. Một người đàn ông mặc áo choàng trắng bước ra khỏi chiếc xe tải và bước đi 100m về phía chúng tôi.

“Dừng lại,” Tôi nói bằng tiếng Anh. “Quay đầu lại.” Anh ta làm theo.
“Bước lùi về hướng tôi.”

Khi anh ta đến chỗ chúng tôi, chúng tôi tóm lấy, trói lại và lục soát. Sau đó chúng tôi đi cùng người lái xe đến chỗ chiếc xe của anh ta và lục soát nó. Anh ta lái xe 20 phút đưa chúng tôi đến mục tiêu ở đâu đó giữa sa mạc. Anh ta dừng xe lại và đi bộ đoạn đường còn lại cùng với chúng tôi. Quả tên lửa nằm ở đó. Mặc dù nó đã tiếp đất rất mạnh, nhưng trông vẫn như còn nguyên. Chúng tôi lập một vòng cảnh giới bảo vệ trong khi Smudge chuẩn bị hai túi C-4. Mỗi túi vải xanh lớn đó chứa 1kg C-4 ở đáy. Cậu đặt một túi trùm lên đầu tên lửa và luồn dây khâu miệng chiếc túi vào một cái móc ở đầu túi, thít chặt lại. Cuối cùng, Smudge làm tương tự như vậy với đầu kia của quả tên lửa.

Cậu vỗ vai tôi rồi thế vào vị trí cảnh giới trong khi tôi ấn một ngòi nổ chậm vào mỗi khối C-4. Không kịp nghĩ ngợi điều gì, tôi chỉ cố gắng không xử lý kém tình huống này. Tôi đút hai ngòi nổ chậm vào hai kíp nổ hẹn giờ, giữ cho chúng thẳng lên. Sau đó, tôi vặn chặt hai bộ phận kích nổ (M-60) vào hai kíp nổ. Một tay giữ bộ phận kích nổ, một tay tôi kéo đồng thời cả hai dây giật. Pop! “Sắp nổ rồi.” Tôi có thể ngửi thấy mùi cordite (một loại thuốc nổ không khói) khi các kíp nổ cháy. Có khoảng trên dưới 3 phút trước khi chiếc tên lửa nổ tung.

Tôi cùng đồng đội lao đi. Rất khẩn trương. Chúng tôi nấp sau một gờ cát tự nhiên trông giống như một con lươn giảm tốc khổng lồ.
Bùm! Cát trút xuống đầu chúng tôi.

Chúng tôi quay lại chỗ quả tên lửa để chắc chắn rằng nó đã biến thành những mảnh vụn. Mark ra dấu OK và chúng tôi trở lại xe.

Người lái xe đưa chúng tôi trở lại điểm dừng bên con đường có hòn đá, nhưng Mark bảo anh ta đưa chúng tôi đi xa hơn để tránh khả năng dừng lại ở trước một trận địa mai phục. Sau khi người lái xe cho chúng tôi xuống, đợi cho anh ta và viên mật vụ rời đi, chúng tôi quay trở lại bờ biển. Trên bờ biển, DJ gọi trực thăng vì biết chúng tôi đang trên đường về. Chúng tôi đeo chân vịt và xuống nước. Tôi thấy vui vì đã ra khỏi khu vực nguy hiểm và bơi rất nhanh. Ai cũng bơi nhanh. Bơi nhanh làm cơ thể chúng tôi ấm lên. Những gì chúng tôi được dạy ở BUD/S thật chính xác: Mẹ Đại dương là nguồn an ủi và là sự an toàn của bạn.

Khi trực thăng đến gần, chúng tôi xếp hàng cách nhau 5 m, để lộ ra tia thiết bị hồng ngoại được gắn vào các áo phao bơm phồng. Chiếc trực thăng lượn trên đầu, cánh quạt khuấy tung bọt biển. Nước biển mặn táp vào mặt nạ của tôi. Một chiếc thang cuốn được thả xuống, tôi móc khuỷu tay vào một thanh ngang leo lên. Khi chân tôi đặt lên chiếc thang, tôi chân đẩy người lên chứ không dùng cánh tay để kéo, như vậy sẽ không làm cánh tay tôi rã rời. Khi lên đến đỉnh thang, tôi dùng tay đu người lên chiếc trực thăng.

Khi tất cả chúng tôi đã lên máy bay an toàn, một thành viên đội bay kéo chiếc thang lên và chiếc trực thăng đưa chúng tôi đi. Bên trong máy bay, chúng tôi vỗ lưng nhau và thở phào nhẹ nhõm.
Chắc là do con tàu Kennedy đã đi gần chúng tôi hơn nên chuyến trở về không lâu như trước nữa. Chúng tôi đã hoàn thành một nhiệm vụ bí mật mà có người cho rằng vô cùng quan trọng.

Một vài ngày sau, tôi lại đứng ở bên ngoài CVIC. Lần này chỉ có DJ và tôi. Mark gọi chúng tôi vào và một lần nữa, chúng tôi gặp Người Không Tên.

Ông bắt tay chúng tôi và không lãng phí thời gian, ông nói: “Chúng ta vào chuyện luôn nhé?”.

Chúng tôi gật đầu.

Ông giải thích: “PLO lên tiếng ủng hộ cuộc xâm lược Kuwait của Saddam Hussein. Hiện họ đã bắt đầu làm ăn ở Iraq. Người Iran đang hợp tác với PLO để huấn luyện khủng bố tấn công các lực lượng liên minh. Gần đây, họ đã gài một thiết bị IED ven đường và một xe của ta đã vấp phải. Chúng tôi muốn các anh định hướng cho một tên lửa dẫn đường tấn công mục tiêu doanh trại PLO-Iran ở Đông Nam Iraq, sau đó gửi cho chúng tôi một Báo cáo đánh giá thiệt hại chiến trường (BDA).”

Mark thảo luận kế hoạch của ông với chúng tôi, sau đó DJ và tôi ra ngoài để chuẩn bị quân trang. Như mọi lần, chúng tôi phải chắc chắn rằng mình không có gì bắt sáng hoặc gây ra tiếng ồn trên người, do đó chỉ cần một lớp sơn hay một cuộn băng màu cát là mọi việc sẽ ổn. Sau khi chuẩn bị xong hành trang, cuối buổi chiều, chúng tôi lên chiếc máy bay Sea King từ sân bay của tàu John F.Kennedy. Tôi ngủ suốt và tỉnh dậy khi máy bay hạ cánh xuống căn cứ tiền tiêu. Trời đã tối hơn – thời khắc sắp điểm rồi. Một người dân tên là Tom với gương mặt chất phác, mặc quần bò xanh và áo phông xám đưa cho chúng tôi chìa khóa của chiếc Humvee: “Tôi vừa rửa xe bóng loáng rồi đấy.” Tôi nhìn chiếc xe cáu bẩn và mỉm cười. Tuyệt.
Vì trời không mây và có trăng khuyết, DJ và tôi có thể quan sát được trong bóng tối. Kẻ thù chắc cũng nhìn thuận lợi, nhưng bầu trời trong sẽ giúp tên lửa tìm được mục tiêu. Sau khi lái 48 km qua sa mạc để tránh đường sá, nhà cửa, các khu vực đông dân cư và các bốt điện thoại, chúng tôi tới một địa điểm có địa hình hơi trũng xuống, khoảng 3m giống y như những gì chúng tôi đã thấy trên bản đồ vệ tinh ở CVIC. Sau khi tạo các dấu vết giả quanh vị trí của mình, chúng tôi dừng lại ở chỗ trũng và xóa dấu vết xâm nhập. Tiếp theo, chúng tôi bọc chiếc xe bằng lưới ngụy trang sa mạc. Chúng tôi nằm cạnh nhau dưới đất, mặt hướng ra các phía khác nhau, lặng lẽ quan sát và lắng nghe để phát hiện khi có người đến. Những phút đầu trôi qua thật căng thẳng. Đó có đúng là bụi rậm không? Có thể họ đang theo dõi chúng tôi. Họ có bao nhiêu người? Liệu chiếc Humvee có khởi động lại được không nếu chúng tôi cần thoát ra? Liệu chúng tôi có chạy kịp không? 30 phút sau, tôi lấy lại bình tĩnh và tiến về phía trước, sử dụng GPS để định hướng.

Vì chỉ có hai người, hỏa lực của chúng tôi sẽ yếu hơn so với một thủy thủ đoàn và chúng tôi cần cẩn trọng hơn để không bị phát hiện. Thính giác của tôi trở nên nhạy bén với từng âm thanh nhẹ nhất. Chúng tôi cúi mình khi bước đi, chậm chạp và lặng lẽ, tránh khu đất cao có thể khiến bóng của mình nổi lên.

Sau gần 5 km, tới chân một quả đồi. Doanh trại PLO-Iran nằm ở phía bên kia. Tôi đi trước DJ và chúng tôi leo gần 200m cho đến khi tới gần một cái dốc. Khi đến gần đỉnh đồi, chúng tôi bò thấp người vòng sang phía bên kia đồi. Cách đó khoảng 1,6 km, tôi nhìn thấy bức tường của một doanh trại hình tam giác có tháp canh ở các góc bao quanh ba tòa nhà lớn bên trong. Tôi cũng nhìn thấy một người lính đối phương đang ngồi cách 60m về phía bên phải của quả đồi với ống nhòm quanh cổ và trên lưng là khẩu súng trường.

Tôi dừng lại và ra hiệu cho DJ bằng một nắm đấm giơ lên: Dừng lại. DJ dừng lại.

Người lính gác vẫn ngồi im.

Sau khi chỉ hai ngón tay vào mắt mình rồi chỉ về hướng người lính gác, tôi bò trở lại. DJ cũng rút ra. Chúng tôi đi vòng lại sau lưng đồi cho đến khi tìm thấy một cái dốc khác. Lần này khi đi ngang qua, chúng tôi thấy rõ mục tiêu không có lính gác ở gần đó. Mắt chúng tôi tìm kiếm khu vực xung quanh rồi nhìn ra xa hơn cho đến khi trại lính lọt vào tầm mắt. Chúng tôi chỉ có thể nhìn thấy duy nhất những người lính bảo vệ trên các tháp canh.

Trong khi tôi cảnh giới, DJ gửi đi một thông điệp mã hóa qua chiếc đài mang theo để báo cho USS San Jacinto biết vị trí của chúng tôi. Chắc là có một thông điệp khẩn được hồi đáp vì DJ gật đầu, ra hiệu “tiếp tục” cho tôi.

Tôi lấy ra thiết bị chỉ thị mục tiêu hạng nhẹ (AN/PED-1 LLDR) (thực ra cũng không nhẹ lắm) và giá đỡ của nó trong khi DJ bảo vệ vòng ngoài. Sau khi đánh dấu vị trí của mình bằng một đèn hiệu, tôi vẽ tòa nhà giữa trong doanh trại PLO-Iran, đánh dấu nó bằng các nhịp ánh sáng vô hình đã được mã hóa của đèn laze. Ánh sáng này sẽ phản vào mục tiêu và chiếu lên trời để tên lửa Tomahawk phát hiện được.

Tên lửa hành trình dường như bay song song với mặt đất. Một vệt khói trắng vờn quanh cái đuôi đang cháy của nó. Tomahawk dần dần hạ xuống cho đến khi nó đánh trúng vào tòa nhà trung tâm, và 500 kg thuốc nổ phát nổ thành một quả cầu lửa kéo theo những đám khói đen mịt mù. Cơn chấn động và các mảnh vỡ rơi xuống làm vỡ toác tường của hai tòa nhà khác gần đó, gây ra vụ nổ thứ phát ở một tòa nhà − có lẽ là nơi chứa các chất nổ dùng để sản xuất thiết bị IED. Hai trong số ba tháp canh bị vỡ tung. Qua ống nhòm, tôi nhìn thấy rõ một lính canh văng ra khỏi tháp và bay trong không khí như một con búp bê bằng bông. Bức tường của trại lính chỉ còn là một đống đổ nát. Tôi không thấy ai chạy ra từ doanh trại. Từ ngọn đồi của chúng tôi, người lính gác chạy bổ về phía doanh trại, hy vọng tìm thấy người sống sót trong số bạn bè của anh ta.

Chúng tôi thu dọn và đi theo đường khác đến chỗ để xe. Người ta thường dễ trở nên thỏa mãn trên đường về, vì vậy quan trọng là chúng tôi phải thận trọng hơn. Sau khi gỡ bỏ lưới ngụy trang, chúng tôi nhảy lên xe và lái đi. Một lần nữa chúng tôi lại đi đường khác với đường vào lúc ban đầu.

Trên đường lái xe về nhà, tôi phát hiện một vị trí giống như một nửa boongke của địch trồi trên mặt đất. Tôi đi vòng để tránh nó và chiếc Humvee bị sa xuống cát. Khi tôi cố gắng tăng ga để đưa chiếc xe thoát ra thì bánh xe càng lún sâu xuống làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn.

Đúng lúc đó, một đám lính Iraq đi ra ngoài boongke.

DJ và tôi chĩa súng CAR-15 vào họ.

14 người bọn họ giơ tay lên trời và bước về phía chúng tôi. Tôi không nhìn thấy sự đe dọa trên gương mặt của họ. Họ bẩn thỉu và hôi hám. Da của họ như dính chặt vào xương; không biết là họ đã nhịn đói bao lâu rồi. Họ đặt tay lên miệng, cử chỉ thông dụng quốc tế biểu thị hành động muốn xin thức ăn. Trong cuộc chiến, một số lính Iraq thậm chí còn đầu hàng cả những nhóm quay phim, họ rất sẵn sàng đầu hàng và không muốn chiến đấu.

Trên mặt đất, những tấm vải rách được họ dùng để nút chặt các đầu súng trường nhằm ngăn cát lọt vào. Chúng tôi bước ra khỏi xe và yêu cầu họ dùng tay đào một cái hố. Sau đó chúng tôi ra lệnh thả vũ khí vào đó. Trong khi làm, dường như họ càng sợ hãi hơn, chắc là họ tưởng chúng tôi sẽ hành hình họ ngay sau đó.
Chúng tôi ra hiệu cho họ phủ đất lên cái hố. Họ bớt sợ hãi hơn và tuân lời. Có lẽ trong số đó có những người đã có vợ con. Đa số họ đều tầm tuổi tôi. Sự sống chết của họ hoàn toàn nằm trong tay tôi. Họ nhìn tôi như thể tôi là Chúa Trời vậy.

Lòng trắc ẩn dâng trào, tôi đưa cho họ hai khẩu phần MRE mà tôi đã chuẩn bị để làm khẩu phần ăn khẩn cấp trong trường hợp phải đào thoát và lẩn trốn. Với 14 người thì số thức ăn đó không phải là nhiều, nhưng họ chia đều cho tất cả. Một người thậm chí còn ăn cả Chiclets. Ồ, bạn biết đấy, đó thực sự là kẹo cao su bọc đường, nhưng ăn đi. Không sao đâu, cứ ăn đi. Chúng tôi cho họ gần hết số nước uống của mình. Họ khoanh tay và cúi đầu thành kính để cảm ơn chúng tôi. Họ đã rất khôn ngoan không tìm cách chạm vào người chúng tôi hoặc xâm phạm vào không gian cá nhân của chúng tôi.

Những tia nắng đầu tiên xuất hiện phía chân trời. Đã đến lúc phải đi. Chúng tôi yêu cầu đám tù binh đặt tay lên đầu. Tôi đánh dấu vị trí chiếc Humvee trên GPS và đi bộ phía trước trong khi DJ bám theo để bảo vệ phía sau. Nếu có viên phi công nào đó bay qua và phát hiện ra chúng tôi, anh ta sẽ rất ngạc nhiên khi thấy cảnh chỉ có hai người Mỹ cùng 14 tù binh bị bắt giữ đang đồng hành ở giữa sa mạc. Chúng tôi trông như là những vị thần chiến tranh vậy. Hai lính SEAL Hải quân bắt giữ 14 lính Iraq.

Khi chúng tôi tới căn cứ, Tom cự nự: “Các anh đem cho chúng tôi những gã này làm cái quái gì vậy?”

“Ồ, thế anh muốn chúng tôi làm gì với họ?” “Giữ họ lại.”

“Chúng tôi không thể giữ họ được.”

Không lâu sau trực thăng đến và chúng tôi để đám tù nhân của mình ở đó. Họ vẫn khoanh tay cúi đầu và cảm ơn chúng tôi. Chiếc trực thăng cất cánh đưa chúng tôi trở lại tàu John F.Kennedy.

Hồi ở BUD/S và cho đến tận lúc đó, tôi cứ nghĩ rằng tất cả những người mà chúng tôi chống lại đều là người xấu. Rằng chúng tôi đạo đức hơn họ. Tôi dùng ngôn ngữ để làm cho việc giết chóc trở nên đáng trân trọng hơn: “tàn phá”, “loại trừ”, “trừ khử”, “kết liễu”, “tống khứ”… Trong quân đội, đánh bom được gọi là “tấn công nhanh gọn mục tiêu quân sự” còn dân thường thiệt mạng thì gọi là “tổn thất phụ”. Thực hiện mệnh lệnh là lý lẽ giúp gỡ bỏ trách nhiệm giết chóc khỏi vai tôi và đặt nó vào một cấp độ cao hơn. Khi tôi ném bom khu doanh trại, tôi càng giảm tránh trách nhiệm của mình bằng việc chia sẻ nhiệm vụ: Tôi đánh dấu mục tiêu, DJ thông báo cho tàu và ai đó thì nhấn nút phóng tên lửa.
Không có gì lạ khi những người lính chiến thường “vô nhân đạo hoá” kẻ thù − miệt thị những người Iraq thành “những cái đầu giẻ rách” và “những kẻ ngu dốt cưỡi lạc đà”. Trong văn hoá chiến tranh, ranh giới giữa nạn nhân và kẻ chiến rất mong manh. Tất cả những điều này giúp tôi thực hiện nhiệm vụ, nhưng cũng có thể bịt mắt không cho tôi thấy được nhân tính của đối phương.

Dĩ nhiên SEAL đã huấn luyện chúng tôi phải xác định mức độ bạo lực phù hợp với yêu cầu của tình huống, phải được điều chỉnh tăng và giảm giống như điều chỉnh một công tắc đèn vậy. Không phải lúc nào bạn cũng muốn chùm đèn sáng lên. Nhưng đôi khi bạn lại muốn làm vậy. Cái công tắc đó vẫn ở trong tôi. Tôi không muốn, nhưng có thể bật nó lên khi cần. Tuy nhiên, việc huấn luyện không chuẩn bị cho tôi cách thức đánh giá nhân tính trong 14 con người cụ thể đó. Đó là điều mà bạn phải trực tiếp chiến đấu mới có thể cảm nhận được. Không thể là đánh trận giả. Có thể tôi nên găm một viên đạn vào đầu của mỗi người bọn họ và khoe khoang về việc tôi đã tiêu diệt được bao nhiêu tên. Một số người nghĩ về lính SEAL chỉ như là những cỗ máy kích động và giết người không cần suy nghĩ: “Ồ, anh là một kẻ ám sát.” Tôi không thích điều đó. Tôi không tán thành chuyện đó. Nhiều người lính SEAL hiểu rằng nếu bạn có thể thực hiện một chiến dịch mà không gây tổn thất về nhân mạng thì đó là một chiến dịch tuyệt vời.

Nhìn thấy 14 người đó, tôi nhận ra rằng họ không phải là kẻ xấu. Họ chỉ là những kẻ bần cùng gần như chết đói, thiếu trang thiết bị, không có súng, không có tư tưởng, đi theo kẻ người điên rồ nào đó, kẻ đã quyết định xâm lược một nước khác. Nếu họ không đi theo kẻ điên rồ đó thì Vệ binh Cộng hòa sẽ hành quyết họ. Tôi cho rằng họ đã mất ý chí chiến đấu. Và có lẽ họ thậm chí chưa bao giờ có ý chí chiến đấu ngay từ giây phút đầu tiên.

Họ cũng là chỉ là những con người giống tôi. Tôi khám phá nhân tính của mình và nhân tính của những người khác nữa. Đó là một bước ngoặt đối với tôi − đó là lúc tôi trưởng thành. Chuẩn mực của tôi về phải và trái trong chiến đấu trở nên rõ ràng hơn, được xác định bằng những gì tôi làm và không làm. Tôi đã cho 14 người lính Iraq thức ăn và đưa họ tới một nơi an toàn hơn. Tôi không giết họ. Bất kể bạn thắng trận hay thất trận thì chiến tranh vẫn là địa ngục.

Quay trở lại tàu Kennedy, trí óc tôi như đã sáng hơn. Mặc quần soóc và áo phông ngồi trên ghế lau súng, tôi suy nghĩ về cách mình đã gặp kẻ địch gần đến thế. Tôi biết rằng mình có thể đối chọi và đánh bại họ ở một mức độ bạo lực nhất định. Hơn nữa, tôi nhận ra rằng quan trọng là phải hiểu kẻ địch của chúng ta cũng là con người.

Chiến dịch Bão táp sa mạc chỉ diễn ra trong 40 ngày. Chúng tôi giận dữ vì không được đến Baghdad để tham gia kết thúc chiến dịch. Tàu Kennedy dừng lại ở Ai Cập, nơi chúng tôi đưa tất cả trang thiết bị khỏi tàu và nhận phòng một khách sạn năm sao ở Hurghada. Vì không phải là mùa du lịch và chiến tranh mới xảy ra nên chúng tôi là nhóm khách duy nhất. Khi chúng tôi đang ăn tối, trung đội trưởng bước vào và vỗ vào lưng tôi: “Chúc mừng, Wasdin, cậu đã lên Hạng.” Tôi đã được thăng từ E-5 lên E-6. Với Howard, cuộc đời mới thật thú vị làm sao! Chúng tôi đợi hai tuần để được bay trở lại Machrihanish, Scotland, kết thúc 6 tháng tham chiến.

Tôi không hồi tưởng, không gặp ác mộng, không khó ngủ, không mất khả năng tập trung, không suy nhược và cũng không tự coi thường bản thân vì đã tham gia vào một cuộc giết chóc lần đầu tiên − nhìn thấy người lính bị thổi bay khỏi tháp canh của PLO và rơi xuống đất tử vong. Những cảm xúc đó dường như ít bắt gặp hơn trong số binh sĩ các lực lượng đặc biệt. Có thể là do phần lớn những người nhạy cảm với trạng thái căng thẳng đó đã bị loại ra trong quá trình huấn luyện BUD/S và việc huấn luyện căng thẳng đã giúp binh sĩ sẵn sàng hoạt động với cường độ cao trong chiến tranh. Tôi bắt đầu lập cách kiểm soát suy nghĩ, cảm xúc và nỗi đau của mình từ rất sớm − đó là vấn đề sống còn − và điều đó đã giúp tôi ứng phó được với những thách thức trong các đội. Tôi đã chịu đựng được những đau đớn từ sự ác nghiệt của bố dượng tôi, từ Tuần Địa ngục và các kinh nghiệm khác và đặc biệt, tôi đã trải qua chiến tranh.

Mặc dù vậy, thực ra thâm tâm tôi rất lo lắng khi lần đầu tiên giết chóc. Tôi lo lắng không biết liệu mình có làm đúng không. Trên ti vi hay các trò chơi video, dường như giết chóc không phải là chuyện gì to tát cả. Tuy nhiên, tôi đã buộc phải ra quyết định kết thúc sự sống của ai đó. Những người mà tôi giết sẽ không bao giờ gặp lại gia đình họ nữa. Sẽ không bao giờ được ăn hay sử dụng nhà vệ sinh nữa. Không bao giờ thở nữa. Tôi lấy đi mọi thứ mà họ có hoặc sẽ có. Đối với tôi, đó là một chuyện lớn. Tôi không thể coi nhẹ điều đó được. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn không coi nhẹ nó. Trong một chuyến về thăm nhà, tôi nói chuyện với Cha Ron: “Khi chiến đấu, lần đầu tiên con đã giết người. Con làm có đúng không, thưa Cha?”.
“Con đã phụng sự đất nước đúng theo luật pháp.” “Chuyện này sẽ ảnh hưởng như thế nào tới con khi thời gian qua
đi thưa Cha?”

“Điều đó sẽ không thể có tác động tiêu cực đến tiếng tăm của con đâu.”

Lời lẽ của Cha đã an ủi tôi. Em gái út của tôi, Sue Anne, một nhà trị liệu tâm lý cho rằng tôi có gì đó không ổn. Tôi không thể xử sự bình thường được nếu không kìm nén điều gì đó. Sue chỉ không hiểu thực tế rằng tôi thực sự thoải mái với quyết định của mình và ổn định về tinh thần.

Có một vài bí mật giữa những người lính SEAL với nhau. Chúng tôi thường xuyên quanh quẩn bên nhau và hiểu rất rõ nhau. Tôi biết màu tóc con gái của một người bạn, cỡ giầy của vợ anh ta và mọi việc đang diễn ra. Tôi biết chi tiết về bạn bè của mình nhiều hơn những gì mà tôi muốn biết. Tôi cũng biết ai muốn thử sức sang Đội SEAL số 6.

Smudge, DJ, 4 người khác từ các lực lượng SEAL ở trung đội Foxtrot và tôi nộp đơn xin gia nhập Đội SEAL số 6. Smudge, DJ và tôi vượt qua được vòng xét duyệt hồ sơ, nhưng những người khác thì không được chọn. Một người tỏ ra rất tức giận vì anh là lính SEAL thâm niên hơn tôi. Đơn xin gia nhập của chúng tôi đã được chấp nhận, và khi Chỉ huy trưởng của Đội 6 đến thăm đơn vị chúng tôi, ông phỏng vấn chúng tôi. Trớ trêu là lẽ ra đơn vị chúng tôi chỉ có một người được chấm qua vòng phỏng vấn và cạnh tranh cho vòng tiếp theo, nhưng cả ba chúng tôi đều đạt, điều đó có nghĩa là Đội nào đó khác sẽ có tỷ lệ trượt cao hơn.

Đơn vị cho chúng tôi một khoảng thời gian để tham gia cuộc phỏng vấn vào Đội 6 vốn thường chỉ diễn ra mỗi năm một lần. Tháng Năm năm đó, tôi được tham gia kỳ kiểm tra chính ở Dam Neck, Virginia, mặc dù Đội 6 thường yêu cầu những người xin gia nhập phải có ít nhất 5 năm kinh nghiệm ở SEAL. Những người lính SEAL xếp hàng để được phỏng vấn trông như những đứa trẻ hồi hộp chờ đợi được cưỡi xe trên Đỉnh Vũ trụ ở Disneyland.
Những người như chúng tôi bay đến từ Scotland. Những người khác từ California, Puerto Rico, Phillippines và nhiều nơi khác. Đối với một vài người, đây không phải là lần đầu tiên họ được phỏng vấn.

Bên trong phòng kiểm tra, những người phỏng vấn tôi hầu hết đều là lính SEAL có thâm niên − những người lính SEAL thực thụ. Họ thể hiện phong cách rất chuyên nghiệp. Những người phỏng vấn hỏi tôi nhiều về nhận thức các sự vật. Về những trận đánh mà tôi đã tham gia. “Nhược điểm của anh là gì? Anh cần làm việc ở đâu?” Với một người lính SEAL trẻ, thật khó mà có câu trả lời rõ ràng. Nếu bạn không nhận thức được những điều đó và không có ý chí thực hiện chúng thì làm sao bạn có thể tiến bộ được?

Một người thử làm tôi bối rối một chút: “Anh có uống nhiều rượu không?”

“Không.”

“Nhưng anh có đi ra ngoài uống rượu với bạn bè chứ?”

“Vâng.”

“ Và anh uống hết mình?” “Không?”
“Anh có uống nhiều không?”

“Tôi không biết trả lời câu hỏi đó thế nào. Có điều tôi muốn nói rằng tôi không uống đến mức để lại hậu quả.” Tôi không uống đến mức đau đầu, chóng mặt hay say mèm. “Nếu bạn bè của tôi vào thị trấn và uống rượu, 99% là tôi đi với họ. Nếu có việc phải làm, chúng tôi không uống. Vì thế tôi không biết trả lời lại thế nào. Tôi không uống đến mức nguy hại. Tôi uống vì tình bạn.”

Ông ấy mỉm cười: “Tốt.”

Tôi rời khỏi phòng, băn khoăn không biết mình đã làm thế nào. Tiến trình kiểm tra và phỏng vấn là một kinh nghiệm lạ lẫm đối với tôi. Lát sau, một lãnh đạo cao cấp bước ra và bảo tôi: “Đó là cuộc phỏng vấn tốt nhất mà tôi từng tham dự.”
“Nhưng tôi mới chỉ phục vụ ở SEAL được hai năm rưỡi.” “Anh đã có đủ kinh nghiệm thực tế. Tôi chắc là điều đó sẽ có ích đấy.”

Nếu tôi không tham gia chiến dịch Bão táp sa mạc, có lẽ tôi sẽ phải đợi hai năm rưỡi nữa.

Hai tuần sau, Chỉ huy trưởng Norm Carley gọi Smudge, DJ và tôi vào văn phòng của mình. Ông cho chúng tôi biết thời điểm trở thành người của Đội Em út Xanh lục (Green Team), việc chúng tôi được tuyển chọn và sẽ được huấn luyện để trở thành binh sĩ Đội SEAL Số 6. “Chúc mừng các anh! Tôi không muốn thấy các anh rời bỏ chúng tôi, nhưng ở Đội SEAL số 6 các anh sẽ gặp rất nhiều điều thú vị đấy.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.