Kinh Dịch Trọn Bộ

QUẺ LY



Ly trên ;Ly dưới

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Quẻ Ly, Tự quái nói rằng: Khảm tức là hãm, bị hãm, thì phải bám[1], cho nên tiếp quẻ Ly, tức là bám, bị hãm vào chỗ hiểm nạn ắt phảỉ có sự dính bám, đó là lẽ tự nhiên, vì vậy, quẻ Ly mới nối quẻ Khảm. Ly là bám lại là sáng nữa, lấy về hào Âm bị mắc giữa hai hào Dương thì nghĩa nó là dính bám, lấy về giữa trống, thì nghĩa là sáng; Ly là lửa, thể lửa bám hờ ở vật khác mà sáng; Ly lại là mặt trời, cũng là cái Tượng trống không mà sáng.

LỜI KINH

灕利貞, 亨, 畜牝牛, 吉.

Dịch âm. – Ly lợi trinh, hanh, xúc tẫn ngưu, cát

Dịch nghĩa. – Quẻ Ly vệ sự chính, hanh, nuôi trâu cái, tốt.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Ly là bám, muôrĩ vặt chẳng vật nào không có chỗ bám. Có hình thì có bám, ở người ta, thì là: những kẻ thân phụ những đường noi theo, những việc chủ trương, đều là bám cả. Cái mà người ta vẫn bám, lợi về trinh chính, được chính thì có thể hanh thông, cho nên nói rằng quẻ Ly lợi về sự chính, hanh. Nuôi trâu cái tốt, nghĩa là: tính trâu đã thuận, mà lại cái nữa, tức là thuận đến tột bậc. Đã dính bám vào sự chính cần phải thuận theo chính đạo, như con trâu cái, thì tốt. Nuôi trâu cái tức là nuôi cái đức thuận. Đức thuận của người ta do ở sự nuôi mà nên, đã bám vào sự chính thì nên nuôi tập cho thành đức thuận của mình.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Ly là bám. Âm bám vào Dương, Tượng nó là lửa; thể là Âm mà dụng là Dương. Sự dính bám của các vật quý được chính đạo. Trâu cái là giống mềm thuận, cho nên kẻ xem chính đươc thì hanh, mà nuôi trâu cái thì tốt.

LỜI KINH

彖曰: 灕, 農也, 日月麗乎天.百榖草木麗乎地.

Dịch âm. – Thoán viết: Ly lệ dã, nhật nguyệt lệ hồ thiên, bách cốc thảo mộc lệ hồ địa.

Dịch nghĩa. – Lời Thoán nói rằng: Ly tức là bám, mặt trời mặt trăng bám ở trời, trăm giống thóc, cây, cỏ bám ở đất.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Ly là bám, tức là phụ bám, như mặt trời, mặt trăng thì bám ở trời, trăm giống thóc, cây, cỏ thì bám ở đất, muôn vật, chẳng vật nào không có chỗ bám, ở trong trời đất, không có vật nào là không bám vào đâu. Ở người ta nên xét chỗ bám của mình, hễ được chỗ chính thì hanh.

LỜI KINH

事明以麗乎正,乃化成天下.

Dịch âm. – Trùng minh dĩ lệ hồ chính, nãi hóa thành, thiên hạ.

Dịch nghĩa. – Hai lần sáng để bám vào chỗ chính; bèn hóa nên thiên hạ.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Đây lấy tài quẻ mà nói. Trên dưới đều thể Ly, là hai lần sáng; hào Năm hào Hai đến chỗ trung chính, là bám vào chỗ chính. Vua tôi trên dưới đều có đức sáng mà ở được chỗ trung chính, có thể hóa được thiên hạ, làm nên thói tục văn vẻ sáng sủa.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây thích nghĩa tên quẻ.

LỜI KINH

柔麗乎中正, 故亨, 是以畜牝牛吉也.

Dịch âm. – Nhu lệ hồ trung chính, cố hanh, thị dĩ xúc tẫn ngưu cát dã:

Dịch nghĩa. – Chất mềm bám vào chỗ trung chính cho nên hanh vì vậy, nuôi trâu cái thì tốt.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Hào Năm hào Hai lấy đức mềm thuận bám vào chỗ trung chính, vì vậy mới hanh. Người ta hễ nuôi được đức rất thuận để bám vào chỗ trung chính thì tốt, cho nên nói là nuôi trâu cái tốt.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Đây dùng thể quẻ để thích lời quẻ.

LỜI KINH

象曰:明兩作, 灕.大人以繼明照乎四方.

Dịch âm. – Tượng viết: Minh lưỡng tác; Ly, đại nhân dĩ kê minh chiếu hồ tứ phương.

Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng; Sự sáng hai lần dấy, là quẻ Ly, bậc người lớn coi đó mà kế tiếp sáng soi ở bốn phương.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Nếu nói hai sự sáng, thì là hai lớp ánh sáng, không thấy cái nghĩa kế tiếp sáng tỏ. Cho nên nói rằng sự sáng hai lần. Sáng mà trùng điệp, tức là nối nhau. Dấy, là sáng tỏ có đôi mà thành quẻ Ly nối nhau mà sáng. Quẻ Chấn quẻ Tốn cũng lấy cái nghĩa hai lần theo nhau, nhưng nghĩa quẻ Ly càng trọng yếu hơn. Người lớn, nói về đức thì là thánh nhân, nói về ngôi thì là đấng vương giả. Bậc người lớn xem tượng quẻ Ly sáng sủa kế tiếp, để đời đời nối nhau dùng đức soi dọi bốn phương. Hết thảy sự sáng nối nhau đều là nối sáng. Đây chỉ cử cái lớn hơn, cho nên lấy sự nối đời kế tiếp soi rọi mà nói.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Tác là dấy lên.

LỜI KINH

初九:履錯然, 敬之無咎.

Dịch âm. – Sơ Cửu: Lý thác nhiên, kinh chi vô cữu.

Dịch nghĩa. – Hào Chín Đầu: Xéo bừa vậy, kính đó không lỗi.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Dương vẫn hay động, lại ở dưới mà là thẻ Ly. Dương ở dưới thì muốn tiến lên, tính Ly bốc lên chỉ muốn bám lên phía trên, hầu đến nóng nẩy tự động sự xéo của mình. Thác nhiên nghĩa là bừa bãi, tuy còn chưa tiến mà hình đã động rồi. Động thì mất cái phận ở dưới mà có lỗi. Nhưng nó là tài cứng sống, nếu biết nghĩa mà kính cẩn đi, thì không đến lỗi.

Truyện của Trình Di. – Lấy chất cứng ở ngôi dưới mà ở thể sáng, chí muốn tiến lên, cho nên có tượng xéo bừa. Kinh đó thì không có lỗi, răn kẻ xem phải như thế.

LỜI KINH

象曰:履錯之敬, 以辟咎也.

Dịch âm. – Tượng viết: Lý thác chi kính, dĩ tựu cữu dã.

Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Sự kính của kẻ xéo bừa, để tránh lỗi vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Xéo bừa muốn động, mà biết kính cẩn không dám tiến lên, là để cầu tránh cho khỏi lầm lỗi vậy.

LỜI KINH

六一:黄雜,元吉.

Dịch âm. – Lục Nhị: Hoàng Ly, nguyên cát.

Dịch nghĩa. – Hào Sáu Hai: Vàng sáng, cả tốt.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Hào Hai ở ngôi giữa, được chỗ chính là kẻ bám vào nơi trung chính. Vàng là sắc trung bình, thứ đẹp trong các văn vẻ. Văn vẻ sáng sủa trung chính, tức là đẹp lắm, cho nên nói rằng vàng sáng. Lấy đức văn vẻ sáng sủa trung chính, bên trên đồng nhau với ông vua văn vẻ sáng sủa trung thuận, cái sáng của nó như thế chỗ bám của nó như thế, đó là điều tốt trong sự cả hay.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Vàng là sắc trung bình, chất mềm bám ở chỗ giữa mà được nơi chính, cho nên Tượng, Chiêm như thế.

LỜI KINH

象曰: 黄雜元吉, 得中道也

Dịch âm. – Tượng viết: Hoàng Ly nguyên cát, đắc trung đạo dã.

Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng : Vàng sáng cả tốt, được đạo giữa vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Sở dĩ cả tốt, là vì nó được đạo giữa.

LỜI KINH

九三:日昃之難, 不鼓缶而歌, 則大聋之嗟,凶.

Dịch âm. – Cửu Tam: Nhật trắc chi ly, bất cỗ phẫu nhị nhi ca, tắc đại diệt chi ta, hung!

Dịch nghĩa. – Hào Chín Ba: Sự sáng của mặt trời dé. Chẳng gõ chậu sành mà hát, thì là cả già mà than, hung!

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Hào Chín Ba ở chót thể dưới, là lúc sự sáng trước sắp hết, sự sáng sau nối theo – cũng là lúc đầu chót của loài người, lúc thay đổi của thì thế nữa – cho nên mới là sự sáng của mặt trời dé. Dé thì sắp lặn, lấy lý mà nói, thịnh ắt có suy, đầu ắt có chót, đó là đạo thường, kẻ đạt thì cứ thuận lẽ mà vui. Chậu sành là đồ thường dùng, chậu sành mà hát, ấy là vui theo lẽ thường. Nếu mà không thể như thế, thì sẽ lấy sự cả già làm lo, thế là hung vậy, Người ta đến lúc chót hết, kẻ đạt thì biết lẽ thường, vui mệnh trời, gặp sự thường thường đều vui, như: thể gõ châu mà hát; kẻ không đạt thì lo sợ thương xót về đời mình sắp hết mới than thở về sự cả già, như thế là hung.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Khoảng giữa hai thể Ly, sự sáng trước sắp hết, cho nên có Tượng mặt trời dé. Chẳng chịu yên thường mà tự vui, thì là không biết tự xử mà hung, răn kẻ xem nên như thế vậy.

LỜI KINH

象曰: 日昃之難, 何可久也.

Dịch âm. – Tượng viết: Nhật trắc chi ly, hà khả cữu dà?

Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Sự sáng của mặt trời dé, sao khá lâu vậy?

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Mặt trời đã nghiêng dé, sự sáng còn lâu được sao? Kẻ sáng biết nó thế, cho nên tìm người để nối việc mình, lui về mà ở để nghỉ thân mình, yên lẽ thường, xử cách thuận, sao đủ là hung?

LỜI KINH

九四: 突如,其來如,焚如, 死如, 棄如.

Dịch âm. – Cửu Tứ: Đột như kỳ lai như, phần như, tử như, khí như!

Dịch nghĩa. – Hào Chín Tư: Đột như thửa lai vậy, cháy vậy, chết vậy, bỏ vậy!

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Hào Chín Tư lìa thể dưới mà lên thể trên, là lúc bắt đầu nối tiếp sự sáng, cho nên nói về nghĩa kế thừa, ở trên mà gần vua, là chỗ kế thừa đó. Lấy chất Dương ở thể Ly mà đóng ngôi Tư, cứng nóng mà không trung chính, lại hai lần cứng mà thêm bất chính, cái thế cương thịnh đột nhiên mà lạị, không phải kẻ khéo kế thừa vậy. Nó lại vâng thờ ông vua Sáu Năm là kẻ Âm mềm, cái thế lấn lướt của nó đùng đùng như cháy, cho nên nói cháy vậy. Hào Tư đã làm bất thiện như thế, ắt bị vạ hại, cho nên nói rằng chết vậy. Mất nghĩa là nối noi và đạo vâng thờ bề trên, đều là đức nghịch, người ta sẽ cùng bỏ nó, tuyệt nó, cho nên nói rằng bỏ vậy. Đã đến chết bỏ là vạ tột bậc, cho nên không cần nói hung.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Trong lúc sự sáng sắp sửa tiếp theo, mà hào Chín Tư lấy đức cứng bức bách, cho nên Tượng, Chiêm của nó như thế.

LỜI KINH

象曰:突如其來如, 無所容也.

Dịch âm. – Tượng viết: Đột như kỳ lai như, vô sở dung dã.

Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Đột nhiên thửa lại, là không có chỗ dung vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Trên thì lấn vua, không chịu thuận với kẻ mà mình phải vâng theo, ấy là mọi người ghét bỏ, thiên hạ không dung.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Không có chỗ dong là nói bị cháy, chết, bỏ.

LỜI KINH

六五: 涕沱若, 嗟若, 吉.

Dịch âm. – Lục Ngũ: Thế đà nhược! Thích ta nhược! Cát!

Dịch nghĩa. – Hào Sáu Năm: Nước mắt giàn giụa vậy, ngậm ngùi than vậy, tốt!

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Hào Sáu Năm ở ngôi tôn, mà giữ mục trung, có đức văn vẻ sáng sủa, đáng bảo là êb êb thiện. Nhưng vì lấy chất mềm ở trên, phía dưới không có kẻ giúp, một mình bám phụ giữa bọn cương cường, đó là cái thế phải lo sợ. Chỉ vì nó sáng, cho nên sáng, cho nên sợ hãi quá, đến chảy nước mắt. Lo lắng quá đến ngậm ngùi than, vì thế mà giữ được tốt.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Lấy chất Âm ở ngôi tôn, mềm bám vào giữa, nhưng không được chỗ chính, mà lại bị bàch về những hào Dương trên dưới, cho nên lo sợ như thế, rồi sau mới tốt, răn kẻ xem nên như thế vậy.

LỜI KINH

象曰:六五之吉, 灕王公也.

Dịch âm. – Tượng viết: Lục Ngũ chi cát, ly vương công dã.

Dịch nghĩa. – Lời tượng nói rằng: Sự tốt của hào Sáu Năm, là được bám vào tước vương tước công vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Cái tốt của hào Sáu Năm, vì chỗ nó bám là ngôi chính của tước vương công. Bởi nó chiếm thế “ở trên” mà lại xét rõ sự lý, sợ hãi lo lắng để giữ gìn, cho nên được tốt.

LỜI KINH

上九:王用出征, 有嘉, 折首, 獲匪其醜, 無咎.

Dịch âm. – Thượng Cửu, Vương dụng xuất chinh, hữu giá, chiết thủ, hoạch phi kỳ sũ, vô cữu.

Dịch nghĩa. – Hào Chín Trên: Vua dùng ra đánh, có sự tốt, bẻ đầu, bắt chẳng phải loài, không lỗi.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Hào Chín Trên là Dương ở trên, nhằm chót sự sáng, là kẻ cứng sáng, đến tột bậc vậy. Sáng thì có thể soi rọi, cứng thì có thể quyết đoán, soi rọi được thì đủ xét kẻ tà ác, qụyết đoán được thì đủ để thi hành oai hình, cho nên đấng vương giả nên dùng sự cứng sáng như thế để phân biệt những kẻ tàn ác trong thiên hạ mà thực hành việc đánh dẹp của mình, thì sẽ có công tốt đẹp. Đánh dẹp là một khoản lớn trong việc dụng hình. Nhưng sáng quá thì không sự nhỏ nhặt nào mà không soi tới, quyết đoán thì không tha thứ điều gì, nếu không thắt lại bằng đạo vừa phải, thì sẽ hại về soi xét quá nghiêm. Trừ bỏ kẻ ác trong thiên hạ, nếu trùy cứu hết những kẻ tiêm nhiễm, lầm lỡ, thì giết sao cho xuể? Sự đau thương của mình cũng quá lắm vậy, cho nên chỉ nên tỉa lấy những kẻ đầu sỏ, đứa bị bắt được không phải là bọn bè bạn loại chúng, thì không bị lỗi về sự tàn bạo.

Bản nghĩa của Chu Hy. – Sự cứng sáng tới được chỗ xa, oái sức lừng lẫy mà hình phạt không quá lạm, đó là đạo không lỗi, cho nên Tượng, Chiêm của nó như thế.

LỜI KINH

象曰:王用出征, 以正邦也.

Dịch âm. – Tượng viết: Vương dụng xuất chinh, dĩ chính bang dã.

Dịch nghĩa. – Lời Tượng nói rằng: Vua dùng ra đánh, đề chính nước vậy.

GIẢI NGHĨA

Truyện của Trình Di. – Đấng vương giả đùng đức của hào Chín Năm này, soi rọi, quyết đoán để xét và trừ ác trong thiên hạ, là muốn chỉnh đốn bang quốc của mình. Đó là cách ở ngôi trên phải thế.

Chú thích:

[1] Chữ 灕 (Ly) có nghĩa là mắc, lại có nghĩa là sáng.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.