Người Được Minh Oan

CHƯƠNG 20



Rẽ đám đông đang dồn lại trong phòng lớn của tòa án, Della Strett và Paul Drake đang làm một con đường đi đến chỗ Mason. Ông đã châm hút một điếu thuốc trong góc yên tĩnh của gian phòng.
“Perry,” Nhà thám tử nói. “Vừa rồi tôi sợ rằng phải hy sinh để cứu vãn tình thế.”
“Anh muốn nói gì, Paul?” Mason hỏi.
“Đây, cảm giác sâu xa của tôi là bà khách hàng của ông là thủ phạm. Và từ lúc mà bà ta được tòa biết đến thì chúng ta bị thưa kiện đòi bồi thường thiệt hại. Khôn ngoan nhất theo tôi là thỏa thuận với Ellen Cushing một sự thanh toán thỏa đáng.”
“Chắc chắn là không.”
“Bà khách của ông sẽ ngồi tù, Perry. Bà ta là thủ phạm.”
“Tôi không nghĩ như vậy.”
“Trong trường hợp này, ông giải thích như thế nào việc trong người Shelby có một đầu đạn?”
“Tôi không giải thích nó, Paul. Ít nhất là bây giờ.”
“Bức ảnh ghép đó phá đi mọi may mắn của Marion Shelby. Đây là bà ta, tôi nói với ông! Đầu đạn từ khẩu súng của bà ta bắn đi.”
“Đúng là như vậy.”
“Nhưng, Perry, ông không công nhận à?… Cho đến bây giờ ông đã thắng trong việc chế ngự bên kết tội, cái đó tôi biết. Ông đã ít nhiều làm cho tòa có được ý kiến rằng những người làm chứng chính của tòa đã khai với một sự không vô tư thực sự? Sau này người ta sẽ đi vào kết thúc vụ án. Marion Shelby chắc chắn là đã nói dối khi khai rằng chồng bà đã gọi dây nói cho bà từ mũi thuyền…”
“Không cần thiết. Có thể là chồng bà ấy đã nói dối.”
“Cứ cho là như thế. Nhưng làm thế nào để làm cho tòa án tin? Bồi thẩm đoàn sẽ cho rằng Marion Shelby đã trông thấy máy điện thoại ấy khi đi thăm thuyền và đã lập cái kế hoạch trong khi không biết được rằng máy đó không thể gọi các máy trong các phòng hành khách được trừ máy của Benton. Không, Perry, tòa sẽ cho đó là một tội cố sát có dự mưu và…”
“Kể cả nếu Marion Shelby là thủ phạm,” Mason tuyên bố có phần nóng nảy. “Tôi cũng không thể đặt bà ấy vào giữa cuộc điều tra.”
“Đồng ý, đồng ý, ông có thể thu xếp với ông chưởng lý quận. Ông này có thể thỏa thuận rằng bị can là thủ phạm một vụ giết người cấp hai, cái đó tránh được tội tử hình. Lúc đó sẽ không có đơn kiện của Ellen Cushing nữa. Nhưng, Perry, nếu ông tuột tay khỏi dịp may này thì ông không chỉ thua kiện và Ellen Cushing sẽ đạt được tất cả những gì ả ta muốn trong việc đòi bồi thường thiệt hại hai trăm năm mươi ngàn đô-la. Hãy nghĩ đến số tiền ấy, Perry!”
Mason không nói gì, rít mạnh điếu thuốc lá trên tay.
“Theo câu chuyện của bà ta,” Drake tiếp tục nói. “Marion Shelby đã trông thấy chồng giãy giụa, rơi xuống sông, mất tăm ở dưới nước sau một lúc. Như vậy chắc chắn rằng ở đây nữa bà ta vẫn nói dối, Perry. Một vết thương ở tủy sống, phía những đốt trên cùng sẽ gây ra một sự tê liệt ngay tức khắc. Shelby không thể bơi dưới nước được, vì theo các chuyên gia thì việc rơi và việc trúng đạn là xảy ra đồng thời.”
“Và nếu có một kẻ giết người đợi hắn dưới thì sao, Paul? Một kẻ giết người đồng thời là một người bơi giỏi thì sao, Paul?” Della cắt ngang.
“Đây là một lập luận nữa, Della?” Drake ngạc nhiên. “Nhưng kẻ giết người dùng vũ khí gì?”
“Này!… Để tôi nghĩ…”
“Khỏi phải mất công, kẻ giết người chỉ có thể dùng một vũ khí: cái mà bị can cầm.”
Mason nhăn mặt.
“Và điều đáng buồn,” Paul Drake kết luận. “Marion Shelby là người duy nhất cầm vũ khí đó.”
“Xin lỗi,” Della phản đối. “Bà ấy đã đưa nó cho Parker Benton và đến lượt mình, ông này đã đưa cho cảnh sát.”
“Đó là sau khi tội ác đã xảy ra,” Drake nói.
Della Stret nhìn người thám tử chằm chằm.
“Anh biết về việc này thế nào, Paul?” cô chậm chạp hỏi.
Mason vứt mẩu thuốc, nghiền nát mẩu thuốc bằng gót chân.
“Hãy nói xem, Della, đây là tình huống có thể xảy ra mà tôi đã suy nghĩ.”
“Ôi! Vị chúa tể hiền lành của tôi ơi!” Drake kêu. “Ông cũng không có thể cho rằng một khi đã ở dưới nước Shelby lại có thể bơi tới mũi thuyền để ẩn nấp.”
“Hay dưới đuôi thuyền,” Mason nhận xét. “Chỗ ẩn nấp không tốt.”
“Thật là bực mình,” Drake kêu.
“Tòa làm việc,” người mõ tòa rao.
Dân chúng ồn ào đi vào phòng xử án.
“Perry!”
Drake đang chạy theo sau Mason.
“Perry, đừng làm điều dại dột. Hãy cẩn thận. Hãy cứu vãn cái tình thế làm chúng ta sạt nghiệp.”
“Chúng ta sẽ thảo luận việc này tối hôm nay, Paul,” Mason lạnh lùng trả lời anh.
“Nhưng, tối nay sẽ là quá muộn! Nếu ông không muốn đi đến một thỏa thiệp với tòa thì ông hãy cẩn thận trong khi thẩm vấn Ellen Cushing. Nếu ông để cho cô ả chống lại chúng ta thì không bao giờ ả ta muốn đi đến dàn xếp thỏa đáng với chúng ta, hai trăm năm mươi ngàn đô-la, Perry!”
Không trả lời, Mason đi về phía ghế của bên bào chữa và ngồi xuống đúng lúc ông chánh án Maxwell đi vào.
 
“Tôi cho rằng các vị bồi thẩm đã có mặt đầy đủ, bị cáo đang ở trước tòa án,” ông chánh án tuyên bố. “Ngài chưởng lý quận, xin ngài cho gọi nhân chứng tiếp theo của ngài.”
“Ellen Bedgin Cushing,” Burger báo tin. “Người mà bây giờ có tên là Ellen Cushing Lacey.”
Người đàn bà trẻ bước những bước quả quyết về phía ghế của những người làm chứng. Chắc chắn trước đó cô ta đã ở rất lâu trong viện sắc đẹp, vì sự xuất hiện của cô ta gây nên một sự trầm trồ trong các bồi thẩm nam và Mason thấy được ngay tức khắc rằng ông phải đi vào một cuộc chiến đấu ác liệt.
Sau khi tuyên thệ, cô ta ngồi xuống ghế, vắt chéo chân, ý tứ kéo váy, cố gắng không để quá lộ liễu đôi chân, ông chưởng lý quận đặt ra cho cô một vài câu hỏi mở đầu về cá nhân, về việc làm, về quan hệ với Shelby và cuối cùng ông hỏi cô ta, “Như vậy bà đã mua lại việc thuê đất đó?”
“Vâng,” cô ta trả lời.
“Tại sao?”
“Tôi sẽ thành thật trả lời,” cô ta nói. “Tôi biết rằng hòn cù lao đó sắp được chuyển nhượng và người mua lại không biết cù lao đó. Tôi đã thấy ở đó có thể tiến hành một cuộc kinh doanh tốt.”
“Bà có nói điều đó cho ông Shelby không?” Hamulton Burger hỏi.
“Không.”
“Tại sao?”
“Ông Shelby đã có vợ,” cô ta nói. “Và tôi chẳng có bổn phận gì với ông Shelby, tôi không nói đến cái tin là cù lao đó sẽ được bán. Sau hết chúng tôi đều là những người kinh doanh, mỗi người phải bảo vệ mình.”
“Bà đã mua lại việc thuê đất đó?”
“Vâng.”
“Với số tiền là bao nhiêu?”
“Ông Shelby coi hợp đồng thuê đất đơn giản như là một mảnh giấy, không có giá trị gì. Ông bảo tôi, tôi có thể có hợp đồng đó mà không mất gì với điều kiện là trả số tiền nợ còn thiếu.”
“Bà đã làm như thế nào?”
“Tôi đã soạn một văn bản kết thúc việc thuê đất để ông Shelby ký, sau đó tôi nhờ một người mang bản đó đưa cho bà Jane Keller, chủ sở hữu của cù lao với số tiền năm trăm đô-la còn thiếu với danh nghĩa Scott Shelby.”
“Bà đã sẵn sàng mất năm trăm đô-la.”
“Tôi không thấy có gì là rủi ro cả,” cô ta cười. “Tôi biết rất rõ là Jane Kelier không thể nhận được số tiền đó, vì bà ấy biết rõ hiệu lực của việc thuê đó mà bà ta đã phủ nhận giá trị pháp luật.”
“Bà có là nhân tình của ông Shelby không?”
“Chắc chắn là không.”
“Ông Shelby có yêu bà không?”
“Không nhiều. Ông ta coi tôi như một kinh nghiệm theo thời với tính chất hoàn toàn vật chất. Hơn nữa tôi đã yêu một người khác.”
“Chồng bà hiện nay.”
“Vâng.”
“Tiếp đó,” Hamilton Burger nói. “Bà hãy trình bày trước tòa cái gì xảy ra sau đó.”
Mason thôi không nhìn người làm chứng mà quay sang quan sát các vị bồi thẩm. Không nghi ngờ gì nữa, mọi người đều nghe với một sự chú ý đặc biệt và với một cảm tình trông thấy vì Ellen Cushing Lacey biết chính xác mình muốn đi đến đâu… Tất cả các bồi thẩm gồm nhà buôn nhỏ, thầu khoán… cảm thấy gần gũi với cô ta. Cô ta là nhà kinh doanh và cô ta không giấu giếm cái đó. Một tay săn gái đã muốn quyến rũ cô và cô đã chống lại với mọi vũ khí mà cô có. Sự thành thật cũng vậy, mọi sự vô sĩ mà cô ta có thể thể hiện, được nói lên bằng sự mến chuộng của cô. Cô ta không tìm cách che đậy những nguyên nhân của sự đối xử giả dối. Nhưng cô ta biết rất rõ là cô đang nói với những ai và cách xử thế của cô có một cái gì đó lành mạnh, phải, lành mạnh, nó chỉ có thể làm hại đối phương.
Những câu hỏi và những câu trả lời nối tiếp nhau, những câu thứ nhất được đặt ra do ông chưởng lý quận khỏe khoắn, những lời thứ hai được đưa ra bởi một người làm chứng không tìm cách tránh né điều gì. Cô ta mô tả một cách khiêm tốn tất cả những gì Mason đã biết, sau đó Hamilton Burger đề nghị tòa cho phép xếp bản hợp đồng thuê đất và những giấy tờ được ký kết giữa người đàn bà trẻ và Scott Shelby vào hồ sơ vụ án.
“Nhằm mục đích gì?” ông chánh án Maxwell nghi ngại sau khi liếc nhìn Mason vẻ dò hỏi.
“Cuối cùng là để tìm động cơ của tội ác,” ông chưởng lý quận nói.
“Tôi không thấy rõ vì sao ngài đề nghị tìm cái động cơ đó bằng những giấy tờ này,” ông chánh án tuyên bố sau khi thấy Mason không phản ứng.
“Những tài liệu này giải thích những lý do của cuộc gặp mặt trên thuyền của ông Parker Benton, những mâu thuẫn chính của vở kịch,” Burger giải thích. “Vì cuộc họp đó đã đọng lại trong tâm trí của bị cáo những dự định giết chồng, vì cuộc họp đó cung cấp cho bà ta một dịp may mà bà ta không thể bỏ qua.”
Một lần nữa ông chánh án lại nhìn Mason.
“Không phản đối chứ, thưa ngài?” ông hỏi.
“Không,” Mason trả lời.
“Trong trường hợp này, tôi ra lệnh xếp những giấy tờ đó vào hồ sơ. Ngài còn nhiều câu hỏi đặt ra với nhân chứng nữa không, ngài Burger. Vì sau đây tôi sẽ phải kết thúc vụ xét xử.”
“Đúng là còn một vài câu hỏi nữa, xin phép tòa, tôi sẽ kết thúc,” Burger nói.
“Đồng ý.”
Burger đi gần đến người làm chứng.
“Nếu những tin tức của tôi đúng,” ông tuyên bố. “Vị luật sư của bên bào chữa và bà có những mâu thuẫn với nhau về vấn đề nào đó.”
Ông chánh án Maxwell kinh ngạc trước lời tuyên bố của Burger.
“Mục đích của câu hỏi đó là gì?” ông hỏi.
“Tôi muốn đơn giản là xác định rằng nhân chứng có khai báo một cách vô tư không?”
“Ngài muốn nói rằng bà Lacey đứng về phía bên bào chữa à?”
“Không, thưa ngài, ngược lại.”
“Nếu như vậy thì bên bào chữa phải xác định.”
“Không một điều luật nào quy định phải như vậy thưa ngài,” ông chưởng lý quận cãi lại, “người ta đã tố cáo tôi tìm cách gây ảnh hưởng tới những nhân chứng của tôi. Bây giờ tôi muốn chứng tỏ không phải là như vậy hay ít nhất là nếu tôi có một vài gợi ý nào đó cho một hoặc hai người vừa mới khai báo thì đến đây tôi đã không làm như vậy nữa.”
“Những thói quen muốn rằng sự vô tư của một nhân chứng, ngài Burger ạ, thường là do bên đối phương đòi hỏi.”
“Có thể là như vậy, thưa ngài, nhưng vì luật định, không, tôi kính xin tòa cho phép tôi chứng minh rằng nhân chứng Ellen Cushing Lacey chống đối với bên bào chữa.”
Ông chánh án quay về phía Mason.
“Ngài nghĩ như thế nào, thưa ngài?”
“Không phản đối,” Mason nói.
Ông chánh án tỏ ra ngạc nhiên.
“Tốt,” Cuối cùng ông quyết định. “Bà có thể lời câu hỏi, ông nói với người đàn bà trẻ.”
“Xin bà trả lời câu hỏi, bà Lacey,” ông chưởng lý quận tuyên bố, mặt mày rạng rỡ.
“Tôi kiện Perry Mason và Paul Drake và đòi bồi thường thiệt hại về tội vu khống,” cô ta nói. “Tôi đòi họ mỗi người hai trăm năm mươi ngàn đô-la – hai người này đã khẳng định với cảnh sát là tôi giữ một người đàn ông trong phòng ngủ của tôi, rằng tôi đã giúp Scott Shelby ẩn nấp sau khi tội ác xảy ra mà lúc ấy thì Shelby đã chết và tôi đã không trông thấy ông ấy mười hai tiếng đồng hồ trước đó.”
Cô ta nói một hơi.
“Ngài có thể phản thẩm vấn,” Burger nói với Mason.
“Bà Lacey,” Mason nói. “Những nhận xét mà tôi đã nói cho cảnh sát biết có phải là đã dựa vào sự hiện diện trong nhà để xe của bà một đôi giày đàn ông bị ướt và một chiếc chăn trước đó bị thấm nước không?”
“Phản đối!” ông chưởng lý quận khiếu nại. “Chúng ta đã đi xa vấn đề, tòa đang xử lý một vụ án giết người chứ không phải đang xử vụ vu khống.”
“Rất tự nhiên,” ông chánh án nói. “Tôi đã dành cho ông sự thỏa mãn. Ít nhất là do ông muốn xác định sự vô tư của nhân chứng mà đúng ra bên bào chữa phải làm việc này, tôi bắt buộc phải nói rằng lời phản đối của ông là không có giá trị. Và tôi xin các ngài là không nên kéo dài sự tranh cãi. Thời gian phải nghỉ đã quá lâu rồi.”
“Tôi chỉ xin ngài không hơn năm hoặc mười phút, thưa ngài,” Mason nói.
“Đồng ý.”
“Xin trả lời câu hỏi,” luật sư ra lệnh cho người làm chứng.
“Tôi không biết những cái mà ông có thể nói với cảnh sát,” Nguời đàn bà trẻ lạnh lùng trả lời.
“Trong đơn kiện, bà nói rằng bà đã biết. Đơn kiện đó dựa vào những tình hình nắm được và vào một tang vật riêng tư.”
Hamilton Burger can thiệp. “Nhân chứng cũng tự mình thấy rõ là trong nhà để xe có đôi giày và một tấm chăn ướt. Tấm chăn đã được dùng gói nước đá.”
“Xin ông giơ tay phải lên,” Mason yêu cầu Burger.
“Thế nào? Để làm gì?”
Mason cười, “Nếu ông muốn khai báo thay thế nhân chứng, tôi muốn rằng ông tuyên thệ trước đã.”
Tiếng cười nổ vang trong phòng và Burger mặt đỏ như như một con tôm hùm.
“Xin các ngài, xin các ngài,” ông chánh án kiên nhẫn. “Tôi có cần nhắc ngài, ngài Burger, rằng ngài không nên can thiệp vào lời cung khai nhân chứng không?”
“Có một chiếc chăn ướt trong nhà để xe của bà không?” Mason hỏi người đàn hà trẻ.
“Có, nó được dùng để gói đá.”
“Và một đôi giày đàn ông cũng bị ướt.”
“Đó là đôi giày của chồng tôi,” người đàn bà trả lời, mặt mày khó chịu. “Cuối cùng thì một người đàn bà có quyền giữ trong nhà để xe của mình đôi giày của chồng mình không?”
“Ông Lacey là chồng bà lúc đó à?”
“Không, không, chúng tôi kết hôn bốn ngày sau đó.”
“Thật là chính xác. Nhưng bà có nhận bà đã giấu trong nhà để xe của mình một tấm chăn và một đôi giày đàn ông, tất cả đều bị thấm nước không?”
Các bồi thẩm cúi mình về phía trước, nghe một cách chăm chú cuộc chiến đấu sinh tử Mason – Ellen Cushing. Có vẻ đã hiểu rõ họ, người luật sư đoán được người đàn bà trẻ bắt đầu thể hiện trước họ dưới một vẻ khác thường trái với sự tưởng tượng của họ. Hamilton Burger, ông ấy, cũng hiểu là bước ngoặt đó là bất lợi cho mình và đã muốn đứng lên để nói phản đối nhưng sau đó ông quyết định ngay lập tức là không nên làm như vậy.
“Nếu ngài muốn biết sự việc, ngài Mason,” Ellen Cushing Lacey nói, “tôi có thể trình bày nó với ngài và ngài không cần phải làm những công việc đột nhập xấu xa và vô ích ấy.”
“Tôi đã bước chân thận trọng,” luật sư Mason trả lời.
“Thưa ngài,” Burger can thiệp. “Tôi cho rằng bên bào chữa đã vượt quá quyền của mình.”
“Tôi không cho là như thế,” ông chánh án nói. “Câu hỏi đó sẽ không có nếu ngài không bắt buộc nhân chứng tuyên bố rằng bà ta kiện lại người đại diện cho bên bào chữa. Bây giờ việc đã rồi, ngài phải gánh chịu lấy hậu quả.”
“Tôi xin cảm ơn ngài, thưa ngài,” Mason nói. “Về phần tôi, tôi mong rằng tòa cần phải biết những sự kiện.”
Mặt của Ellen Cushing sa sầm lại.
“Tôi đi nghỉ ngoài trời với người đàn ông mà tôi sắp kết hôn,” cô ta nói. “Cuộc đi đó trùng với ngày xảy ra tội ác từ giữa trưa đến bốn hoặc năm giờ chiều. Tôi cũng có những bức ảnh để chứng minh việc tôi đã làm.”
“Thật chứ?” Mason hỏi. “Tôi lấy làm sung sướng nếu được xem các tấm ảnh đó.”
“Thưa ngài,” ông chưởng lý quận kêu to.
“Lời phản đối không có giá trị,” ông chánh án với giọng mỏi mệt. “Người ta phải kết thúc một lần cho xong. Tất cả những việc này là do lỗi của ngài, ngài Burger. Hãy làm theo yêu cầu của ngài Mason,” ông ra lệnh cho người đàn bà trẻ.
Mason cầm lấy những tấm ảnh và quan sát chúng.
“Ngài có thể thấy,” cô ta nói. “Chồng tôi, người đàn ông trong ảnh, đang đứng trên một chiếc bè. Chính lúc đó chân anh bị ướt. Anh ấy đã tự làm lấy chiếc bè với vài tấm ván. Và đây là chiếc chăn, người ta còn thấy tảng nước đá bên trên. Chúng tôi đã đặt nước đá sau khi đã mua vào trong chăn, và nhờ chiếc chăn này chúng tôi mang đá đến nơi nghỉ.”
“Tại sao lại phải dùng chăn?” Mason hỏi.
“Ngài đã thử mang nước đá bằng bàn tay bao giờ chưa, thưa ngài?”
Một vài người dự phiên tòa cười khúc khích trong phòng.
“Và bà đã làm gì khi đi nghỉ ngoài trời,” Mason tiếp tục hỏi.
“Tôi ở bên cạnh chồng tôi.”
“Lâu không?”
“Cả buổi chiều, cho đến khi tôi trở về thành phố. Ở đây tôi đi đón mẹ tôi ở ngoài ga và mẹ tôi ở với tôi suốt đêm tiếp đó.”
Mason liếc nhìn đồng hồ treo tường.
“Tôi cho rằng,” ông nói. “Đã đến giờ tòa nghỉ làm việc.”
Ông chánh án yên lặng xác nhận. Ông giận dữ ra mặt, bực mình nhiều hơn với ông chưởng lý quận vì đã đưa ra một sự việc chẳng ích có gì cho phiên toà hơn là đối với Mason có những câu hỏi không trực tiếp làm sáng tỏ tình hình.
“Ngày mai là thứ bảy,” Mason tuyên bố. “Việc tranh cãi chỉ có thể tiếp tục vào ngày thứ hai. Phiên tòa được đặt dưới sự bảo vệ của ngài quận trưởng và yêu cầu các bồi thẩm không bàn bạc với nhau về vụ án, và không nghe những điều mà người ta có thể nói về vụ này.”
Ông đứng lên và đi nhanh ra cửa dành riêng cho bồi thẩm đoàn.
Burger nhìn Mason với vẻ mỉa mai.
“Bằng lòng chứ?” ông ta nói.
Mason cười, “Ông hãy tiếp tục mở hé các cánh cửa và tôi sẽ mở toang chúng ra,” ông nói.
Ông chưởng lý quận định trả lời nhưng sau đó thay đổi ý kiến, ông lặng lẽ ra khỏi phòng xử án.
 
“Xin chờ một chút,” Mason gọi với người trợ lý quận trưởng sắp sửa dẫn Mason Shelby đi. “Tôi còn một hoặc hai câu đặt ra cho thân chủ của tôi.”
Người ấy xác nhận và đi xa một vài bước.
Mason cúi xuống gần Marion Shelby và nói với với bà ta, “Bà có chắc chắn người mà bà trông thấy rơi từ trên thuyền xuống là chồng bà không? Xin bà nghĩ kỹ, câu trả lời của bà là điểm chính đấy.”
“Tôi chắc chắn là như vậy,” bà ta trả lời.
“Bà có nhận rõ nét mặt ông ấy không?”
“Có nhận ra, không phải lúc rơi, mà là lúc ở dưới nước.”
“Và bà chắc chắn đó là chồng bà?”
“Vâng.”
“Bà có nghe thấy tiếng ông nhà?”
“Vâng.”
“Đúng là tiếng của chồng bà?”
“Vâng.”
“Một câu hỏi khác đặc biệt quan trọng. Có đúng là chồng bà vùng vẫy dưới nước không?”
“Ông ấy có vùng vẫy.”
“Ông nhà lúc ấy nằm sấp hay nằm ngửa?”
“Nằm ngửa.”
“Bà không thể trông thấy phía sau cổ ông ấy?”
“Không, chỉ trông thấy mặt.”
“Nhưng bà chắc chắn là ông ấy vùng vẫy, động đậy?”
“Chắc chắn. Ông ấy đạp bằng tay và chân nhưng không giống như cách làm của những người bình thường. Trông thấy người ta có thể nói là ông ấy đã bị một cái gì đó đập vào đầu trước khi rơi xuống sông.”
“Và chỉ có một mình ông ấy ở dưới nước lúc đó chứ? Bà có còn trông thấy ai bơi bên cạnh ông không?”
“Không có ai cả.”
“Bà không thể trông thấy ai bơi dưới mũi thuyền?”
“Không. Hơn nữa chồng tôi bị chìm rất nhanh dưới nước. Tôi hy vọng sau đó chồng tôi nổi lên mặt nước ở phía bên kia thuyền, nhưng tôi không thấy.”
“Và bà nghe thấy tiếng súng trước khi đến mũi thuyền và trước khi bà cúi xuống nước?”
“Vâng. Tôi nghe thấy tiếng nổ trước khi chồng tôi rơi xuống nước và trước khi bị nước cuốn đi.”
“Vì bà hình dung ra khả năng ông nhà bị một người nào đó kéo đi.”
“Vâng, có một vài cái gì đó rất lạ lùng trong cách chồng tôi vùng vẫy trước khi mất tích. Người ta có thể nói một người nào đó, mà tôi không trông thấy đâu cả tuy rằng tôi cố chú ý tìm kiếm, kéo ông ấy đi. Vâng, tôi có cảm giác là chồng phải chống chọi với một kẻ thù vô hình.”
“Bà Shelby, liệu có thể,” Mason hỏi. “Là chồng bà không phải là vùng vẫy dưới nước mà chỉ làm cho bà thấy có vẻ như vậy không? Hơn nữa dòng nước chảy xiết, chỗ đó làm cho bà có cảm giác rằng chồng bà vùng vẫy hơn là đang bơi đi hoặc là…”
“Chắc chắn không phải là như vậy: ông ấy vùng vẫy, vật lộn, giả định là tôi có thể dùng một thuật ngữ như vậy.”
“Bà có biết những hậu quả nếu bên kết tội làm bồi thẩm đoàn thấy được vết thương do khẩu súng bà cầm trong tay không?”
“Vâng.”
“Bà hãy suy nghĩ kỹ về tất cả những gì tôi nói với bà,” Mason nói. “Bà không phải là người ngồi trên ghế các nhân chứng… Chưa đến lúc.”
“Ngài muốn rằng tôi phản cung, ngài Mason.”
“Tôi chỉ muốn một điều, bà Shelby, là bà nói đúng sự thật,” Mason trả lời bằng một giọng mỏi mệt. “Nhưng nếu bà nói dối, tôi xin báo trước bà rõ: bà không có may mắn nào thoát khỏi phòng hơi ngạt đâu.”
“Tôi không thể làm gì được cả, ngài Mason. Tôi không muốn phản cung. Tôi đã nói sự thật và tôi vẫn giữ nguyên như vậy.”
“Nếu là như vậy thì cái tốt nhất là bà bám chặt lấy câu chuyện của mình.”
Mason bất chợt thấy mệt mỏi vô cùng.
“Câu hỏi cuối cùng: khẩu súng đó đúng là của chồng bà chứ?”
“Vâng.”
“Ông ta có súng từ lâu chưa?”
“Tôi không biết.”
“Ông nhà có thói quen mang súng bên mình không?”
“Không phải từ đầu, mà từ khoảng hai tháng nay.”
“Bà có biết lý do không?”
“Không.”
“Có lẽ ông ấy nghi ngại một kẻ thù nào đó.”
“Tôi không rõ.”
“Ông ta có mang theo súng hôm đó, ngày mười hai không?”
“Có. Ông ấy có một cái bao súng. Trước khi đi nằm ông ấy lấy ra và đặt nó trên mặt tủ com-mốt.”
Mason nghĩ ngợi một lát.
“Và ông nhà đã yêu cầu lấy nó mà mang nó lên trên boong khi gọi dây nói cho bà?”
“Vâng.”
“Như vậy tôi kết luận rằng ông ấy sợ một người nào đó.”
“Có thể. Nhưng, ngài Mason, ông ấy đã dùng nhiều khẩu súng ấy một, à không hai… vâng, hai ngày trước đó.”
Đôi mắt của Mason bật lên một tia sáng.
“Làm thế nào mà bà biết?”
“Khẩu súng không có đạn. Khi chồng tôi lấy trong túi ra là vào chiều ngày mồng mười. Ông ấy mở một ngăn kéo lấy đạn và nạp vào súng.”
“Thật ư? Bà không đặt ra cho ông ấy câu hỏi nào à?”
“Không bao giờ tôi đặt ra những câu hỏi cho ông ấy, thưa ông Mason.”
Mason cau mày.
“Có thể là ông ấy bắn thử trong ngày hôm đó.”
“Có thể.”
“Ông ấy bắn cả sáu viên?”
“Vâng, ông ấy đã nạp lại đạn vào súng.”
“Hơn thế nữa, ông ấy có thể bắn một phát nữa sau khi đã nạp vì khi bà cầm lấy vũ khí đó trên nóc tủ com-mốt thì thiếu một viên phải không?”
“Tôi không biết. Đó là cảnh sát đã nói trong súng thiếu một viên đạn.”
Mason lại suy nghĩ.
“Thật đáng tiếc là chúng ta không biết kỹ hơn về đời sống, về bạn bè và về kẻ thù của chồng bà.”
“Tôi lấy làm tiếc, thưa Mason, nhưng tôi tuyệt nhiên không thể giúp được ngài hơn nữa. Chồng tôi không đi lại nhiều và cũng không tiếp ai. Đó là con người kín đáo. Tôi cũng vậy, tôi cũng không biết gì về con người ông ấy, cả những người liên quan đến công việc kinh doanh của ông ấy, những người chung vốn, v,v…”
Một sự yên lặng tiếp theo.
“Tình hình hiện thời như thế nào?” Bất chợt bà ta hỏi.
“Tôi không thể nói với bà về tình hình được.”
“Ngài không muốn nói với tôi, như thế có đúng không?”
Bà ta bồn chồn cười gượng.
“Thật thà mà nói, tình hình không sáng sủa lắm,” Mason thừa nhận.
Bà thốt ra một tiếng thở dài.
“Ngài hãy làm hết sức ngài, thưa ngài,” bà ta nói. “Tôi tin tưởng ở ngài. Xin chào.”
“Xin chào,” Mason nhắc lại và cầm lấy chiếc cặp da.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.