Sử Ký Tư Mã Thiên

Phạm Thư, Thái Trạch Liệt Truyện



P hạm Thư là người nước Ngụy, tên tự là Thúc. Phạm Thư đi du thuyết ở các nước chư hầu, ý muốn giúp việc cho vua Ngụy, nhưng vì nhà nghèo, không có gì để làm vốn, trước tiên phải giúp việc cho trung đại phu nước Ngụy. Tu Giả vâng lệnh Ngụy Chiêu Vương đi sứ sang Tề. Phạm Thư đi theo. Hai người ở lại mấy tháng không có kết quả. Vua Tề Tương Vương nghe nói Thư có tài biện luận, bèn sai người biếu Thư mười cân vương cùng với thịt bò và rượu, Thư từ chối không dám nhận. Tu Giả biết điều đó giận lắm, cho rằng Thư được những tặng phẩm ấy là vì đã đem những điều bí mật của nước Ngụy ra nói với nước Tề nên sai Thư nhận thịt bò và rượu, còn trả vàng lại. Sau khi trở về nước, Giả giận Thư cho nên nói với tướng quốc nước Ngụy là Ngụy Tề, một trong những công tử của nước Ngụy. Ngụy Tề cả giận, sai môn hạ lấy roi đánh Thư. Đánh gãy xương sườn, rụng răng, Thư giả vờ chết, bị người ta lấy chiếu bó lại vứt vào trong nhà xí. Khách khứa uống rượu say thi nhau đái lên người Thư, cốt làm nhục Thư để răn những người sau đừng nói bừa bãi. Thư nằm trong chiếu nói với người giữ nhà xí:

– Nếu ông có thể đưa tôi ra thì thế nào tôi cũng xin hậu tạ.

Người giữ nhà xí mới xin đem con người chết ở trong chiếu vứt ra ngoài.

Ngụy Tề đang say nói :

– Được .

Phạm Thư nhờ vậy được thoát. Về sau Ngụy Tề hối hận, lại sai người tìm bắt. Người nước Ngụy là Trịnh An Bình nghe tin ấy bèn mang Phạm Thư đi trốn. Thư ẩn nấp, đổi tên họ là Trương Lộc.

Lúc bấy giờ, Tần Chiêu Vương sai người yết giả là Vương Kê sang Ngụy, Trịnh An

Bình giả làm lính, hầu hạ Vương Kê.

Vương Kê hỏi:

Nước Ngụy có người nào giỏi có thể cùng ta đi về phía Tây được không? Trịnh An Bình nói:

Trong làng của tôi có ông Trương Lộc muốn yết kiến ngài để bàn việc thiên hạ. ông ta bị người ta thù không dám gặp mặt ngài ban ngày.

Vương Kê nói:

Đến đêm ngươi cùng ông ta đến.

Đang đêm, Trịnh An Bình cùng Trương Lộc đến yết kiến Vương Kê. Nói chưa hết buổi, Vương Kê đã biết ngay Phạm Thư là người giỏi, bèn bảo: – Tiên sinh đợi tôi ở phía Nam gò Tam Đình.

Hai người cùng hẹn hò riêng với nhau rồi chia tay.

Vương Kê từ giã nước Ngụy ra đi, qua nơi đã hẹn, mang Phạm Thư lên xe chở vào nước Tần. Khi đi đến Hồ Quan, nhìn xa thấy xe và quân kỵ ở phía Tây đi lại. Phạm Thư hỏi:

Người đến là ai thế ? Vương Kê nói:

Đó là Nhương Hầu, thừa tướng nước Tần đang đi phía Đông kinh lý các huyện các ấp.

Phạm Thư nói:

Tôi nghe nói Nhương Hầu chuyên quyền ở nước Tần, ghét việc đưa những người khách ở các nước chư hầu vào Tần, tôi sợ ông ta làm nhục tôi, tôi hãy tạm trốn trong xe.

Một lát sau Nhương Hầu quả nhiên đến úy lạo Vương Kê, nhân tiện dừng xe hỏi:

Ở Quan Đông có tin gì mới không?

Vương Kê nói: .

– Không có tin gì.

Nhương Hầu lại nói với Vương Kê:

Ông yết giả có đem người khách nào ở chư hầu cùng về đó không? Đem về vô ích, chỉ tổ làm cho nước nhà rối loạn mà thôi.

Vương Kê nói:

Không dám ạ.

Tôi nghe nói Nhương Hầu là người lắm mưu trí, nhưng thấy việc thì chậm. Lúc nãy ông ta nghi trong xe có người nhưng quên lục soát.

Vì vậy Phạm Thư xin xuống xe dể chạy, nói:

Thế nào ông ta cũng sẽ hối hận về việc này(l).

Đi được hơn mười dặm, quả nhiên Nhương Hầu sai quân kỵ quay lại lục trong xe. Khi không thấy có khách họ mới thôi. Vương Kê cùng Phạm Thư vào Hàm Dương. Sau khi báo công việc đi sứ xong, Vương Kê nhân tiện nói:

Nước Ngụy có ông Trương Lộc là một tay biện sĩ trong thiên hạ. Ông ta nói:

Nước Tần nguy như trứng để đầu đẳng(2). Nếu được ông ta thì sẽ yên ổn. Nhưng điều đó không thể truyền đạt bằng thư từ”. Cho nên thần chở ông ta lên xe về.

Vua Tần không tin, sai cho ở tại nhà khách, ăn cơm rau, chờ đợi hơn một năm.

Lúc bấy giờ vua Chiêu Vương đã làm vua được ba mươi sáu năm. Phía Nam, nước Tần đã lấy đất Yên, đất Sính của nước Sở. Sở Hoài Vương bị giữ lại và chết ở đất Tần. Quân Tần phía Đông đánh phá nước Tề, Dẫn Vương đã có lần xưng đế sau đó lại thôi(3). Tần mấy lần làm cho đất Tam Tấn nguy khốn, chán ghét những kẻ biện sĩ trong thiên hạ, không tin dùng ai.

2. Hoa Dương Quân Nhương Hầu là em trai của Tuyên thái hậu, mẹ của Chiêu Vương, Kinh Dương Quân và Cao Lăng Quân đều là em cùng mẹ của Chiêu Vương. Nhương Hầu làm thừa tướng, ba người thay nhau làm tướng quán đều có đất phong. Nhờ thế lực của thái hậu, nên nhà riêng của họ giàu có hơn cả nhà vua. Đến khi Nhương Hầu làm tướng quân nước Tần, ông ta lại muốn vượt qua nước Hàn và nước Ngụy để đánh ấp Cương Thọ của nước Tề, ý ông ta muốn mở rộng đất phong của mình là đất Đào. Phạm Thư bèn dâng thư lên nhà vua nói (4):

“Thần nghe nói khi nào vua sáng trị vì thì người có công được thưởng, người có tài được làm quan; người khó nhọc nhiều được hưởng lộc hậu, người có công nhiều được tước cao, người nào biết cai trị dân chúng thì chức quan lớn. Cho nên nhũng kẻ không có tài không dám giữ chức, những kẻ có tài năng cũng không dám trốn tránh ở ẩn. Nếu nhà vua cho lời nói của thần là đúng thì xin nhà vua đem ra thi hành để càng làm sáng tỏ cái đạo ấy. Nếu nhà vua cho lời nói của thần là không đúng thì giữ thần mãi ở đây cũng không có ích gì . Tục ngữ có câu: “Vị vua tầm thường thì thưởng người mình yêu mà phạt người mình ghét. Vị vua sáng thì không thế. Khi thưởng thi nhất định thưởng cho người có công; khi phạt thì nhất định phạt kẻ có tội. Nay bụng của thần không đáng chịu đao kiếm, lưng của thần không đáng chịu búa rìu, thần dám đâu đem những việc không chắc chắn để chịu hình phạt của bệ hạ(5)? Dù cho thần là người thấp hèn nên bị bệ hạ coi thường làm nhục đi nữa, lẽ nào bệ hạ lại không trọng con người dung nạp thần đã nói đi nói lại với bệ hạ hay sao? Vả chăng thần nghe nói nhà Chu có ngọc “Chỉ ách , nước Tống có ngọc “Kết lục”, nước Sở có ngọc “Biện hòa”, nước Lương có ngọc “Huyền lê”. Bốn vật quý ấy do đất đai sinh ra, bị người thợ khéo bỏ rơi nhưng vẫn là đồ vật quý giá của thiên hạ; nhưng con người bị vua thánh vứt bỏ, lẽ nào lại không đủ để giúp ích cho nước nhà hay sao (6)? Thần nghe nói kẻ khéo làm lợi cho nhà thì thu lấy cả cái lợi ở nước (7), người khéo làm lợi cho nước thì lấy cái lợi ở chư hầu (8). Thiên hạ có vị vua sáng thì chư hầu không thể chiếm được cái lợi. Tại sao? Vì nhà vua tước mất cái vinh của họ đem về cho mình. Người thầy thuốc giỏi biết được người bệnh sống hay chết, vị vua thánh thấy rõ việc thành hay bại: có lợi thì làm, có hại thì bỏ, nghi ngờ thì thử một ít xem sao? Tuy vua Vũ, vua Thuấn sống lại cũng không thể thay đổi được cái phép tắc ấy. Lời nói sâu xa thì thần không dám viết vào giấy (9) lời nói nông cạn thì nhà vua không cần phải nghe. Phải chăng đó là vì thần ngu không hợp với ý muốn nhà vua, hay là con người tiến cử thần ở địa vị thấp hèn nên lời nói không đáng dùng? Nếu như không phải như vậy, thì thần xin nhà vua cho phép có lúc nào rảnh được ngước nhìn nhan sắc, nói một lời không có công hiệu, thần xin chịu tội búa rìu.”

Vua Tần Chiêu Vương cả mừng, xin lỗi Vương Kê, sai người lấy xe đưa Phạm Thư vào. Phạm Thư bấy giờ mới được vào yết kiến nhà vua ở Ly cung. Phạm Thư giả vờ không biết cung nhà vua cứ bước vào trong. Nhà vua đến, bọn hoạn quan giận đuổi Thư, nói:

– Nhà vua đến đấy!

Phạm Thư giả vờ không biết, nói:

– Nước Tần làm gì có vua! Nước Tần chỉ có thái hậu và Nhương Hầu mà thôi (10).

Phạm Thư muốn khích cho nhà vua giận. Chiêu Vương đến, nghe Lời của Phạm Thư cãi nhau với viên hoạn quan, liền đến đón tiếp, xin lỗi mà nói:

– Đáng lý quả nhân phải thân hành lĩnh giáo ngài đã lâu . Nhưng vì có việc Nghĩa Cừ (11), gấp quả nhân ngày đêm thân hành thỉnh giáo thái hậu. Nay việc Nghĩa Cừ đã xong, quả nhân mới được thỉnh giáo, thực quả nhân trộm biết mình hồ đồ mờ tối.

Nhà vua cung kính theo lễ khách chủ, Phạm Thư nhún nhường. Hôm ấy thấy Phạm Thư yết kiến nhà vua tất cả các quan không ai không rùng mình biến sắc mặt, thay đổi thái độ . Vua Tần đuổi tả hữu ra ngoài. Trong cung không có ai.

Vua Tần quỳ xuống, cầu khẩn: .

– Tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân? Phạm Thư nói:

– Dạ, dạ.

Một lát sau, vua Tần lại quỳ xuống nói:

Tiên sinh có điều gì dạy bảo quả nhân? Phạm Thư nói:

Dạ, dạ (12).

Thế là tiên sinh cuối cùng vẫn không làm ơn dạy bảo quả nhân sao? Phạm Thư nói:

Thần đâu dám thế. Thần nghe nói ngày xưa khi Lữ Thượng (13) gặp Văn Vương, thì Lữ Thượng chỉ là người câu cá ở bến sông Vị mà thôi. Như thế tức là quen biết sơ. Sau khi nói xong, Văn Vương lập Lữ Thượng làm thái sư, chở lên xe cùng về: Đó là vì lời nói của ông ta sâu sắc (14), cho nên Văn Vương nhờ có Lữ Thượng mà lập được công, cuối cùng làm vương cả thiên hạ. Trước đây giả sử Văn Vương coi Lữ Thượng là người xa lạ, không cùng nói những lời sâu sắc, thì nhà Chu đã không có cái đức làm thiên tử, và Văn Vương, Vũ Vương không nhờ ai để lập nên nghiệp vương. Ngày nay thần là một người tôi ở trọ (15), với nhà vua là kẻ sơ giao, nhưng việc thần muốn trình bày lại là những việc giúp đỡ nhà vua, đụng chạm đến nơi cốt nhục của người ta (16), thần muốn đem tấm lòng trung ngu dại của mình để tâu lên nhưng chưa biết lòng vua như thế nào. Vì vậy cho nên nhà vua hỏi ba lần mà thần vẫn không dám đáp. Không phải thần có điều lo sợ nên không dám nói đâu. Thần biết rằng hôm nay được nói trước mặt nhà vua, rồi ngày mai sẽ bị chết, nhưng thần cũng không dám từ chối (17). Nếu đại vương quả thực tin dùng lời nói của thần thì đối với thần, cái chết không phải là điều đáng lo, việc trốn tránh không đáng làm cho thần sợ, việc sơn mình làm người hủi, bện tóc làm người diên, cũng không đủ làm cho thần xấu hổ (18). vả chăng Ngũ đế là những người thánh mà chết; Tam vương là nhân, người nhân mà chết; Ngũ bá là những người hiền mà chết; O Hoạch, Nhiệm Bỉ là những người khỏe mà chết; Thành Kinh, Mạnh Bôn Vương Khánh Ky, Hạ Dục là những người dũng cảm mà chết. Cái chết là điều người ta không ai tránh khỏi. Gặp cái thế tất nhiên, nếu có làm được điều gì có thể bổ ích cho nước Tần một chút thì đó là điều thần rất mong muốn vậy, thần có sợ gì đâu? Ngũ Tử Tư bị bỏ vào đẫy đem ra khỏi cửa Chiêu Quan, ban đêm đi, ban ngày thì nấp, đến đất Lăng Thủy không có gì nuôi miệng, bèn quỳ bằng đầu gối, bò lết, cúi đầu lạy ở trần, vỗ bụng, thổi sáo, ăn xin ở chợ Ngô, cuối cùng làm cho nước Ngô hưng khởi. Thạp Lư thành bá.

Nếu như thần được trình bày tất cả mưu kế của mình như Ngũ Tử Tư, thì dù phải suốt đời không được gặp lại nhà vua, nhưng cái thuyết của thần được thi hành, thì thần có gì là lo sợ? Cơ Tử, Tiếp Dư sơn mình làm người hủi, bện tóc làm người điên, nhưng vô ích đối với nhà vua. Nếu như thần được xếp cùng một hàng với Cơ Tử nhưng lại có điều bổ ích cho vị vua mình cho là người hiền, thì đó thực là một vinh dự lớn của thần. Thần có xấu hổ gì đâu? Điều thần sợ chỉ là sợ rằng sau khi thần chết thiên hạ thấy thần tận trung mà chết, vì vậy cho nên khóa miệng, bó chân không ai dám hướng về nước Tần mà thôi. Bệ hạ ở trên thì sợ thái hậu nghiêm khắc, ở dưới bị bọn gian thần lừa dối, ngồi ở trong thâm cung chưa hề rời khỏi tay người nâng niu, suốt đời bị mê hoặc, không có ai nêu rõ gian tà. Tai họa này nếu lớn thì tôn miếu bị tiêu diệt, nếu nhỏ thì bản thân mình cô độc hiểm nguy, đó là điều thần sợ (19). Còn như việc cùng khổ, sỉ nhục, chết chóc thì thần đâu dám sợ. Nếu thần chết mà nước Tần được thịnh trị thì còn hơn là sống.

Vua Tẩn quỳ xuống nói:

Sao tiên sinh nói thế. Nước Tần ở nơi xa xôi hẻo lánh, quả nhân ngu dại, tiên sinh đã hạ cố đến đây, đó là trời kia đưa quả nhân đến làm phiền tiên sinh để bảo tồn tôn miếu của tiên vương vậy. Quả nhân được nghe lời chỉ giáo của tiên sinh, đó là trời thương đến tiên vương mà không vứt bỏ đứa con côi cút. Tiên Sinh có việc gì mà nói như vậy? Bất kỳ việc lớn việc nhỏ, trên từ thái hậu, dưới đèn các quan đại thần, xin tiên sinh chỉ giáo hết cho quả nhân, chứ đừng nghi ngờ quả nhân (20).

Phạm Thư lạy mà vua Tần cũng lạy. Phạm Thư nói:

Nước của đại vương bốn phía có biên giới vững vàng: phía Bắc có núi Cam Tuyền, cửa ải Cốc Khẩu, phía Nam có dãy sông Kinh, sông Vị, bên phải có đất Lũng Tây, đất Thục, bên trái có cửa ải Hàm Cốc, núi Hào, quân đội thiện chiến có trăm vạn, xe trận có ngàn cỗ, gặp lợi thì xông ra đánh, bất lợi thì rút vào cố thủ. Đó là đất của bậc vương giả vậy? Dân khiếp sợ việc đánh nhau riêng, nhưng dũng cảm trong việc chiến đấu cho nước nhà, đó là dân của bậc vương giả. Nhà vua nắm được cả hai cái đó( 21). Còn việc lấy quân đội Tần dũng mãnh, xe ngựa đông đúc để khống chế chư hầu thì cũng dễ như xua chó Lô của nước Hàn (22) đuổi đánh con thỏ què vậy. Cơ nghiệp bá vương có thể làm được nhưng vì các quan không ai xứng chức vị của mình, cho nên đóng cửa ải đến nay đã mười lăm năm, không dám đem binh lực đánh các nước ở Sơn Đông. Sở dĩ như vậy là vì Nhương Hầu không trung thành với việc mưu lợi ích cho nước Tần và kế của đại vương có chỗ sai lầm vậy.

Vua Tần quỳ xuống nói:

Quả nhân xin nghe xem kế của quả nhân sai lầm như thế nào?

Thấy xung quanh có nhiều người nghe trộm, Phạm Thư sợ không dám nói việc trong nhà, chỉ nói việc ngoài trước để dò xem ý của nhà vua như thế nào (23). Phạm Thư bèn nói:

Nhương Hầu muốn vượt qua nước Hàn, nước Ngụy để đánh đất Cương Thọ của nước Tề, đó không phải là kế hay. Nếu đem ít quân thì không đủ để làm tổn thương nước Tề, đem nhiều quân thì hại đến nước Tần. Theo như ý của thần thì kế của nhà vua là mình đem ít quân, nhưng lại bắt nước Hàn, nước Ngụy dốc hết binh lực của họ để đánh Tề. Điều đó thật vô lý. Nay nếu ta đã thấy nước theo mình không thân với mình mà lại vượt qua nước người ta để đánh nước khác, thì hỏi có được hay không? Mưu kế như vậy là sơ hở đấy. Vả chăng ngày xưa vua Dẫn Vương nước Tề, phía Nam đánh Sở, phá quân diệt tướng, hai lần mở mang đất đai ngàn dặm, nhưng rốt cuộc nước Tề vẫn không lấy được một tấc đất nào. Điều đó đâu phải là vì vua Tề không muốn lấy đất, nhưng chỉ vì tình thế không cho phép làm như vậy. Chư hầu thấy nước Tề mỏi mệt, vua tôi không hòa, đem quân đánh tan quân Tề. Tướng sĩ bị nhục, binh lính bị khốn đốn, đều đổ lỗi cho nhà vua, nói: – “Ai bày ra kế này đây?”. Nhà vua nói: “Văn Tử (24) đấy”. Đại thần làm loạn, Văn Tử chạy ra nước ngoài. Cho nên nước Tề sở dĩ thua to là vì nó đánh Sở, làm cho nước Hàn, nước Ngụy được béo. Cách đó gọi là “trao binh khí cho giặc, đem lương thực cho kẻ cướp vậy”. Chi bằng nhà vua cứ giao hiếu với nước ở xa là đánh nước ở gần; được tấc đất nào là tấc đất của nhà vua, được thước đất nào là thước đất của nhà vua. Nay nhà vua lại bỏ kế đó mà đánh nước xa, thế chẳng phải là sai hay sao! Đấy, xưa kia nước Trung Sơn đất vuông năm trăm dặm mà bị một mình nước Triệu nuốt hết. Nước Triệu công thành danh toại, lại được thêm cái lợi nữa, thế mà thiên hạ không ai làm hại được nó (25). Nay các nước Hàn, Ngụy là những nước ở giữa, là nơi then chốt của thiên hạ. Nếu nhà vua muốn làm nghiệp bá thì thế nào cũng phải hòa thân với các nước ở giữa làm nơi then chốt cho thiên hạ để uy hiếp nước Sở, nước Triệu. Nếu nước Sở mạnh thì ta bênh vực nước Triệu; nước Triệu mạnh thì ta bênh vực nước Sở . Cả hai nước Triệu, Sở cùng theo ta thì thế nào nước Tề cũng hoảng sợ. Nước Tề hoảng sợ thì thế nào cũng dùng lời lẽ khiêm tốn, đem nhiều của cải đến để thờ nước Tần. Một khi nước Tề đã theo ta thì có thể cầm tù được nước Hàn, nước Ngụy (26).

Chiêu Vương nói:

– Ta muốn thân với nước Ngụy đã lâu, nhưng nước Ngụy là nước hay thay đổi luôn, quả nhân không thể hòa thân được, xin cho biết làm thế nào để hòa thân với Ngụy. Phạm Thư đáp:

– Nhà vua dùng lời lẽ nhún nhường, đem nhiều của cải đến để phụng sự họ; nếu không được thì cắt đất mình mà đút lót cho họ nếu làm thế cũng không được thì phải đem binh mà đánh.

Nhà vua nói:

– Quả nhân xin vâng theo lời chỉ giáo.

Bèn cho Phạm Thư làm khách khanh (27) lo việc binh, cuối cùng nhà vua nghe theo mưu kế của Phạm Thư, sai ngũ đại phu và Uyển đánh Ngụy, lấy đất Hoài, hai năm sau đánh lấy đất Hình Khâu.

Khách khanh Phàm Thư lạl nói với Chiêu Vương:

Địa hình của nước Tần và nước Ngụy cài vào nhau như bức gấm thêu. Nước Tần có nước Hàn cũng như cây gỗ có mọt, như con người có bệnh ở trong tim trong ruột vậy. Trong thiên hạ không có biến thì thôi, chứ đã có biến thì chẳng nước nào làm cho Tần phải lo sợ bằng nước Hàn đâu! Nhà vua thu phục Hàn là hơn cả.

Chiêu Vương nói:

Ta từ lâu đã muốn thu phục nước Hàn, nhưng nước Hàn không nghe, vậy phải làm thế nào?

Phạm Thư đáp:

Nước Hàn không nghe sao được? Nhà vua đem binh xuống đánh Huỳnh Dương thì con đường giao thông của đất Củng và đất Thành Cao bị tắt. Sau đó, quay về phía Bắc chặn đường Thái Hàng thì quân ở Thượng Đảng (28) không xuống được. Một khi nhà vua đem binh đánh Huỳnh Dương thì nước Hàn sẽ bị chia cắt thành ba khúc, nước Hàn thấy mình thế nào cũng mất, không nghe theo sao được? Nếu như nước Hàn nghe theo thì có thể lo đến cơ nghiệp bá.

Nhà vua nói:

Phải đấy.

Bèn sai sứ sang nước Hàn.

Phạm Thư ngày càng thân với nhà vua, được nhà vua tin dùng trong mấy năm. Phạm Thư bèn nói riêng với nhà vua (29):

Khi thần ở Sơn Đông, thần nghe ở nước Tề có Điền Văn chứ không có vua Tề, nghe Tần có thái hậu, có Nhương Hầu, Hoa Dương, Cao Lăng, Kinh. Dương chứ không nghe nói có vua (30). Phàm có nắm được toàn quyền trong nước mới gọi là vua, có nắm được quyền sinh sát mới gọi là vua. Nay thái hậu tự tiện chuyên quyền không đếm xỉa đến nhà vua, Nhương Hầu cho sứ ra đi không báo với nhà vua, Hoa Dương, Kinh Dương xét xử người ta không nể nang ai hết, Cao Lăng muốn làm hay muốn thôi, không cần hỏi nhà vua. Nước có bốn hạng người cao quý ấy mà không nguy thì xưa nay chưa hề có vậy. Nếu người ta theo bốn hạng người quý ấy thì có thể gọi không có nhà vua. Như thế thì uy quyền làm sao cho khỏi bị phá hoại, nhà vua làm sao còn có thể ban hành mệnh lệnh được nữa? Thần nghe nói vị vua giỏi trị nước thì ở trong nước nắm chắc lấy cái uy thế của mình, ở ngoài nước coi trọng cái quyền lực của mình. Sứ giả của Nhương Hầu nắm lấy quyền lực của nhà vua, uy hiếp chư hầu, chặt phù với thiên hạ, đem quân đánh nước người, ai cũng phải nghe theo. Nếu Nhương Hầu đánh thắng, lấy được đất thì cái lợi lại quay về đất Đào, còn chư hầu thì chịu thiệt hại; nếu Nhương Hầu đánh thua thì nhà vua kết oán với trăm họ, mà nước nhà lại phải chịu tai họa. Thơ có câu: “Cây mà nhiều quả thì làm gãy cành, cành bị gãy thì hại đến gốc. Làm đổ thành lớn thì nguy cho nước, đề cao bầy tôi thì hạ thấp nhà vua”(31). Thôi Trữ, Trác Xỉ cai trị nước Tề, bắn vào đùi nhà vua, rút gân nhà vua, treo nhà vua lên xà ở miếu, một ngày sau thì chết. Lý Đoái cai trị nước Triệu, giam Chủ Phụ (32) ở Sa Khâu được một trăm ngày thì Chủ Phụ chết đói. Nay thần nghe nói Tần thái hậu, Nhương Hầu chuyên quyền, Cao Lăng, Hoa Dương, Kinh Dương giúp cho họ, như thế kết quả là sẽ không còn vua Tần nữa, đó cũng là cái loại Trác Xỉ, Lý Đoái vậy. Vả chăng, đời Tam đại, sở dĩ nước mất là vì nhà vua cứ giao việc nước cho bầy tôi, tha hồ uống rượu, săn bắn, không lo việc chính sự. Những kẻ mà vua trao quyền binh là những kẻ ghen người hiền, ghét người có tài, đàn áp kẻ dưới, che mắt người trên để làm việc riêng của mình. Họ không lo đến việc nhà vua, nhưng nhà vua không tỉnh ngộ, vì vậy cho nên mất nước. Nay từ người quan nhỏ nhất trở lên, cho đến những vị quan lớn, thậm chí cả những người hầu hạ xung quanh nhà vua, không ai không phải là người của thừa tướng. Thần thấy nhà vua đứng một mình ở triều, thần trộm lo cho nhà vua, vạn thế sau này người làm vua nước Tần, sẽ không phải là con cháu nhà vua nữa (33).

Chiêu Vương nghe vậy, hoảng sợ, nói:

– Phải đấy.

Bèn phế truất thái hậu, đuổi Nhương Hầu, Cao Lăng, Hoa Dương, Kinh Dương ra ngoài cửa ải. Vua Tần bèn cho Phạm Thư làm thừa tướng. Vua Tần thu ấn của Nhương Hầu, sai Nhương Hầu trở về đất Đào, nhân đó sai các quan cấp cho xe bò để chuyên chở đồ đạc. Đồ đạc chở hơn một ngàn cỗ xe. Khi đến cửa ải, người giữ cửa ải xét lại những đồ quý báu thì thấy những đồ của cải quý báu nhiều hơn cả cung vua. Vua Tần phong cho Phạm Thư đất Ưng, hiệu là Ứng Hầu. Bấy giờ là năm thứ 41 đời Tần Chiêu Vương (34).

3 . Sau khi Phạm Thư làm thừa tướng nước Tần, nước Tần gọi ông ta là Trương Lộc. Nước Ngụy không biết, cho là Phạm Thư chết đã lâu. Nước Ngụy nghe nói nước Tần sắp đem quân sang Đông đánh các nước Hàn, Ngụy, nên sai Tu Giả đến nước Tần. Phạm Thư nghe vậy cải trang, mặc áo quần lam lũ, đi bộ lẻn đến nhà khách, yết kiến Tu Giả. Tu Giả thấy Thư liền kinh ngạc hỏi:

Phạm Thúc vẫn không can gì sao? Phạm Thư đáp:

Phải.

Phạm Thúc đến làm thuyết khách ở nước Tần phải không?

Thưa không ạ. Trước đấy, Thư có tội với tướng quốc nước Ngụy, cho nên bỏ trốn đến đây, đâu dám làm thuyết khách.

Nay ông Thúc làm việc gì?

Phạm Thư nói:

– Tôi làm thuê cho người ta.

Tu Giả trong bụng thương hại, giữ lại cùng ngồi ăn cơm, nói:

– Phạm Thúc nghèo khổ đến thế sao?

Bèn lấy một cái áo bào thêu cho Phạm Thư. Nhân đấy, Tu Giả hỏi:

Anh có biết thừa tướng nước Tần là Trương Quân không? Tôi nghe nói ông ta được nhà vua yêu quý, việc trong thiên hạ đều do thừa tướng quyết định. Công việc của tôi bây giờ thành công hay thất bại đều tùy ở Trương Quân cả. Này anh? Anh có ai bạn bè quen biết quan thừa tướng không?

Phạm Thư nói:

Ông chủ của tôi quen biết ông ta, nên tôi cũng có thể vào bái yết. Thư này xin giúp ông để cho ông yết kiến Trương Quân.

Tu Giả nói:

Con ngựa của ta mắc bệnh, trục xe gãy, không có xe tứ mã lớn, nên ta không đi ra. Phạm Thư nói:

Tôi sẽ nói ông chủ của tôi mượn cho ông cái xe tứ mã lớn.

Phạm Thư về lấy xe tứ mã đưa cho Tu Giả và đánh xe cho Tu Giả vào phủ thừa tướng nước Tần. Người trong phủ nhận ra Phạm Thư, ai nấy đều ẩn nấp trốn tránh. Tu Giả lấy làm lạ. Khi đến cửa nhà thừa tướng, Phạm Thư nói với Tu Giả:

Ông hãy đợi tôi một lát, tôi xin vào trước để báo với thừa tướng. Tu Giả đợi ở ngoài cửa, dừng xe hồi lâu, hỏi người môn hạ :

Ông Phạm Thúc không ra là tại làm sao?

Không có ai là Phạm Thúc cả. Tu Giả nói:

Lúc nãy ông ta cùng tôi đi vào đấy mà.

Đó là quan thừa tướng của chúng tôi đấy.

Tu Giả cả kinh biết rằng mình bị lừa, bèn cởi trần đi bằng đầu gối rồi nhờ người môn hạ vào xin tha tội. Bấy giờ Phạm Thư bày màn trướng nghiêm chỉnh, kẻ hầu người hạ rất đông để tiếp kiến.

Tu Giả cúi đầu nói:

Tội tôi đáng chết, giả tôi không ngờ ngài có thể tự mình lên đến tận mây xanh. Từ nay Giả không dám đọc sách thiên hạ, bàn việc thiên hạ nữa. Giả có cái tội phải bỏ vào vạc nước sôi, cúi xin ngài đuổi đến nơi man rợ, ngài cho sống thì được sống, ngài bắt chết thì xin chịu chết (35).

Phạm Thư nói:

Nhà ngươi có mấy tội? .

Nhổ hết tóc của Giả để tính tội của Giả cũng còn chưa đủ.

Nhà ngươi chỉ có ba tội mà thôi. Trước đây thời Sở Chiêu Vương, Thân Bao Tư vì nước Sở mà đuổi quân Ngô, vua Sở phong cho ông ta đất Kinh năm nghìn hộ, Bao Tư từ chối không nhận vì mồ mả của ông cha đều ở đất Kinh (36). Nay mồ mả cha ông của Thư này cũng đều ở đất Ngụy, nhà ngươi trước đây cho rằng Thư này có ngoại tâm đối với Tề, gièm pha Thư với Ngụy Tề, đó là một tội. Lúc Ngụy Tề làm nhục ta ở trong nhà xí, nhà ngươi không ngăn cản, đó là hai tội . Đến khi uống rượu say lại đái vào ta, sao mà nhà ngươi nhẫn tâm đến thế! Đó là ba tội. Nhưng sở dĩ nhà ngươi được khỏi chết, là vì còn thương hại ta, tặng cái áo bào, tức là còn có tình nghĩa với người cũ, cho nên ta tha cho nhà ngươi.

Phạm Thư bèn tha tội và đuổi Tu Giả ra, vào nói với Chiêu Vương tha cho Tu Giả trở về.

Tu Giả từ gĩa Phạm Thư, Phạm Thư mở tiệc lớn, mời tất cả sứ thần các nước chư hầu ngồi trên nhà ăn uống rất sang, rất hậu. Trái lại, Tu Giả phải ngồi ở dưới thềm . Phạm Thư sai đặt một cái máng cho ngựa ăn trước mặt, sai hai người tội nhân bị chạm vào mặt, cho y ăn như người ta cho ngựa ăn vậy.

Phạm Thư mắng:

Nhà ngươi nói với vua Ngụy hộ ta rằng khá mau mau xách đầu Ngụy Tề đến đây! Nếu không, ta sẽ làm cỏ thành Đại Lương.

Tu Giả về báo với Ngụy Tề. Ngụy Tề sợ chạy trốn đến nước Triệu ở nhà Bình Nguyên Quân. .

Sau khi Phạm Thư đã làm thừa tướng. Vương Kê nói với Phạm Thư:

Có ba việc không thể biết, có ba việc không biết làm thế nào. Xe cung một sớm ra muộn, đó là điều thứ nhất không thể biết (37). Ngài bỗng nhiên bỏ quán xá đi là điều thứ hai không thể biết (38), tôi bỗng nhiên bị vất ra ngoài ngòi rãnh (39), đó là điều thứ ba không thể biết. Nếu xe vua một sớm ra muộn thì ngài tuy giận tôi, cũng không biết làm thế nào. Nếu ngài đột nhiên rời khỏi quán xá, thì ngài tuy giận tôi (40), cũng không biết làm thế nào. Nếu tôi đột nhiên bị ném ra ngoài ngòi rãnh thì ngài tuy có giận tôi, cũng không biết làm thế nào.

Phạm Thư không vui vào nói với nhà vua:

Nếu không có Vương Kê trung thành thì không ai có thể đưa thần vào cửa ải Hàm Cốc, nếu nhà vua không phải bậc hiền thánh thì không có ai có thể làm cho thần được vinh hiển. Nay thần làm quan đến thừa tướng, tước đến bậc hầu, mà Vương Kê chỉ đến chức yết giả đó không phải là ý của ông ta khi đưa thần vào cửa ải.

Chiêu Vương gọi Vương Kê đến, cho làm thái thú Hà Đông, ba năm không báo lên nhà vua về việc cai trị ở đấy (41).

Thư lại tiến cử Trịnh An Bình. Chiêu Vương cho Trịnh An Bình làm tướng quân. Phạm Thư bèn phân tán tài sản trong nhà đem tất cả ra báo ơn những người đã giúp mình trong cảnh khốn khổ. Người mình chịu ơn một bữa ăn cũng báo; người ta trợn mắt với mình một cái cũng trả thù. Phạm Thư làm thừa tướng nước Tần được hai năm. Năm thứ 42 đời Tần Chiêu Vương (năm 265 trước Công nguyên), Phạm Thư sang Đông đánh Hàn, lấy đất Thiểu Khúc, Cao Bình, Tần Chiêu Vương nghe nói Ngụy Tề Bình Nguyên Quân, muốn báo thù cho Phạm Thư, bèn giả vờ viết một bức thư dùng lời lẽ khôn khéo đưa cho Bình Nguyên Quân, nói:

– “Quả nhân nghe nói ngài cao nghĩa muốn cùng ngài làm bạn áo vải, nếu may mắn được ngài đến với quả nhân thì quả nhân xin cùng ngài uống rượu mười ngày.”

Bình Nguyên Quân sợ Tần, vả lại cũng cho là phải nên vào nước Tần yết kiến Chiêu Vương. Chiêu Vương cùng Bình Nguyên Quân uống rượu mấy ngày. Chiêu Vương nói với Bình Nguyên Quân:

– Xưa Chu Văn Vương được Lữ Thượng cho làm thái công, Tề Hoàn Công được Quản Di Ngô cho làm trọng phụ. Nay Phạm Quân cùng là bậc thúc phụ của quả nhân, kẻ thù của Phạm Quân ở nhà ông. Xin ông cho người về lấy đầu của hắn đem lại đây, nếu không ta không cho ông ra khỏi cửa ải đâu.

Bình Nguyên Quân nói:

– Tuy mình sang, nhưng kết bạn với người ta là vì không quên cái nghĩa lúc mình còn thấp hèn. Tuy mình giầu, nhưng chơi với người ta là vì không quên cái nghĩa lúc mình còn nghèo túng. Ngụy Tề là bạn của Thắng, nếu ở nhà tôi, cố nhiên tôi không đem ra nộp, phương chi ông ta lại không ở nhà tôi.

Chiêu Vương bèn đưa thư cho vua Triệu, nói:

– Em trai của nhà vua ở Tần, kẻ thù của Phạm Quân là Ngụy Tề hiện đang ở nhà Bình Nguyên Quân. Nhà vua mau mau sai người đem đầu hắn lại đây, nếu không, ta sẽ đem binh đánh Triệu, lại không cho em nhà vua ra khỏi cửa ải đâu.

Vua Triệu là Hiếu Thành Vương bèn đem binh lính vây nhà Bình Nguyên Quân rất gấp, đang đêm Ngụy Tề trốn ra, ra mắt tướng quốc nước Triệu là Ngu Khanh. Ngu Khanh xem chừng không thể can nổi nhà vua, bèn cởi ấn tướng quốc, cùng Ngụy Tề bỏ trốn, lẻn ra đi. Nghĩ không thể trốn tránh ở nước chư hầu nào trong lúc nguy cấp cho nên lại chạy về Đại Lượng, muốn nhờ Tín Lăng Quân để chạy sang nước Sở. Tín Lăng Quân nghe tin, sợ Tần, đang do dự chưa dám tiếp kiến, nói:

Ngu Khanh là người như thế nào? Lúc bấy giờ Hầu Doanh ở bên cạnh nói:

Con người ta thật là không dễ biết hết, biết người cũng không phải dễ. Ngu Khanh (42) đi giầy rơm, mang dù yết kiến vua Triệu, lần thứ nhất được thưởng một đôi bạch bích, một trăm cân vàng, yết kiến lần thứ hai được phong làm thượng khanh, yết kiến lần thứ ba được trao ấn tướng quốc, phong vạn hộ hầu. Trong lúc bấy giờ thiên hạ tranh nhau muốn biết ông ta. Thế mà khi Ngụy Tề cùng khốn đến nhà Ngu Khanh, Ngu Khanh không dám cho tước lộc là tôn quý, cởi ấn tướng quốc, bỏ tước vạn hộ hầu mà lẻn ra đi. Nay kẻ sĩ nguy cấp khốn cùng chạy về với công tử, công tử lại nói “người như thế nào”, thực là con người không dễ biết, biết người cũng không dễ vậy.

Tín Lăng Quân cả thẹn, lên xe ra ngoài đồng để đón.

Ngụy Tề nghe nói Tín Lăng Quân lúc đầu ngại tiếp kiến mình nên nổi giận tự đâm cổ chết. Vua Triệu nghe tin lấy đầu của Tề đưa cho nước Tần. Tần Chiêu Vương bèn cho Bình Nguyên Quân về nước Triệu (43).

4. Năm thứ 43 đời Tần Chiêu Vương (năm 264 trướcCông nguyên), quân Tần đánh lấy đất Phần Hình của nước Hàn, nhân đó xây thành Quảng Vũ ở trên sông Hoàng Hà. Năm năm sau, Chiêu Vương đúng kế của Ứng Hầu tung phản gián vào mua chuộc nước Triệu. Vua Triệu vì vậy cho con Mã Phục thay Liêm Pha làm tướng (44). Quân Tần phá tan quân Triệu ở Trường Bình, rồi vây Hàm Đan. ít lâu sau, Vũ An Quân là Bạch Khởi có hiềm khích với Ứng Hầu, Ứng Hầu gièm với nhà vua và giết Bạch Khởi, sai Trịnh An Bình đánh Triệu. Trịnh An Bình bị quân Triệu vây rất gấp cho nên đem hai vạn quân đầu hàng nước Triệu. Ứng Hầu ngồi trên chiếu cỏ xin chịu tội. Theo pháp luật nhà Tần, người tiến cử và người được tiến cử không tốt đều có tội như nhau, Vì vậy, Ứng Hầu đáng lý bị tội giết cả ba họ. Vua Tần Chiêu Vương sợ phạm đến Ứng Hầu bèn ra lệnh trong nước: “Ai dám nói đến việc Trịnh An Bình thì sẽ trị theo tội của Trịnh An Bình”, trái lại, lại thưởng cho Ứng Hầu đồ ăn hậu hơn trước, hết sức làm cho Ứng Hầu an tâm. Hai năm sau, Vương Kê làm thái thú Hà Đông, tư thông với chư hầu bị tội giết (46), vì vậy Ứng Hầu ngày càng không vui. Chiêu Vương ra triều thở dài, Ứng Hầu tâu :

– Thần nghe nói: vua lo thì tôi nhục, vua nhục thì tôi chết”. Nay đại vương ra triều lo lắng, thần xin hỏi thần có tội .

Chiêu Vương nói:

– Ta nghe nói kiếm sắt của nước Sở sắc mà việc ca múa lại kém. Phàm kiếm sắt mà sắc thì quân sĩ dũng cảm, ca múa mà kém thì suy nghĩ xa. Họ suy xa nghĩ rộng, có nhiều dũng sĩ, ta sợ nước Sở sẽ mưu lấy nước Tẩn. Phàm vật mà không chuẩn bị sẵn thì không thể ứng phó được trong lúc bất ngờ. Nay Vũ An Quân đã chết, bọn Trịnh An Bình làm phản, trong nước không có tướng giỏi, bên ngoài lại nhiều nước thù, ta lo lắng là vì thế.

Nhà vua muốn khích lệ ứng Hầu, Ứng Hầu lo sợ không biết bày mưu kế gì. Thái Trạch nghe vậy, vào nước Tần (47).

1. Thái Trạch là người nước Yên, đi du học, xin làm quan ở các nước lớn, lại đến nước nhỏ chẳng được ai dùng, bèn đến nhờ Đường Cử xem tướng. Thái Trạch nói:

– Tôi nghe tiên sinh xem tướng cho Lý Đoái, nói: “Nội trong năm ngày sẽ cầm quyền cả nước”, điều đó có không?

– Có

– Như tôi thế nào?

Đường Cử nhìn chăm chú rồi cười mà nói:

– Tiên sinh mũi hếch, vai lồi, mặt to , sống mũi tẹt, đầu gối cong (48). Tôi nghe nói “thánh nhân không thể lấy chuyện tướng mạo mà nói được”, có lẽ tiên sinh là người như thế chăng?

Thái Trạch biết Đường Cử trêu mình, bèn nói:

Việc giàu sang thì tôi đã có sẵn rồi, chỉ chưa biết có sống lâu hay không. Tôi muốn biết điều đó.

Đường Cử nói:

Tiên sinh thọ từ giờ trở đi là 43 năm.

Ta ăn gạo ngon, thịt béo, ruổi ngựa đi nhanh, mang ấn vàng, lưng buộc dây ấn màu tía, vái chào trước mặt nhà vua, giàu sang thì bốn mươi ba năm cũng đủ.

Thái Trạch sang Triệu bị Triệu đuổi, sang Hàn, Ngụy trên đường đi bị người ta cướp mất nồi, chảo. Nghe nói Ứng Hầu dùng Trịnh An Bình, Vương Kê, đều phạm tội nặng với nước Tần, trong bụng Ứng Hầu có ý thẹn, Thái Trạch bèn đi sang phía Tây vào Tần (49).

2. Khi sắp ra mắt Chiêu Vương, Thái Trạch sai người phao tin để khích cho Ứng Hầu giận (50):

Có người khách nước Yên tên là Thái Trạch là người biện sĩ kiến thức siêu việt, biện luận tài giỏi, khôn ngoan khác thường, anh ta nếu vào yết kiến vua Tần thì thế nào cũng làm ngài nguy khốn và giật mất địa vị của ngài.

Ứng Hầu nói:

Việc Ngũ Đế, Tam Đại, học thuyết của bách gia, ta đều biết cả, lời biện luận của mọi người ta đều bẻ gãy được. Nó làm khốn thế nào được ta mà đoạt được đia vị của ta. Phạm Thư cho người gọi Thái Trạch đến (51). Thái Trạch vào vái chào Ứng Hầu. Ứng Hầu vốn đã không bằng lòng, đến khi tiếp kiến lại thấy y ngạo mạn, Ứng Hầu bèn trách y rằng:

Ông thường phao tin rằng muốn thay ta làm thừa tướng nước Tần có phải không? Thái Trạch đáp:

Phải.

Ứng Hầu nói:

Xin cho nghe thuyết của ông như thế nào? Thái Trạch nói:

Ố (53), sao mà ngài thấy muộn thế. Đại phàm trật tự bốn mùa thay nhau đổi, thành công rồi thì rút lui. Thân thể mạnh mẽ, chân tay lanh lẹn, tai mắt tỏ tường, trí khôn sáng suốt điều đó chẳng phải mọi kẻ sĩ đều muốn hay sao?

Ứng Hầu nói:

Phải.

Nắm lấy điều nhân, giữ lấy điều nghĩa, làm việc hợp đạo thi hành ân đức, đắc chí trong thiên hạ, thiên hạ vui vẻ, tôn kính hâm mộ đều muốn tôn làm vua, đó chẳng phải là chí hướng của kẻ sĩ có tài biện thuyết hay sao?

Ứng Hầu nói:

Đúng.

Giàu sang vinh hiển, xử lý vạn vật, khiến cho vạn vật đều êm đẹp, tính mạng lâu dài, sống trọn tuổi trời, không phải chết yểu. Thiên hạ nối được cái quy mô của mình, giữ được cơ nghiệp của mình, truyền mãi đến vô cùng, cả danh lẫn thực đều đẹp đẽ, ân đức tràn khắp ngàn dặm, đời đời khen ngợi không bao giờ dứt, cùng với trời đất không bao giờ cùng, đó chẳng phải là dấu hiệu của đạo đức, thánh nhân gọi đó là điềm lành, việc tốt dó sao?

Ứng Hầu nói:

Đúng.

Xem việc nhà Tần đối với Thương Quân, nước Sở đối với Ngô Khởi, nước Việt đối với đại phu Chủng thì kết cục của họ có làm ta vừa ý không? (54)

Ứng Hầu biết Thái Trạch muốn dùng cách biện thuyết để bắt bí mình, nên dùng lối ngụy biện nói:

Tại sao lại không được. Công Tôn phương thờ Hiếu Công suốt đời không hài lòng, chỉ lo việc công mà không nghĩ đến việc riêng, đặt ra dao cưa để cấm bọn gian tà, việc thưởng phạt đều rõ ràng, làm cho nước được thịnh trị, phơi gan ruột, bày tỏ nỗi lòng, chịu người ta oán giận, lừa bạn cũ, giành bắt công tử Ngang nước Ngụy, làm cho xã tắc nhà Tần được yên, làm lợi cho trăm họ, cuối cùng vì nước Tần bắt sống tướng địch, cướp đất ngàn dặm (55). Ngô Khởi thờ Điệu Vương, khiến cho việc riêng không được hài đến việc công, giời gièm pha không che được người trung thực, khi nghe lời nói, không cốt nghe kẻ a dua theo mình, không vì việc nguy mà thay đổi hành động, làm việc nghĩa không tránh hoạn nạn, chỉ lo làm sao cho nhà vua xưng bá, làm cho nước được mạnh, không từ tai họa gian nguy (56) Đại phu Chủng thờ Việt Vương, vua tuy bị khốn, bị nhục, nhưng mình vẫn đem hết lòng trung thành không chút lười biếng, vua tuy ở trong cảnh nguy vong, vẫn đem hết lòng mà không rời công thành mà không khoe khoang, giàu sang mà không, kiêu ngạo nhác nhớn. Ba người kia đã đạt đến mức độ cao nhất của điều trung, cho nên người quân tử vì giữ nghĩa mà chết, trong lúc hoạn nạn, coi chết như về. Sống mà nhục chẳng bằng chết mà vinh. Kẻ sĩ vốn có cái nghĩa chịu hy sinh thân mình, để cho cái danh được thành. Chỉ cốt đó là đạo nghĩa thì dù có chết cũng không oán hận, có gì là không được đâu?

Thái Trạch nói:

Vua thánh, tôi hiền là cái phúc lớn trong thiên hạ; vua sáng tôi ngay là cái phúc của nước; cha nhân từ, con hiếu, chồng tín vợ trinh, đó là cái phúc của nhà. Vì vậy cho nên Tỷ Can (57) trung mà không thể bảo tồn được nhà vua Ân; Tử Tư khôn mà không thể bảo toàn được nước Ngô; Thân Sinh (58) có hiếu mà nước Tấn nổi loạn. Họ đều là những tôi trung, con hiếu, nhưng nước nhà vẫn loạn lạc, vẫn bị tiêu diệt là tại làm sao? Vì không có vua sáng, cha hiền để nghe họ, cho nên thiên hạ đều căm ghét, mắng nhiếc vua và cha mà thương cho kẻ làm tôi và làm con. Nay Thương Quân, Ngô

Khởi, đại phu Chủng làm người tôi thì phải, nhưng vua của họ thì trái. Cho nên đời khen ba người này lập được công, nhưng vẫn không được báo đáp, chứ có phải thích việc họ không gặp thời mà chết đâu. Nếu cứ đợi chết rồi sau đó mới được gọi là trung, mới lập được danh tiếng thì Vi Tử (60) không đáng gọi là nhân, Khổng Tử không đáng gọi là thánh, Quản Trọng không đáng gọi là lớn. Người ta lập công, ai lại không muốn được thành đạt toàn vẹn? Thân và danh được toàn vẹn là tốt nhất. Danh có thể nêu gương mà thân thì chết đó là hạng thứ hai. Danh bị ô nhục mà thân được toàn vẹn thì đó là hạng bét. Lúc đó, Ứng Hầu mới khen là giỏi (61). Thái Trạch dần dần tìm ra chỗ hở (62), bèn nói:

Thương Quân, Ngô Khởi, đại phu Chủng làm tôi tận trung lập nên công, đó là điều đáng mong mỏi. Hoành Yêu thờ Văn Vương, Chu Công giúp Thành Vương, há không phải là bậc thánh trung hay sao (53). Theo như ý ngài làm Thương Quân, Ngô Khởi, đại phu Chủng với làm Hoành Yêu, Chu Công thì nên làm người nào hơn?

Ứng Hầu nói:

Thương Quân, Ngô Khởi, đại phu Chủng không thể bằng được.

Thế thì vua của ngài về mặt nhân từ, tin dùng kẻ trung thần, nhớ đến tình xưa nghĩa cũ, tôn trọng kẻ sĩ có tài và có đạo gắn bó với họ, không bỏ sót người công thần, so với Tần Hiếu Công, Sở Điệu Vương, Việt Vương thì ai hơn?

Ứng Hầu nói:

Chưa biết như thế nào.

Nay nhà vua thân với kẻ trung thần nhiều lắm là như Tần Hiếu Công, Sở Điệu Vương, Việt Vương. Về mặt trổ tài trí lực, giúp cho nhà vua bình định được việc nguy, sửa sang chính trị, dẹp loạn, làm cho quân mạnh, trừ bỏ điều lo lắng, tiêu diệt điều tai nạn, mở mang đất đai, trồng trọt ngũ cốc, làm cho nước giàu, nhà no đủ, nhà vua mạnh, xã tắc được tôn trọng, tôn miếu được hiển vinh, thiên hạ không ai dám phạm đến nhà vua, uy thế của nhà vua vang dội khắp bốn bể, công lao vang lừng ở ngoài vạn dặm, thanh danh sáng ngời đến ngàn đời, thì ngài so với Thương Quân, Ngô Khởi, đại phu Chủng ai hơn?

Ứng Hầu nói:

Ta không bằng. Thái Trạch nói:

Nay nhà vua về mặt thân với kẻ trung thần, không quên tình xưa nghĩa cũ đã không bằng Hiếu Công, Điệu Vương, Câu Tiễn, mà về mặt công lao được tin yêu, thân cận ngài lại không bằng Thương Quân, Ngô Khởi, đại phu Chủng. Đã thế, tước lộc, chức vị của ngài lại sang trọng hơn, nhà cửa của ngài lại giàu có hơn cả ba người kia, thế mà ngài còn chưa rút lui thì tôi sợ còn đáng lo hơn cả ba người kia. Tôi xin lo thay cho ngài. Tục ngữ có câu: “Mặt trời lên đến đỉnh đầu thì sẽ xế, trăng đầy thì khuyết, sự vật thịnh thì suy. Đó là cái lẽ thường của trời đất. Khi tiến khi lùi, khi đầy khi vơi theo thời tiến hoá, đó là cái đạo thường của thánh nhân. Cho nên “nước có đạo thì làm quan, nước không có đạo thì đi ở ẩn” (84). Thánh nhân nói: “Rồng bay lên trời, lợi thấy kẻ đại nhân” (65). Bất nghĩa mà giàu sang thì ta xem như dám mây nổi” (66). Nay oán thù ngài đã trả, ân đức ngài đã báo, điều sở nguyện đã đạt, thế mà không thay đổi cái kế của mình, thì tôi trộm cho ngài như thế là không nên. Vả chăng con chim trả, chim hộc, con tê ngưu, con viu, chỗ ở không phải là không xa chỗ chết, mà sở dĩ chết là vì ham mồi. Tô Tần, Trí Bá không phải là không đủ trí khôn đề tránh điều nhục, tránh xa cái chết, nhưng sở dĩ đều chết, đó là vì tham lợi không chịu dừng lại (67), cho nên bậc thánh nhân đặt ra lễ để hạn chế cái lòng dục, lấy ở dân có chừng mực, sai dân đúng thời vụ, dùng của cải của dân có mức độ. Cho nên trí họ không tự mãn, hành động của họ không kiêu, luôn luôn theo đạo mà không bỏ. Vì vậy giữ mãi được thiên hạ mà không mất. Ngày xưa Tề Hoàn Công nhóm họp chư hầu, chỉnh đốn thiên hạ, đến khi họp ở Quỳ Khâu thì có ý kiêu căng, chín nước phản lại; vua Ngô là Phù Sai, quân đội vô địch trong thiên hạ, dũng mãnh coi khinh chư hầu, lấn át nước Tề, nước Tần cho nên rút cục thân bị giết, nước bị mất. Hạ Dục, Thái Sử Hiệu (68) hò hét làm ba quân sợ hãi, nhưng thân bị chết bởi một người tầm thường. Những người này thanh thế đã đến cực thịnh, nhưng không quay về với đạo lý, không khiêm tốn rút lui để an tâm chịu nghèo hèn cho nên mới xảy ra tai hoạ như thế! Thương Quân làm pháp lệnh cho Tần Hiếu Công, cấm nguồn gốc của tội ác, có công nhất định thưởng, có tội nhất định phạt, làm cho cân ngang nhau, chỉnh lý việc đo lường, điều chỉnh nặng nhẹ, phá vỡ các đường thiên, đường mạch (59) để cho dân ổn định được nghề nghiệp. Do đó thống nhất được tục lệ, khuyến khích người cày làm hết cái lợi của đất, một nhà không lo hai việc, ra sức cày ruộng, súc tích lương thực, tập nghề chiến trận; kết quả, khi dám binh dành thì mở đất rộng, khi nghỉ binh thì nước được giàu, cho nên trong thiên hạ không đâu địch nổi, có uy thế đối với chư hầu, lập thành cơ nghiệp nước Tần. Công ông ta đã thành, rút cục ông ta lại bị xe xé xác. Đất Sở vuông mấy ngàn dặm, người cầm kích một trăm vạn, Bạch Khởi chỉ huy mấy vạn quân, đánh nhau với Sở, đánh một trận lấy đất Yến, đất Sính, đốt Di Lăng; đánh hai trận phía Nam lấy đất Thục, đất Hán, rồi vượt qua nước Hàn, nước Ngụy đánh nước Triệu mạnh; phía Bắc chôn sống Mã Phục, làm cỏ hơn bốn mươi vạn người, họ bị chôn ở gần Trường Bình, máu chảy thành sông, sóng sôi lên như sấm (70). Sau đó, vào vây Hàm Đan, khiến cho nước Tần có được cơ nghiệp đế vương. Nước Sở, nước Triệu là nước mạnh trong thiên hạ và là kẻ thù của nước Tần. Nhưng từ đó về sau, Sở, Triệu đều nem nép sợ không dám đánh Tần nữa. Đó là cái thế của Bạch Khởi. Bạch Khởi thân hành đánh lấy bảy mươi thành, nhưng khi công đã thành, lại bị nhà vua trao kiếm chịu chết ở Đỗ Bưu. Ngô Khởi lập phép tắc cho vua Sở Điệu Vương, giảm bớt uy lớn của các quan đại thần, bãi những người không có năng lực, những người vô dụng, bỏ những chức quan không cần kíp, trừ việc xin xỏ ở cửa nhà tư, thống nhất phong tục nước Sở, cấm những người đi du thuyết, biểu dương những kẻ sĩ giỏi cày và chiến đấu, phía Nam lấy đất Dương Việt, phía Bắc thâu tóm đất Trần, đất Thái, phá kế liên hoành, giải tán kế hợp tung, khiến cho những kẻ sĩ đi du thuyết đều không có cách nào mở miệng, cấm bè đảng để khuyến khích trăm họ, ổn định chính trị nước Sở, binh lực nổi tiếng trong thiên hạ, uy thế làm chư hầu phải phục. Nhưng khi công đã thành, cuối cùng lại bị xé cả tay chân. Đại phu Chủng vì Việt Vương nghĩ mưu sâu bày kế xa, chuyển mất thành còn, nhân điều sỉ nhục mà đổi thành vinh quang; khai khẩn đất đai đầy cỏ dại lập thành ấp trại, vở đất trồng ngũ cốc; cầm đầu kẻ sĩ bốn phương, trên dưới đều hết lòng giúp cho cái hiền của Câu Tiễn, trả được cái thù với Phù Sai; cuối cùng phá được nước Ngô mạnh khiến cho nước Việt làm nên nghiệp bá. Công như thế rõ ràng là rực rỡ vậy. Kết cục Câu Tiễn phụ bạc mà giết ông ta. Bốn người này công thành mà không bỏ đi cho nên tai vạ đến thân mình. Đó là biết duỗi mà không biết co, biết đi mà không biết về vậy (71). Phạm Lãi biết điều đó vượt ra khỏi ràng buộc của thế lợi, trốn đời, suốt đời làm Đào Chu Công (72). Ngài không thấy người ta đánh bạc hay sao? Có kẻ muốn tố nhiều, có kẻ muốn tố ít, rồi tiến lên dần dần, đó là điều ngài đã biết rõ. Nay ngài làm tướng nước Tần, bàn kế không rời khỏi chiếu, bàn mưu không ra khỏi nơi lăng miếu, ngồi mà khống chế chư hầu, lấy hết Tam Xuyên để bồi đắp cho đất Nghi Dương (73) phá được cái hiểm ở Dương Trường, chẹn được con đường Thái Hàng, sáu nước không dám hợp tung, đường sạn đạo ngàn dặm thông đến đất Thục, đất Hàn, khiến cho thiên hạ đều sợ Tần. Như thế là điều mong muốn của Tần dã đạt được rồi và công của ngài cũng đã đạt tột độ rồi đó. Nay cũng là lúc nước Tần chia công. Nếu ngài như thế mà không rút lui thì sẽ như Thương Quân, Bạch Công, Ngô Khởi, đại phu Chủng vậy. Tôi nghe nói: “Nhìn xuống nước thì thấy mặt mình; nhìn vào người thì biết dữ lành. Kinh thư có câu: “Sau khi thành công, không thể ở lâu , Ngài chịu tai họa của bốn người kia làm gì? Tại sao ngài không nhân lúc này trả ấn thừa tướng, trao ấn nhường cho người hiền, rút lui về ở ẩn nơi rừng núi xa, xa lánh thế sự . Như thế thì thế nào cũng được cái liêm của Bá Di, suốt đời làm Ứng Hầu, đời đời xưng công, lại được cái tiếng nhân nhượng của Hứa Do, Diên Lăng Quý Tử, được cái thọ của Kiều, Tùng (74), thế chẳng hơn cuối cùng mắc tai hoạ sao? Nếu ngài cứ tiếc mà không nỡ rời, nghi ngờ mà không dám quyết định, thì thế nào cũng mắc cái họa của bốn người kia. Kinh dịch có câu: “Càng Long hữu hối” (75). Đó là nói chỉ biết tiến lên mà không biết lùi, chỉ biết duỗi mà không biết co, chỉ biết đi mà không biết về vậy. Xin ngài nghĩ kỹ cho.

Ứng Hầu nói:

Hay lắm! Ta nghe nói: “Chỉ muốn mà không biết dùng thì sẽ mất điều mình muốn; có mà không biết cho là đủ thì sẽ mất điều mình có”. May mắn được tiên sinh chỉ giáo, Thư này xin kính cẩn vâng lời.

Bèn mời vào ngồi, tôn làm thượng khách. Mấy ngày sau, Phạm Thư vào triều, nói với Tần Chiêu Vương:

Vừa có một người khách ở Sơn Đông đến tên là Thái Trạch. Ông ta là người biện sĩ, biết việc Tam Vương, hiểu sự nghiệp Ngũ Bá, biết sự biến đổi của thế tục, có thể giao chính sự nước Tần cho ông ta. Thần thấy người rất nhiều, nhưng không ai bằng, thần cũng không bằng. Thần xin tâu để nhà vua biết.

Tần Chiêu Vương mời vào tiếp kiến, cùng nói chuyện rất lấy làm thích, cho làm khách khanh. Ứng Hầu nhân đấy cáo bệnh rút lui, trả lại ấn thừa tướng. Chiêu Vương cưỡng ép Ứng Hầu dậy, Ứng Hầu bèn cáo bệnh nặng. Phạm Thư thôi làm thừa tướng. Chiêu Vương thích kế hoạch của Thái Trạch bèn phong Thái Trạch làm thừa tướng nước Tần, sang Đông thôn tính nhà Chu.

Thái Trạch làm thừa tướng mấy tháng, có người gièm, Thái Trạch sợ bị giết, bèn cáo bệnh trả ấn thừa tướng, hiệu là Cương Thành Quân, Thái Trạch ở Tần hơn mười năm, thờ Chiêu Vương, Huệ Văn Vương, Trang Tương Vương, cuối cùng thờ Thủy Hoàng Đế, đi sứ cho nước Tần sang nước Yên, được ba năm thì nước Yên sai thái tử Đan vào làm con tin ở nước Tần (76).

3. Thái sử công nói:

Hàn Tử nói: “Ống áo dài khéo múa, lắm tiền khéo buôn”. Lời nói ấy đúng làm sao! Phạm Thư, Thái Trạch là nhưng người biện sĩ giỏi nhất một thời, thế mà đi du thuyết chư hầu, đến lúc đầu bạc cũng không có cơ hội thành đạt. Đó không phải là kế hoạch của họ dở mà chỉ vì những nước họ đến du thuyết đều yếu (77). Đến khi hai người làm khách ở nước Tần, nối gót nhau làm khanh tướng, công để lại trong thiên hạ. Đó là vì cái thế mạnh và yếu khác nhau vậy. Nhưng kẻ sĩ cũng có lúc ngẫu nhiên mà gặp cơ hội. Những người hiền hơn hai người kia, nhưng thể trổ hết tài nhiều không kể xiết. Thế nhưng hai người, nếu không bị khốn cùng thì làm sao mà khích lệ họ được (78)?

————————-

(1). Câu này chuẩn bị cho những việc sau này Phạm Thư sẽ làm đôi với Nhương Hầu.

(2). Câu này cũng là một cái thuật “thăm dò”, mục đích kích thích sự chú ý của nhà vua.

(3). Năm 246 trước Công nguyên, vua Tần tự lập làm Tây Đế, sai sứ khuyên Tề Dẫn Vương tự lập làm Đông Đế. Vua Tề tự xưng làm Đông Đế được hai tháng rồi thôi. Sau đó vua Tần lại xưng vương như cũ.

(4). Đoạn này nêu một cách điển hình những mánh khoé của một người du thuyết để làm cho nhà vua nghe theo ý của mình.

(5). Ý nói điều tôi nói ra là điều chắc chắn đúng, tôi đâu dám đem cái trò du thuyết vu vơ ra để chịu hình phạt.

(6). Phạm Thư ám chỉ mình, tự cho mình như viên ngọc quý nhưng chưa được người thợ giỏi biết đến.

(7). Ám chỉ Nhương Hầu vơ vét của cải trong nước để làm giàu cho mình.

(8). Ám chỉ Nhương Hầu không nghĩ đến quyền lợi của nước nên không dung nạp những người du thuyết ở các nước chư hầu như Phạm Thư.

(9). Đặc điểm lối nói của hạng du thuyết là không đi ngay vào đề mà bắt đầu bằng những câu nói bóng gió.

(10). Thiên này rất thành công trong việc miêu tả những mánh khoé của bọn du thuyết. Sau khi làm vua chú ý đến mình, Phạm Thư dùng lối nói khích để bắt nhà vua thấy xấu hổ.

Vua của bộ lạc Nghĩa Cừ và Tuyên thái hậu gian díu với nhau sinh hai con. Tuyên thái hậu lừa giết vua Nghĩa Cừ ở Cam Tuyền rồi sau đem binh tiêu diệt Nghĩa Cừ. Câu nói này chứng tỏ nhà vua cũng cho lời nói của Phạm Thư là đúng.

Làm cho nhà vua 1o lắng chắc việc sắp nói sẽ quan trọng . Cử chỉ này của Phạm Thư cũng xứng đáng với lời khen của Tư Mã Thiên: “Biện sĩ giỏi nhất một thời .

Lữ Thượng còn gọi là Lã Vọng. Trong những hòn non bộ ở ta thường có ông Lã Vọng ngồi câu cá.

Then chốt của đoạn này là mấy chữ “quen biết thì sơ nhưng lời nói thì sâu cho nên đành phải dè dặt. ở đây đồng thời ngụ ý tự cho mình là Lã Vọng, lại hy vọng nhà vua sẽ là Văn Vương, tức là có ý.

. Ý nói mình không gắn bó với nhà vua.

. Nói bóng gió việc Nhương Hầu và Tuyên thái hậu.

. Đoạn này dài, hoàn toàn không liên quan đến điều trình bày nhưng rất quan trọng để chuẩn bị trước cho nhà vua nghe theo ý của mình. Chú ý Phạm Thư nhắc đến chỗ “chết” mười một lần, chỗ “không sợ” bốn lần, cốt làm cho nhà vua nóng ruột, bị thuyết phục hoàn toàn trước khi nghe. (Xem bài “Thuyết nan” trong Thân Hàn).

. Lại đưa ra một trường hợp cực đoan, trái với trường hợp Văn Vương để kích thích nhà vua. Vua Trụ hôn ám, Tỷ Can bị giết.

. Đe doạ và khích vua Tần tức giận.

. Mánh khóe này làm cho vua Tần từ địa vị một ông vua chuyển sang địa vị một người cầu khẩn. Trái lại, Phạm Thư đã từ địa vị một người cầu khẩn sang địa vị một ân nhân. Việc chuẩn bị tâm lý mà thuật du thuyết đòi hỏi đã đạt được bước đầu.

(21). Hai cái là địa lợi, nhân hoà.

(22). Tên một con chó khoẻ.

(23). Để chứng minh mưu kế đem quân Tần vượt qua Hàn, Ngụy để đánh Tề là sai, Phạm Thư dẫn trường hợp của Tề. Năm 285 trước Công nguyên, Tề đem quân đi xa đánh Sở. Vua sai Nhạc Nghị thống lĩnh quân các nước Yên, Triệu, Ngụy đánh Tề thua to (xemNhạc Nghị liệt truyện). Phạm Thư kết luận bằng một câu tục ngữ.

(24). Văn Tử tức Mạnh Thường Quân.

(25). Đưa ra một dẫn chứng khác để bênh vực học thuyết “giao hiếu với các nước ở xa mà đánh những nước ở gần. Nước Triệu một mình đã quất hết nước Trung Sơn to lớn mà chẳng ai làm được gì, vì Triệu ở gần Trung Sơn.

(26). Then chất của mưu kế Phạm Thư là lấy Hàn, Ngụy ở gần mà giao hiếu với Tề ở xa. Nhưng muốn lấy Hàn, Ngụy thì trước hết phải cô lập nó, cho nên đầu tiên phải giao hiếu với nó để nó thoát ly ảnh hưởng của các nước lớn Tề, Sở, Triệu. Sau đó phải làm sao cho Sở, Triệu phải phục tùng theo mình không can thiệp vào việc đánh Hàn, Ngụy. Muốn vậy thì xui hai nước đánh nhau, giúp nước yếu đánh nước mạnh, làm cả hai nước đều kiệt quệ mà phải thần phục tùng mình. Một khi Hàn, Nly, Triệu, Sở đã thuần phục rồi thì nước Tề lúc bấy giờ tự mình, hứng ở vào thế cô, nên thế nào cũng phỉ giao hiếu với Tần khi ấy giao hiếu với các nước xa xôi rồi, việc lấy Hàn, Ngụy dễ như trở bàn tay.

(27). Chức quan ở trên cấp đại phu.

(28). Thượng Đảng ở phía Bắc đất Hàn. Chặn đường Thái Hàng thì quân Hàn ở phía Bắc không xuống miền Nam mà tiếp viện được.

(29). Sau mấy năm mới đưa chủ ý ra bàn. Lúc bấy giờ Phạm Thư đang chuẩn bị đầy dủ cho nhà vua dể nhà vua nghe theo mình.

(30). Đưa ra một nhận xét ký quặc để nhân đó giải thích định nghĩa của khái niệm vua.

(31). Ý nói nếu chú trọng đến cái ngọn thì hại cái.gốc.

(32). Chủ Phụ tức là Vũ Linh Vương nước Triệu. Phạm Thư đưa ra hai thí dụ để chứng minh cái nguy của nhà vua, và tìm những thí dụ nổi bật làm nhà vua phải sợ. (33). Câu này cắt nghĩa lời nói của Phạm Thư: “Nước Tần nguy nhất trứng để đầu đẳng”, và thái độ dê dặt của Thư khi gặp Chiêu Vương.

(34). Năm 266 trước Công Nguyên. Đoạn 2: Phạm Thư du thuyết vua Tần làm đến chức thừa tướng.

(35). Qua lời nói này ta thấy rõ uy lực của Tần đôi với chư hầu lúc bấy giờ như thế nào.

(36). Bao Tư từ chối cho rằng sở dĩ mình cửu nước Sở là vì mồ mả của mình ở Kinh thuộc đất Sở, như vậy là vì mình mà làm chứ không phải vì nước Sở (Xem Ngũ Tử Tư liệt truyện).

(3l). ý nói một ngày kia nhà vua chết.

(38). ý nói Phạm Thư chết.

(39). ý nói tôi bị tội chết.

(40). Dùng lối nói phản ngữ, ý nói yêu tôi.

(41). Theo lệ của Tần, thái thú sau một năm phải báo cáo về tình hình cai trị ở quận một lẩn.

(42). Xem Bình Nguyên Quân, Ngu Khanh liệt truyện.

(43). Đoạn 3: Phạm Thư báo án, báo oán.

(44). Tức Triệu Quát. Xem Liêm Pha, Lạn Tương Như liệt truyện.

(45). Điều này cắt nghĩa câu “ba năm không báo lên nhà vua về việc cai trị” ngỡ như thừa.

(46). Phạm Thư theo luật Tần đáng bị giết ba họ hai lần.

(47). Đoạn 4: Những người Phạm Thư tiến cử làm phản, Thư không có mưu kế gì nữa.

(48). Toàn là những nét tầm thường, chẳng có cái gì đáng chú ý, thế mà muốn tự ví mình là Lý Đoái, cho nên Đường Cử gọi đùa là thánh nhân.

(49). Đoạn 1: Thái Trạch đi du thuyết các nước không thành công bên sang Tẩn.

(50). Cách thuyết phục của Thái Trạch chẳng kém cách thuyết phục của Phạm Thư.

(51). Đoạn này rất hay, nó là sự gặp gở của hai tay thuyết khách tìm mọi cách để thuyết phục nhau.

(52). Đáng lý phải lạy.

(53). Toàn là giọng xược.

(54). Thuyết khách trổ tài với nhau cũng dùng toàn lôl văn châm ngôn, so sánh, nhưng Phạm Thư là người quen cái lối nói ấy nên biết đối phó ngay.

(55). Xem Thường Quân liệt truyện.

(56). Xem Tôn Vũ Tử, Ngô Khởi liệttruyện.

(57). Tỷ Can can vua Trụ mà bị giết, nhà Ân sau đó cũng mất.

(58). Ngũ Tử Tư biết nước Việt thế nào cũng tiêu diệt nước Ngô khuyên vua Ngô đánh Việt, nhưng vua Ngô không nghe. Tử Tư bị giết, sau đó nước Ngô cũng bị tiêu diệt. (59). Tấn Hiếu Công yêu Ly Cơ. Ly Cơ vu thái sử Thân Sinh mưu kế giết cha. Thân Sinh sợ mình trình bày oan uổng thì sẽ làm cho cha đau lòng nên tự sát. Sau đó các công tử tranh nhau ngôi, nước Tấn loạn.

(60). Vi Tử can Trụ, Trụ không nghe. Vi Tử bỏ sang Chu.

(61). Trở lên Phạm Thư chỉ nói “đúng” vì cách lập luận cũng tầm thường, lúc này thấy Thái Trạch quả có tài thực. Phạm Thư mới khen giỏi.

(62). Chỗ hở của Phạm Thư là không biết mình sẽ bị giết lúc nào, Phạm Thư muốn làm theo Thương Ương, Ngô Khởi cho nên sẵn sàng chờ chết mà không biết làm thế nào.

(68). Chu Công và Hoành Yêu đều lập công to, lại thành đạt toàn vẹn cho nên gọi là thánh trung.

(64). Câu của Khổng Tử trong Luận Ngữ.

(65). Câu trong Kinh dịch, ý nói đã được địa vị tôn quý thì phải đề phòng.

(66). Câu của Khổng Tử trong LuậnNgữ.

(67). Tô Tần đi du thuyết, làm tể tướng sáu nước, sau đó bị người đâm chết ở Tề. Trí Bá đem quân của Hàn, Ngụy đánh Triệu. Hàn, Ngụy sợ Trí Bá nên mưu với Triệu giết Trí Bá.

(68). Tên những dũng sĩ thời cổ.

(69). Đường nhỏ ở ruộng, đường từ Bắc đến Nam gọi là thiên, từ Đông đến Tây gọi là mạch.

(70). Các thuyết khách muốn cho lời lẽ hùng hồn nên hay dùng lối ngoa dụ.

(71). Trở lên kể bốn trường hợp sát thân thánh nhân.

( 72). Xem Việt Vương Câu Tiễn thế gia.

(73). Sau khi Tần diệt Hàn thì đặt quận Tam Xuyên. Nghi Dương là một ấp của Hàn, Tần đã lấy từ trước.

74). Hứa Do là một người hiền đời trước, vua Nghiêu muốn nhường ngôi cho ông, nhưng ông không bằng lòng. Diên Lăng Quý Tử, con thứ tư vua Ngô, nhà vua muốn nhường ngôi, nhưng ông không nhận. Vương Kiều, con Chu Linh Vương và Xích Tùng Tử người đời Thần Nông là những người sống lâu.

(75). Kinh Dịch quẻ “càn hào” “thượng cửu”- con rồng bay trên cao muốn hạ cũng không kịp, thế nào cũng hối hận. Ý nói chỉ biết tiến không biết thoái thì sẽ hối hận. (76). Đoạn 2: Thái Trạch trổ tài, thuyết phục được Phạm Thư và làm thừa tướng nước Tần.

(77). Ý nói giúp nước yếu thì khó thành công, giúp kẻ mạnh thì dễ có kết quả.

(78). Đoạn 3- Tác giả tiếc mình không gặp thời nhưng lại lấy cảnh khốn cùng của họ để tự khích lệ mình.

o0o


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.