Thị Trấn Tortilla Flat

CHƯƠNG 5



Làm thế nào mà Thánh Francis lật ngược tình thế và phạt nhẹ Pilon, Pablo và Jesus Maria.
 
★★★
 
Chiều buông xuống không ai hay biết như tuổi tác đến với một người hạnh phúc. Một chút vàng len vào trong nắng. Vịnh trở nên xanh thẳm hơn và lăn tăn sóng chạy vào bờ. Những ngư dân cô độc tin rằng cá cắn câu nhiều hơn khi triều lên đã rời khỏi những tảng đá của mình, thế chỗ họ là những người tin rằng cá cắn câu nhiều lúc triều xuống.
Quãng ba giờ chiều, gió đổi hướng, nhè nhẹ thổi vào từ vịnh, mang theo bao mùi tảo dễ chịu. Những người vá lưới ở các lô đất trống của Monterey đặt con suốt xuống và quấn thuốc lá. Qua những con đường trong thành phố, các quý bà phốp pháp mắt ánh vẻ mệt mỏi và từng trải mà người ta thường thấy trong mắt lợn được những chiếc ô-tô nặng nề vần tới các buổi tiệc trà và rượu gin ở Khách sạn Del Monte. Trên đường Alvarado, bác thợ may Hugo Machado treo tấm bảng “Năm Phút Nữa Quay Lại” lên cửa tiệm rồi về nhà cả ngày. Những tán thông đu đưa chầm chậm, đê mê. Lũ gà mái trong cả trăm trại gà đều đều ca cẩm về thân phận tệ hại của mình.
Pilon và Pablo ngồi dưới một bụi hồng dại trong sân quán Torrelli, lặng lẽ uống rượu mặc cho buổi chiều loang dần trên người như râu tóc mọc.
“Không mang hai ga-lông rượu đến cho Danny cũng tốt,” Pilon nói. “Hắn chả biết chừng mực gì khi uống rượu cả.”
Pablo tán thành. “Danny trông có vẻ khỏe mạnh,” chàng nói, “nhưng chính những người trông khoẻ mạnh là người mà ta nghe cáo phó mỗi ngày. Như Rudolfo Kelling đấy. Cả Angelina Vasquez nữa.”
Tính cách thực tế của Pilon nhẹ nhàng trỗi dậy. “Rudolfo ngã xuống cái mỏ đá phía trên Pacific Grove,” chàng nhận xét với vẻ hơi bất bình. “Angelina thì ăn phải một hộp cá thối. Nhưng,” chàng nói tiếp đầy thiện ý, “tôi biết ý huynh muốn nói gì. Có khối người chết vì lạm dụng rượu.”
 
• • •
 
Cả Monterey bắt tay vào sửa soạn các công việc đặc thù cho buổi đêm. Bà Guttierez thái những miếng ớt nhỏ cho vào món sốt enchilada[32]. Rupert Hogan, người bán rượu, thêm nước vào ly gin rồi cất đi để dùng sau nửa đêm. Ông rắc thêm tí tiêu vào món whisky uống lúc chập tối.
Ở sảnh khiêu vũ El Paseo, Bullet Rosendale mở một thùng bánh quy hình nơ và sắp xếp chúng như sợi dây màu nâu thô kệch trên những chiếc đĩa to để mời khách. Cửa hàng dược phẩm Place cuộn mái che lại. Một nhóm người đã ngồi trước bưu điện cả buổi chiều để chào đón bạn bè giờ chuyển sang nhà ga để xem tàu Del Monte Express từ San Francisco tới. Lũ mòng biển từ các bãi gần nhà máy cá hộp bốc lên rợp trời, bay về phía những mỏm đá ngoài biển. Bọn bồ nông bướng bỉnh mổ vào mặt nước ở bất cứ chỗ nào chúng đậu xuống nghỉ đêm. Trên các thuyền đánh cá, những người Ý cuốn lưới lên bằng những ống cuốn to. Cô Alma Alvarez bé nhỏ, mới chín mươi tuổi, mang những bó phong lữ hồng hằng ngày đến tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bên tường ngoài của nhà thờ San Carlos. Trong ngôi làng mộ đạo Tin Lành cạnh Pacific Grove, hội Phụ nữ ái hữu Ki-tô giáo gặp nhau để uống trà và thảo luận; họ lắng nghe một quý bà nhỏ con mô tả tình hình tệ nạn và đĩ điếm của Monterey một cách nhiệt tình và đầy màu sắc. Bà này cho rằng nên có một ủy ban đi thăm viếng những khu này để xem điều kiện sống thật sự kinh khủng như thế nào. Họ đã bàn luận về tình hình này quá thường xuyên, giờ là lúc cần những dữ kiện mới.
 
• • •
 
Mặt trời xế về hướng Tây, tỏa một màu cam rực rỡ. Dưới bụi hồng dại trong sân quán Torrelli, Pablo và Pilon đã dứt điểm ga-lông rượu thứ nhất. Torrelli bước ra khỏi nhà đi ngang qua sân mà không nhìn các vị cựu khách hàng của mình. Họ đợi tới khi lão đi khuất về phía Monterey; khi đó Pablo và Pilon đi vào trong nhà, gạ gẫm được thím Torrelli mời mình bữa tối. Họ vỗ mông thím, gọi thím là “Vịt Phết Bơ” và cợt nhả với thím, rồi cuối cùng bỏ thím lại, sướng vênh vang và hơi xộc xệch.
Giờ ở Monterey đã là buổi tối, đèn đã được thắp sáng. Những ô cửa sổ lấp lánh dìu dịu. Trên Rạp hát Monterey dòng chữ “Lũ trẻ địa ngục – Lũ trẻ địa ngục” cứ nhấp nha nhấp nháy. Một nhóm nhỏ những người tin rằng cá cắn câu nhiều vào buổi tối chiếm chỗ trên những tảng đá lạnh lẽo ngoài biển. Một làn sương mỏng mảnh trôi giạt qua những con đường và lơ lửng quanh các ống khói, mùi gỗ thông cháy dễ chịu lấp đầy không gian.
Pablo và Pilon trở lại bụi hồng dại ngồi bệt xuống đất, nhưng họ không còn vui vẻ như ban nãy. “Ở đây lạnh quá,” Pilon nói, chàng nhấp một ngụm rượu cho ấm.
“Ta hãy về nhà, ở đó ấm áp hơn,” Pablo nói.
“Nhưng trong bếp chả có củi.”
“Ừ,” Pablo nói, “hay là huynh mang chỗ rượu kia đi, tôi sẽ gặp lại huynh ở góc đường.” Và chàng đã làm đúng như thế, khoảng nửa tiếng đồng hồ sau.
Pilon kiên nhẫn chờ đợi, vì chàng biết rằng có những việc ngay cả bạn bè cũng không thể giúp. Trong khi chờ, Pilon cẩn thận để mắt canh chừng hướng con đường mà Torrelli đã đi, vì Torrelli là một người cường tráng mà với lão mọi giải thích cho dù có được cân nhắc cẩn thận hay thêu dệt đẹp đẽ thế nào đều vô hiệu. Hơn nữa, Pilon biết,
Torrelli có cái lý tưởng phóng đại và hoàn toàn viển vông của người Ý về quan hệ hôn nhân. Nhưng Pilon nhọc công canh chừng. Lão Torrelli không hề đột ngột trở về nhà. Một chốc sau Pablo quay lại, Pilon ngưỡng mộ và thỏa mãn nhận thấy Pablo cắp một bó củi thông từ trong đống gỗ nhà Torrelli.
Pablo không bình luận gì về chuyến phiêu lưu gần nhất của mình cho đến khi cả hai đã về tới nhà. Lúc đó chàng mới lặp lại lời của Danny, “Rất sinh động, cái con Vịt Phết Bơ ấy.”
Trong bóng tối Pilon gật đầu đồng tình và từ tốn triết lý. “Hiếm khi nào người ta tìm được mọi thứ trong cùng một chợ – rượu vang, đồ ăn, ái tình và củi. Chúng ta phải nhớ ơn Torrelli, Pablo, bạn hiền ạ. Ấy là người mà ta cần kết bạn. Khi nào ta phải kiếm cho lão ấy một món quà nho nhỏ.”
Pilon nhóm một đống lửa hừng hực trong cái bếp bằng gang. Hai người bạn kéo ghế lại gần và hơ hũ trái cây của mình bên ngọn lửa để sưởi cho rượu ấm lên một chút. Đêm nay ánh sáng trong phòng có phần thiêng liêng, vì Pablo đã mua một cây nến để thắp cho thánh Francis. Nhưng một chuyện gì đó đã làm chàng xao lãng trước khi cái kế hoạch thiêng liêng ấy được thực hiện trọn vẹn. Giờ thì ngọn nến nhỏ cháy thật đẹp trong vỏ sò, hắt lên tường những cái bóng nhảy múa của Pablo và Pilon.
“Chẳng biết cái tay Jesus Maria ấy đã đi đâu,” Pilon phán.
“Hắn hứa hắn sẽ quay lại từ lâu rồi,” Pablo nói. “Không biết hắn có đáng tin không nữa.”
“Biết đâu có chút việc nào đó kìm chân hắn, Pablo. Với cái bộ râu ngô và tấm lòng tử tế ấy, hắn ta gần như lúc nào cũng gặp rắc rối với đàn bà.”
“Não của hắn là não cào cào,” Pablo nói. “Hắn hát, hắn chơi, rồi hắn nhảy. Trong hắn chả có chút nghiêm túc nào.”
Cả hai không phải chờ lâu. Họ vừa bắt đầu bình rượu thứ hai thì Jesus Maria loạng choạng đi vào. Chàng ta bám hai bên cửa cho khỏi ngã. Áo chàng rách tươm còn mặt thì đầy máu. Một bên mắt tím bầm và u tối dưới ánh nến chập chờn.
Pablo và Pilon lao về phía chàng. “Ôi bạn hiền của ta! Anh ấy bị thương. Anh ấy ngã từ vách đá xuống. Anh ấy bị tàu cán qua người.” Không có tí ti giọng châm biếm nào trong mấy lời ấy, nhưng Jesus Maria nhận ra đó là kiểu châm biếm hiểm độc nhất. Chàng trừng mắt nhìn họ bằng con mắt hãy còn chút lý trí trong đó.
“Mẹ của hai ngươi là những con bò cái không vú,” chàng phán.
Họ bật ngửa kinh hãi vì lời rủa tục tằn. “Bạn của chúng ta mất trí rồi.”
“Xương trong đầu anh ấy đã vỡ.”
“Rót cho anh ấy chút rượu, Pablo.”
Jesus Maria ủ ê ngồi bên bếp lửa ôm hũ trái cây của mình, trong khi các bạn của chàng kiên nhẫn chờ đợi lời giải thích về tấn bi kịch. Nhưng Jesus Maria dường như hài lòng với việc để mặc cho các bạn mù tịt về chuyện không may. Mặc dù Pilon hắng giọng nhiều lần, và mặc dù Pablo nhìn Jesus Maria bằng con mắt thông cảm và thấu hiểu, Jesus Maria vẫn ngồi dằn dỗi và chằm chằm nhìn hết bếp lò, rồi đến rượu và ngọn nến thánh linh, cho đến khi rốt cuộc sự im lặng bất nhã của chàng khiến Pilon cũng bất nhã tương tự. Về sau, chàng không thể hiểu nổi tại sao mình có thể làm chuyện ấy.
“Lại mấy tên lính ấy à?” chàng hỏi.
“Ừ,” Jesus Maria làu bàu. “Lần này chúng nó tới sớm quá.”
“Chắc phải tới hai chục thằng thì huynh mới ra nông nổi này,” Pablo bình luận, để tinh thần của bạn được tốt hơn.
“Mọi người đều biết huynh đánh nhau cừ thế nào mà.” Và Jesus Maria đúng là trông có vui hơn một tí.
“Có bốn thằng,” chàng nói. “Arabella Gross cũng giúp bọn nó nữa. Nàng lấy hòn đá đập vào đầu tôi.”
Pilon cảm thấy một cơn sóng phẫn nộ dâng cao trong lòng. “Tôi sẽ không nhắc lại cho huynh nghe,” chàng nghiêm nghị nói, “rằng các bạn của huynh đã cảnh báo huynh về cô ả rác rưởi cá hộp ấy như thế nào.” Chàng băn khoăn liệu chàng đã bao giờ cảnh báo Jesus Maria chưa, và nhớ ra dường như chàng có cảnh báo.
“Mấy đứa con gái da trắng rẻ tiền này lang sói lắm, bạn hiền ạ.” Pablo xen vào. “Nhưng huynh có đưa cho ả cái vật bé bé bao quanh không?”
Jesus Maria thò tay vào túi lấy ra cái xu-chiêng màu hồng bằng tơ nhăn nhúm. “Chưa kịp,” chàng nói. “Tôi chỉ mới đang gần tới lúc ấy; vả lại, bọn tôi còn chưa đi vào rừng.” Pilon khụt khịt mũi và lắc đầu với một chút ngán ngẩm.
“Huynh đã uống whisky.” Jesus Maria gật đầu.
“Thế whisky ấy từ đâu ra?”
“Của mấy tên lính ấy,” Jesus Maria nói. “Chúng giấu dưới một ống cống. Arabella biết chỗ, và nàng bảo với tôi. Nhưng mấy tên lính ấy bắt gặp bọn tôi cùng cái chai.”
Câu chuyện đang dần dần rõ nét. Pilon thích kiểu thế này. Chuyện gì mà tất tần tật xùy ra nhanh quá thì chẳng còn hay. Chuyện hay nằm ở những chỗ ỡm ờ mà người nghe phải tự điền vào chỗ trống bằng kinh nghiệm của mình. Chàng cầm cái xu-chiêng hồng trong lòng Jesus Maria lên, vuốt ve nó bằng những đầu ngón tay và, mắt chàng trở nên mơ màng. Nhưng rồi ngay lập tức, cặp mắt ấy sáng rỡ lên.
“Tôi biết rồi,” chàng la lên. “Ta sẽ đưa cái này cho Danny để làm quà tặng bà Morales.”
Cả bọn, trừ Jesus Maria, đều tán thành ý kiến ấy và Jesus Maria cảm thấy mình trở thành thiểu số một cách vô vọng. Pablo, với sự hiểu biết tinh tế về thất bại này, rót đầy rượu vào hũ trái cây của Jesus Maria.
Một lát sau, ba người bắt đầu cười. Pilon kể một chuyện rất buồn cười về điều đã xảy ra với cha chàng. Sự tươi tỉnh sinh động quay lại với cả hội. Họ hát hò. Jesus Maria biểu diễn một màn nhảy vặn vẹo để chứng tỏ thương tích của chàng không quá tệ. Trong bình, rượu dần dần cạn, nhưng trước khi rượu cạn sạch ba người đã buồn ngủ. Pilon và Pablo loạng choạng về giường, còn Jesus Maria nằm thoải mái trên sàn, cạnh bếp lửa.
Lửa lụi dần. Căn nhà tràn ngập những âm thanh sâu lắng của giấc ngủ. Căn phòng bên ngoài chỉ có mỗi một thứ chuyển động. Ngọn lửa hình mũi giáo của ngọn nến thánh linh bập bùng lên xuống với tốc độ nhanh đến khó tin.
Sau này, ngọn nến nhỏ ấy khiến Pilon, Pablo và Jesus Maria phải nghĩ ngợi về chuyện đạo đức. Một khúc sáp nhỏ đơn giản với một sợi dây xuyên qua: Bạn hẳn nói một vật như thế chỉ tuân theo một số nguyên tắc vật lý nhất định và không gì khác. Bạn hẳn nghĩ rằng cách vận hành của nó được đảm bảo bởi các nguyên tắc về nhiệt và sự cháy. Bạn châm bấc; sáp chảy dần; ngọn nến cháy vài giờ đồng hồ, rồi tắt lụi đi, và thế là hết. Chuyện đến đó là chấm dứt. Chẳng mấy chốc ngọn nến ấy sẽ bị quên lãng, và rồi, dĩ nhiên, nó chưa hề tồn tại.
Bạn quên mất ngọn nến này đã được ban phước hay sao? Rằng trong một khoảnh khắc của lương tri hay có lẽ chỉ vì sự đề cao tôn giáo thuần túy, Pablo đã định dâng nó cho Thánh Francis. Đây chính là nguyên tắc đưa khúc sáp ấy ra khỏi phạm trù vật lý.
Ngọn nến hướng mũi ánh sáng của nó lên trời, như một nghệ sĩ tự đốt cháy mình để trở nên thần thánh. Ngọn nến mỗi lúc một vơi đi. Một cơn gió nổi lên từ bên ngoài, luồn qua các kẽ hở trên vách. Sáp chảy xuống hai bên. Một tấm lịch bằng lụa, có hình khuôn mặt một cô gái đáng yêu ngó ra ngoài từ nhụy của một bông hồng đỏ thắm, bị đùa cách tường hơi xa. Nó chạm vào ngọn lửa. Lửa liếm vào tấm lịch tường rồi lan về phía trần nhà. Một mảng giấy dán tường bong ra, bắt lửa rồi rơi vào một đống báo.
Trên trời, chư thánh cứ nhìn với những bộ mặt không thay đổi và không tha thứ. Ngọn nến đã được ban phước. Nó thuộc về Thánh Francis. Đêm nay Thánh Francis sẽ có cả một ngọn nến lớn ngay nơi đó.
Nếu có thể đánh giá được độ sâu của giấc ngủ, thì có thể công bằng mà nói rằng Pablo, kẻ phải chịu trách nhiệm về đám cháy, ngủ còn say hơn cả hai bạn của chàng. Nhưng vì không có đồng hồ đo độ say ngủ nào, nên chỉ có thể nói rằng chàng ngủ rất say.
Ngọn lửa bốc lên tường rồi gặp những lỗ nhỏ trên trần, luồn qua đó mà xuyên vào màn đêm. Căn nhà tràn ngập tiếng lửa gầm gào. Jesus Maria khó nhọc trở mình và bắt đầu cởi áo khoác trong khi vẫn ngủ. Bỗng một tàn lửa rơi trúng mặt chàng. Chàng chồm dậy với một tiếng hét, và bàng hoàng đứng nhìn đám cháy vây bủa quanh mình.
“Pilon,” chàng rú lên. “Pablo!” Chàng chạy sang phòng bên kia, kéo các bạn mình ra khỏi giường và đẩy họ ra khỏi nhà. Pilon vẫn còn kịp giơ mấy ngón tay tóm cái xu-chiêng hồng.
Bọn họ đứng ngoài căn nhà đang cháy và trông vào cánh cửa mở có rèm bốc lửa phừng phừng. Họ thấy cái bình để trên bàn hãy còn đến nửa tấc rượu trong đó.
Pilon linh cảm Jesus Maria có thể anh dũng liều mạng. Chàng gào lên, “Đừng làm vậy. Nó phải bị cháy, đó là hình phạt đối với bọn ta vì đã bỏ rơi nó.”
Tiếng còi hú dội về phía bọn họ và tiếng gầm gừ của xe tải leo lên đồi bằng số hai từ sở cứu hỏa ở Monterey. Những chiếc xe cứu hỏa màu đỏ to đùng đến gần, đèn pha loang loáng chiếu vào những tán cây thông.
Pilon vội vã ngoảnh sang Jesus Maria. “Chạy đi báo cho Danny là nhà anh ấy đang cháy. Chạy mau đi, Jesus Maria.”
“Sao huynh không chạy đi?”
“Nghe này,” Pilon nói. “Danny không biết huynh là người thuê nhà của anh ấy. Anh ấy có thể hơi giận Pablo với tôi.”
Jesus Maria hiểu ra cái lô-gich này bèn phóng tới nhà Danny. Căn nhà tối om. “Danny,” Jesus Maria gọi. “Danny, nhà huynh đang cháy.” Không có tiếng trả lời. “Danny!” chàng lại gọi lần nữa.
Từ nhà bà Morales bên cạnh một cánh cửa sổ bật lên. Giọng Danny có vẻ bực bội. “Cậu muốn cái quái gì hả?”
“Căn nhà kia của huynh đang cháy, cái nhà Pablo với Pilon đang ở đấy.”
Mất một lúc Danny không đáp. Đoạn chàng hỏi, “Có sở cứu hỏa ở đó không?”
“Có,” Jesus Maria kêu.
Đến lúc này thì cả bầu trời được thắp sáng lên. Có thể nghe tiếng gỗ cháy lách cách. “Hừ,” Danny nói, “nếu sở cứu hỏa không thể làm được trò trống gì thì Pilon còn mong tôi làm được cái gì?”
Jesus Maria nghe tiếng cửa sổ đóng sầm lại, chàng quay đầu chạy về phía đám cháy. Chàng biết là gọi Danny không đúng lúc, nhưng ai mà biết được cơ chứ? Nếu Danny mù tịt về vụ hỏa hoạn, chàng có thể nổi giận. Dù gì thì Jesus Maria cũng vui vẻ vì đã báo cho Danny. Giờ thì tội vạ đâu là do bà Morales chịu.
Đó là một căn nhà nhỏ, gió lùa nhiều, và các bức vách thì tuyệt đối khô ráo. Hẳn là từ khi khu phố Tàu cũ bị cháy chưa có đám cháy nào khác nhanh và hoàn hảo như thế. Các nhân viên cứu hỏa ngó qua những bức vách đang bốc cháy, đoạn bắt đầu tưới lên các bụi, cây và nhà hàng xóm. Trong vòng chưa tới một tiếng đồng hồ căn nhà hoàn toàn biến mất. Chỉ tới khi đó thì các vòi nước mới được xịt vào đống tro để dập tắt than và tàn lửa.
Pilon, Pablo và Jesus Maria đứng vai kề vai chứng kiến toàn bộ sự việc. Phân nửa dân số Monterey và toàn bộ dân số Tortilla Flat, trừ Danny và bà Morales, vui vẻ loanh quanh đứng xem trận cháy. Cuối cùng, khi mọi sự đã xong, chỉ còn một đám hơi nước bốc lên từ đống tro đen thui, Pilon lặng lẽ quay đi.
“Huynh đi đâu?” Pablo gọi.
“ Tôi đi,” Pilon nói, “vào rừng để ngủ tiếp. Tôi khuyên hai người cũng nên đi. Sẽ tốt hơn nếu Danny không thấy mặt chúng ta một thời gian.” Họ gật đầu lia lịa đoạn theo chàng đi vào rừng thông. “Đây là bài học cho chúng ta,” Pilon nói. “Qua sự vụ này chúng ta được bài học là không bao giờ để rượu trong nhà qua đêm.”
“Lần tới,” Pablo nói, vẻ tuyệt vọng, “huynh để rượu bên ngoài và thể nào cũng có người thó mất thôi.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.