Bước sang năm mới, tôi thành ra hơi nổi tiếng. Thật đáng mừng. Dù là mèo tôi cũng cảm thấy mình có thể hãnh diện, kiêu căng một chút.
Vào ngày mồng một Tết, ông chủ nhận được một tấm bưu thiếp. Đó là tấm bưu thiếp chúc mừng năm mới của một ông bạn họa sĩ. Tấm bưu thiếp phía trên tô màu đỏ, phía dưới màu xanh thẫm, còn ở giữa, nơi một con vật đang ngồi chồm chỗm, được vẽ bằng phấn màu (pastel). Ông chủ ngồi trong phòng sách, ngắm ngang ngắm dọc bức vẽ, khen màu đẹp quá. Tưởng ông thán phục một lúc thì thôi, ai ngờ ông lại tiếp tục ngắm lên ngắm xuống. Ông vặn người, dang tay ra, quay về phía cửa sổ, đưa bức tranh lại sát mũi, ngắm nghía như ông già đang xem tướng số. Ông ta mà không mau mau chấm dứt cái trò này đi, thì nằm trên đùi ông ta, tôi sẽ lâm nguy mất. Khi tôi đang cảm thấy bị chao đảo dữ dội thì nghe tiếng ông ta nói khẽ “bức tranh này vẽ cái gì nhỉ?!” Hình như ông chủ rất thán phục màu của bức tranh, nhưng lại không hiểu nhân vật trong tranh là con gì, nên băn khoăn, khổ sở từ nãy đến giờ.
Tôi nghĩ tranh gì mà khó hiểu thế, rồi rất lịch sự, khẽ hé nửa con mắt đang ngủ, cố lấy lại bình tĩnh, liếc nhìn thì hóa ra đó chính là bức chân dung của mình, không lẫn đi đâu được. Không phải là Andrea del Sarto mà ông chủ vẫn mạo tưởng, mà đây đúng là họa sĩ, với hình khối và màu sắc rất chu đáo. Ai nhìn thì cũng bảo là mèo rồi. Nhưng nếu là người có con mắt một chút thì sẽ biết được, bức tranh này vẽ rất khá và nhân vật trong tranh chính là tôi chứ không phải ai khác, trong tất cả mọi con mèo. Một cái điều hiển nhiên, rõ ràng đến như vậy mà cũng không hiểu, đến nỗi phải khổ sở như thế từ nãy đến giờ, thì thiết nghĩ con người cũng tội nghiệp thật! Nếu được thì tôi muốn nói cho ông ta biết đó chính là tôi. Và dẫu ràng không thể biết được đó chính là tôi thì tôi cũng muốn nói cho ông ta biết đó là mèo. Nhưng khốn nỗi, con người vốn là một loài động vật không được trời phú cho cái may mắn là hiểu được tiếng nói của loài mèo chúng tôi, vậy nên đành phải chịu. Thật đáng tiếc.
Nhân tiện đây, tôi xin lưu ý các độc giả một vấn đề. Đó là, con người vốn dĩ hơi một tí là đánh giá chúng tôi là “mèo, mèo” với giọng điệu rất khinh thường. Đó là một thói quen rất xấu. Cái kiểu suy nghĩ cứ như thể, trâu bò sinh ra từ cặn bã của người, còn mèo thì sinh ra từ cứt của trâu bò như vậy thì cũng có thể làm nảy sinh cái loại người như ông giáo đây, chẳng hề biết đến sự ngu dốt của mình, cứ vênh vênh tự kiêu, tự đắc lắm đấy. Song đứng ngoài nhìn vào thì không thể chấp nhận được.
Dẫu là mèo hay là gì chăng nữa cũng không thể có chuyện thô thiển, giản tiện như vậy. Ở ngoài nhìn vào thì thấy có vẻ mèo nào cũng như mèo nào, không có đặc điểm riêng của từng nhà mà nó sống. Nhưng đi vào xã hội loài mèo mới biết rằng cũng phức tạp lắm, cũng mỗi mèo mỗi vẻ, giống y như xã hội loài người vậy thôi. Mỗi con mèo, từ ánh mắt đen cánh mũi, từ bộ lông đến bước chân đều khác nhau. Rồi bộ ria, vành tai, cái đuôi, cách sắp xếp, độ cong mềm, chẳng có ai giống ai cả. Còn về tài năng, phẩm cách, sở thích, sở trường nữa, phong nhã hay thô thiển… trăm ngàn thứ khác nhau, không thể nói hết được. Mặc dù có sự khác biệt rõ ràng như vậy mà con người thì con mắt chỉ biết nhìn lên – cái mà người ta gọi là hướng thượng hay là ngước mắt lên hay là gì gì ấy – nghĩa là chỉ nhìn lên trời, hóa cho nên mới không nhận biết được tính cách của tôi, thậm chí cả dung mạo của tôi nữa. Thật đáng thương hại.
Từ ngày xưa, người ta đã có câu “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, người giàu thì đến với người giàu, mèo thì đến với mèo. Đúng là chỉ có mèo mới hiểu được mèo thôi. Còn con người thì trong chuyện này, dù có giỏi giang đến đâu cũng hỏng. Mà nói thực ra, con người họ đâu có giỏi như họ tưởng, vậy nên mới càng khó.
Chẳng phải nói đâu xa, ngay ông chủ của tôi đây này, một người rất thiếu sự cảm thông, hiểu biết người khác. Ngay cái điều đơn giản là “ý nghĩa đầu tiên của tình yêu nằm ở chỗ cả hai bên phải hiểu cặn kẽ về nhau” thì ông ta cũng không biết, cho nên cũng đành hết nhẽ. Ông ta dính chặt vào phòng sách như một con hầu tồi tệ, chẳng bao giờ mở miệng nói gì với ai ngoài đời. Vậy mà lại lên mặt như chỉ có ta là người hiểu biết sâu rộng thì thật kỳ lạ. Một chứng cớ hiển nhiên là ông ta đang cầm bức chân dung của tôi trong tay mà không nhận ra, lại còn bảo “năm nay là năm thứ hai cuộc chinh phạt nước Nga nên có lẽ đây là hình một con gấu lớn chăng”, chứng tỏ ông ta chẳng hiểu biết gì cả. Nói năng thiếu hiểu biết như thế cũng đủ rõ.
Khi tôi vừa nằm trên đùi ông chủ vừa ngẫm nghĩ như vậy thì đúng lúc cô sen lại cầm một tấm bưu thiếp thứ hai nữa tới. Tấm bưu thiếp in hình bốn, năm con mèo nước ngoài, con thì cầm bút, con thì mở sách, đang học. Trong đó có một con rời khỏi chỗ, ra đầu bàn nhảy điệu “mèo đây, mèo đây”[1] theo kiểu Tây. Phía trên viết bằng mực Tàu “tôi là con mèo”. Còn bên phải thì viết cẩn thận hẳn cả một bài Haiku “Một ngày xuân của mèo, đọc sách hay nhảy múa…”
Đây là tấm bưu thiếp của một học trò cũ của ông chủ. Chỉ nhìn qua, ai cũng biết ngay ý nghĩa của nó, vậy mà cái ông chủ ngờ nghệt này hình như chưa nhận ra, hơi ngoẹo cổ và lẩm bẩm “à, thì ra năm nay là năm con mèo à?”[2]. Xem ra ông ta vẫn chưa nhận biết được tôi đã nổi tiếng đến mức nào.
Thế rồi cô sen lại mang tấm bưu thiếp thứ ba tới. Lần này không phải bưu ảnh mà chỉ có dòng chữ viết “Chúc mừng năm mới”, bên cạnh ghi thêm “Xin cho gửi lời chào mừng cả con mèo nữa nhé”. Xem ra, dù có ngờ nghệt đến đâu, khi đã viết rõ ràng đến mức này thì ông chủ cũng đã hiểu. Cuối cùng ông ta cũng thốt lên được một tiếng “hừ” rồi nhìn vào tôi, vẻ như đã nhận biết được. Ánh mắt của ông lúc đó chứa đựng một niềm tôn kính, khác hẳn từ trước tới nay. Cũng phải thôi, từ trước tới nay, ông vẫn tồn tại mà chẳng được đời biết tới, nay nhờ có tôi mà được nở mày nở mặt với thiên hạ thì ánh mắt như vậy cũng là đương nhiên.
Vừa lúc đó, ngoài cửa có tiếng chuông reo lanh canh, lanh canh, chắc có một vị khách lớn nào tới. Khách đến thì cô sen sẽ ra mở cửa. Còn tôi, đã thành lệ, chỉ trừ khi nào thằng Ume nhà hàng cá tới, tôi không bao giờ ra, nên cứ ung dung ngồi trên đùi ông chủ như cũ. Ông chủ thì nhìn ra cửa với vẻ sợ hãi, cứ như là bị chủ nợ cho vay nặng lãi đến đòi nợ vậy. Hình như ông rất sợ phải tiếp khách đến chúc Tết và phải tiếp rượu khách. Con người mà tính cách đã méo mó đến mức này thì chẳng còn gì để nói nữa. Đã vậy thì sáng sớm, đi đâu quách đi cho xong. Vậy mà cũng chẳng đủ can đảm để đi đâu, cứ ở nhà, thể hiện cái bản chất “con hầu” của mình.
Một lát sau, cô sen vào thưa có ngài Kangetsu[3] đến. Ngài Kangetsu này, nghe nói là một học trò cũ của ông chủ, nhưng bây giờ đã ra trường và đã thành người có danh vọng hơn ông chủ nhiều. Không hiểu sao ông này rất hay đến chơi với ông chủ. Mỗi lần đến lại mang hàng lô chuyện, nào là cô nào đang yêu mình, cô nào không yêu mình, nào là cuộc đời này thú vị ra làm sao, đáng chán ra làm sao. Rồi sổ ra hàng loạt những chuyện ghê sợ hoặc mùi mẫn. Tìm đến một người héo hon như ông chủ để nói những chuyện như vậy, xem ra chẳng hợp tí nào. Nhưng một người mang bản chất “con hầu”, suốt ngày bám trong phòng sách như ông chủ, mà khi nghe những chuyện này, thỉnh thoảng cũng gật gù thì thấy cũng được.
– Lâu quá em không đến thăm thầy. Thực tình năm ngoái em bận nhiều hoạt động quá, mấy lần muốn đi mà rồi chân không hướng tới đây được.
Anh ta vừa tháo dây áo khoác vừa nói như đánh đố như vậy.
– Vậy thì hướng tới đâu?
Ông chủ kéo ống tay áo khoác bông, màu đen, có gia huy của khách, nói với vẻ mặt nghiêm túc. Đây là chiếc áo khoác Haori sợi bông ngắn tay. Từ phía dưới ống tay áo, có cái gì mượt và nhun nhũn[4] thòi ra cả hai bên chừng 5 phân. Anh Kangetsu cười:
– Hề hề… một hướng hơi khác đấy ạ.
Nhìn kỹ thì thấy hôm nay anh ta bị sứt một cái răng cửa. Ông chủ đổi đề tài:
– Răng cậu làm sao thế?
– À, chả là em ăn nấm ở một chỗ…
– Ăn cái gì?
– Ăn nấm! Em ăn nấm và lấy răng cửa cắn cái cánh nấm thì tự nhiên bị mẻ.
– Ăn nấm mà gãy răng à? Nghe cứ như là cụ già ấy. Chuyện này có thể làm thơ haiku được đấy, nhưng không lợi cho chuyện yêu đương đâu nhỉ?!
Ông chủ nói, tay vỗ nhẹ vào đầu tôi.
– À, con mèo hôm trước đấy ạ? Nó béo ra nhỉ. Kiểu này thì cũng không thua kém gì con Đen nhà hàng xe đâu. Giỏi lắm.
Anh Kangetsu ca ngợi tôi hết lời.
– Dạo này nó lớn lên nhiều rồi.
Ông chủ kiêu hãnh vỗ bụp bụp vào đầu tôi. Được khen thì cũng khoái thật, nhưng tôi thấy hơi đau. Anh Kangetsu lại trở lại chuyện cũ:
– Tối hôm kia cũng có một buổi hòa nhạc.
– Ở đâu?
Ở đâu chả thế, thầy cần gì phải hỏi. Ba cây violon hòa tấu với piano rất hay. Violon mà đến 3 chiếc thì dẫu có kéo dở đến mấy cũng tạm nghe được. Trong ba người thì có em và còn lại là hai cô gái. Bản thân em cũng tự thấy mình chơi rất khá.
– Ồ, thế những cô gái ấy là ai vậy?
Ông chủ hỏi có vẻ ngưỡng mộ, thèm khát lắm. Vốn dĩ, thực chất vẻ mặt hàng ngày héo quắt như cây khô của ông ta không phải là do ông thờ ơ, lạnh lùng với phụ nữ. Trước đây, khi đọc tiểu thuyết phương Tây, hễ có một nhân vật nữ nào kha khá là thể nào ông ta cũng mê. Ông ta thuộc loại đàn ông mà nếu thấy một ai đó nói mỉa mai rằng “tính ra có đến 70 phần trăm số phụ nữ đi trên đường làm cho ta muốn yêu” thì vội vàng thán phục ngay câu đó như một chân lý. Một người đàn ông đa tình như vậy mà sao cứ dính chặt ở nhà, không đi đâu? Là một con mèo, điều này, tôi không thể hiểu nổi. Người thì bảo vì ông thất tình. Người thì bảo vì ông đau dạ dày. Có người lại bảo vì ông không có tiền nên đâm ra nhút nhát như vậy. Muốn vì sao thì vì, ông chẳng phải là một nhân vật quan trọng đên mức ảnh hưởng tới lịch sử thời đại Minh Trị, cho nên mặc xác ông. Nhưng quả thật ông đã hỏi về những người phụ nữ đi cùng với anh Kangetsu với một vẻ rất ghen tỵ, mơ ước.
Kangetsu vẻ thú vị gắp một miếng chả cá cho vào miệng, cắn bằng chiếc răng cửa bị mẻ. Tôi rất lo, nhỡ chiếc răng lại bị mẻ nữa, nhưng may quá không sao cả.
– Cả hai cô này đều là cô chiêu cả, thầy không biết họ đâu!
Kangetsu trả lời quấy quá.
– À, ra…
Ông chủ vừa nói vừa ngẫm nghĩ nên bỏ qua chữ “… thế”. Có lẽ Kangetsu nghĩ đây là thời điểm tốt nên rủ:
– Hôm nay trời rất đẹp, thầy không bận thì đi chơi với em đi. Lữ Thuận thất thủ rồi, ngoài phố chỗ nào cũng tưng bừng phấn khởi lắm.
Vẻ mặt ông chủ vẫn tỏ ra như muốn biết rõ gốc tích mấy cô gái kia hơn là chuyện Lữ Thuận bị đánh chiếm. Ông suy nghĩ một chút, rồi hình như hạ quyết tâm, đứng dậy, nói:
– Ừ, đi đi..
Ông cũng mặc một chiếc áo khoác Haori bàng vải bông có gia huy, màu đen, có nhồi bông sợi Yuki. Chiếc áo cũ mèm, đã dùng trên hai mươi năm, nghe đâu là vật kỷ niệm của người anh trai đã chết để lại. Dẫu là bông sợi Yuki hay bông gì, mà cứ mặc mãi như thế thì cũng chẳng còn gì. Nhiều chỗ sờn mỏng, soi lên, nhìn rõ những đường chỉ khâu, vá từ phía trong. Quần áo của ông chủ bao giờ cũng thế, chẳng có năm mới năm cũ nào cả. Cũng chẳng có quần áo mặc ở nhà hay mặc đi chỗ nọ, chỗ kia[5]. Mỗi khi đi đâu thì cứ thế mà đi. Ông không có quần áo để thay, hay có mà không thay vì ngại phiền hà? Tôi chả làm sao mà hiểu được. Nhưng không thể cho rằng đó là vì ông thất tình được.
Hai người đi khỏi rồi, tôi mạn phép xơi nốt chỗ chả cá mà Kangetsu ăn còn thừa. Dạo này tôi không còn là một con mèo bình thường nữa, tôi thấy mình đủ tư cách là con mèo từ sau thời Momokawa Joen[6] hay là con mèo ăn trộm cá vàng của Gray[7] lắm. Những loại như Đen nhà phu xe, tôi không thèm để ý tới. Dẫu tôi có ăn một miếng chả cá thì cũng chẳng ai nỡ nói này nói nọ gì đâu! Vả lại, cái thói quen hay ăn vặt khi vắng mặt người khác như thế này, đâu phải chỉ là thói quen của riêng họ nhà mèo. Chị bếp nhà này, khi bà chủ đi vắng cũng thường xin lỗi, mạn phép làm một vài cái kẹo hay ăn vài ba cái bánh đấy thôi. Mà chả cứ gì chị bếp ngay cả những đứa trẻ con nhà bà chủ, nghe nói là được giáo dục, rèn giũa lịch sự lắm, mà cũng có khuynh hướng này.
Cách đấy bốn, năm hôm, hai đứa trẻ con dậy rất sớm. Trong lúc hai ông bà chủ vẫn còn ngủ thì chúng đã ngồi đối diện nhau ở bàn ăn. Thường thì chúng rắc đường vào bánh mỳ để ăn một phần bánh của ông chủ. Hôm nay, lọ đường để ngay trên bàn, lại có sẵn cái thìa trong đó, không phải chia theo định mức như mọi ngày, đứa lớn xúc hẳn một thìa đổ vào đĩa của mình. Thế là đứa em cũng bắt chước chị làm đúng như thế. Hai đứa nhìn nhau. Rồi con lớn lại xúc một thìa đổ vào đĩa mình. Đứa em lập tức cầm ngay lấy thìa, làm đúng như vậy với đĩa của mình. Đứa chị lại thêm một thìa. Đứa em cũng không thua. Đứa chị lại nắm lấy lọ đường, đứa em lại cầm lấy thìa. Cứ như thế, chẳng bao lâu, đường đã được đổ hết ra đĩa của hai đứa, trong lọ hết nhẵn.
Đúng lúc đó, ông chủ tay dụi mắt, từ phòng bên đi ra, vẻ còn ngái ngủ. Thế là đống đường đã bị xúc ra đĩa, lại bị cho lại vào lọ. Qua vụ này, tôi thấy được, cái quan niệm “công bằng” mà con người nêu ra, xuất phát từ lòng ích kỷ, rõ ràng là hơn hẳn mèo rồi, nhưng về mặt trí tuệ thì thật kém xa. Trong lúc cứ mải xúc đầy cả đống như vậy, thì thà cứ ăn thật nhanh đi có phải hơn không? Nhưng rồi cũng như bao chuyện khác, lời của mèo không bao giờ lọt được vào tai họ, cho nên mặc dù thấy thương hại cho họ, tôi cũng chỉ từ trên nóc chạn lặng lẽ mà nhìn xuống.
Không biết ông chủ đi đâu, làm gì cùng với Kangetsu mà tối hôm đó mãi tận khuya mới về. Sáng hôm sau, 9 giờ mới ăn sáng. Cũng từ trên nóc chạn nhìn xuống, tôi thấy ông chủ ăn zoni (canh bánh dày)[8]. Ông ăn mấy bát liền. Bánh cắt hơi nhỏ nhưng mỗi bát có đến sáu, bảy miếng. Bát cuối cùng, hình như đã quá no, ông bỏ thừa một miếng trong bát, rồi buông đũa. Nếu người khác mà làm vậy là ông không đồng ý đâu. Nhưng vốn hay tỏ vẻ ta đây là ông chủ, ông ta nhìn thấy mẩu bánh bị nướng cháy đen, trong nước canh đùng đục, là thản nhiên bỏ đi, không ăn nữa.
Bà vợ lấy thuốc Taka-Diastase từ trong tủ ra để trên bàn, nhưng ông bảo:
– Thuốc ấy không công hiệu nên thôi không uống nữa.
– Nhưng mình ạ, thuốc này rất công hiệu với những chất tinh bột, uống sau khi ăn rất tốt.
Bà rất muốn ép ông chồng uống thuốc. Nhưng ông trả lời rất ngang bướng:
– Tinh bột hay tinh gì thì cũng vô ích.
Bà vợ nói như ca cẩm một mình:
– Mình thật là người dễ nản chí!
– Không phải dễ nản mà là vì không công hiệu.
– Thế sao trước đây thì mình bảo tốt lắm, tốt lắm, ngày nào cũng uống?
– Hồi đó thấy tốt, nhưng dạo này chẳng thấy tác dụng gì cả.
Ông nói như một vế đối (của câu đối).
– Cứ uống rồi lại bỏ dở chừng như thế thì thuốc có tốt đến mấy cũng chả biết được. Phải cố chịu khó một chút chứ. Cái bệnh dạ dày này không thể khỏi nhanh như các bệnh khác được.
Bà nói và quay nhìn cô sen đang bưng mâm chờ. Cô sen vội tiếp lời bà chủ:
– Đúng thế đấy ạ. Phải uống thêm thì mới biết thuốc có tốt hay không chứ ạ!
– Tốt hay xấu cũng được. Đã bảo không uống là không uống. Đàn bà biết gì mà cũng nói. Thôi, im đi.
– Vâng, đàn bà đây.
Bà đẩy thuốc về phía ông chủ, như quyết tâm bắt ông phải rạch bụng tự sát vậy. Ông chủ không nói gì, đứng dậy đi vào phòng sách. Bà chủ và cô sen nhìn nhau cười. Những lúc như thế này mà tôi đi theo ông, leo lên lưng ông thì thế nào cũng gặp tai họa. Vì thế tôi lặng lẽ vòng ra sân, leo lên thềm phòng sách, dòm vào qua song cửa thì thấy ông đang đọc cuốn sách của Epiktetos. Nếu đọc cuốn sách này mà cũng hiểu được bình thường như mọi sách khác thì hơi giỏi đấy. Được khoảng 5, 6 phút ông vứt sách như ném xuống mặt bàn. “Đại thể là thế mà!”, tôi nghĩ và chú ý theo dõi thì thấy ông lôi nhật ký ra viết:
“Đi dạo cùng với Kangetsu ở Nezu, Ueno, Ike no Hata, Kanda[9]. Trước phòng chờ ở Ike no Hata, những cô geisha mặc áo tết cổ lông. Quần áo thì đẹp nhưng mặt thì rất xấu. Trông cứ như mặt con mèo nhà mình.”
Những bộ mặt xấu thì có nhất thiết cứ phải lôi tôi ra làm mẫu như vậy không nhỉ? Tôi mà đi đến hiệu Kita cạo mặt đi thì sẽ chẳng khác gì mặt người đâu. Con người kiêu ngạo đến thế thì gay thật.
“Đi vòng sang phố khác chỗ cửa hàng Hodan thì lại thấy một cô geisha đi đến. Cô này lưng thẳng, vai đẹp, chiếc áo cô mặc màu tím, tông cũng hợp và sang. Cô cười phô hàm răng trắng. Có điều khi cô nói “Anh Gen ơi, tối qua, rốt cuộc em bận quá!” tiếng nghe như tiếng vịt đực, khiến cái hình thức kha khá cũng bị mất giá. Thành ra mình cũng chán, chả muốn ngoảnh lại xem cái anh Gen của cô ta là người như thế nào, cứ thế đi thẳng đến đường Ngự thành. Kangetsu không hiểu sao, trông có vẻ thấp thỏm không yên.”
Không có gì khó hiểu hơn tâm lý con người. Không hiểu lòng dạ ông chủ lúc này là thế nào? Ông đang tức giận hay đang phấn chấn? Hay đang tìm kiếm một chút an ủi bằng con đường di thư[10] đây? Ông đang cười mỉa cuộc đời hay muốn hòa chung vào cuộc đời? Đang buồn bực, tức giận với những điều lố lăng vô nghĩa hay đang siêu thoát khỏi thế giới hữu hình này? Chẳng làm sao mà hiểu được.
Về vấn đề này, loài mèo chúng tôi đơn giản hơn nhiều. Muốn ăn thì ăn, muốn ngủ thì ngủ. Tức giận thì tức giận hết mình, kêu gào thì kêu đến xé cổ, xé lòng mới thôi. Trước hết, chúng tôi không bao giờ làm cái thứ vô bổ là ghi nhật ký cả. Bởi vì cũng chẳng cần thiết phải ghi. Tôi cho rằng có thể là, những người có hai mặt như ông chủ đây thì cần ghi nhật ký để khai thác những cái riêng tư của mình trong phòng tối, những cái mà không thể nói ra với đời được. Chứ còn loài mèo chúng tôi thì mọi hành vi: đi lại, đứng, ngồi, đại tiểu tiện ngoài vườn hay trong sân v.v., tất cả đều là nhật ký thực thụ, không cần phải làm cái việc phiền phức ấy để lưu lại bộ mặt thực của mình nữa. Nếu có thời gian ghi nhật ký thì thà để mà nằm ngủ ở hành lang còn hơn.
“Ăn tối trong một cửa hàng ở Kanda. Đã lâu mới uống vài chén Masamune[11], sáng nay thấy dạ dày rất nhẹ, dễ chịu. Mình cho là với người đau dạ dày, uống rượu buổi tối là thượng sách. Taka-Diastase tất nhiên là đồ bỏ. Mặc kệ, ai muốn nói gì thi nói mình dứt khoát không nghe. Đã vô hiệu thì có uống cũng vô hiệu.”
Ông ta kịch liệt công kích thuốc Taka-Diastase cứ như là đang tự cãi nhau với mình. Cơn tức giận sáng nay đã được lộ mặt ở đây. Bản sắc nhật ký của con người có lẽ là ở chỗ này đây.
“Hôm trước tay XX bảo là bỏ cơm sáng thì tốt cho dạ dày. Mình đã nhịn thử hai, ba ngày nhưng bụng cứ sôi ùng ục, chả có tác dụng gì cả. Tay YY khuyên nên bỏ tất cả các loại dưa muối lên men. Theo hắn thì mọi nguyên nhân của bệnh dạ dày là từ dưa muối. Nếu bỏ dưa muối nghĩa là cắt bỏ từ nguồn gốc bệnh dạ dày rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Sau đó, mình đã không hề đụng đũa đến dưa trong khoảng một tuần, nhưng cũng chẳng thấy hiệu nghiệm gì nên lại ăn.
Theo tay ZZ nói thì chỉ có phương pháp xoa bóp là tốt nhất. Nhưng không phải là xoa bóp bình thường mà phải làm theo phương pháp cổ điển của trường phái Minagawa kia. Chỉ cần làm vài ba lần là trị dứt điểm bệnh dạ dày ngay. Ông Yasui Sokken cũng rất ái mộ phương pháp này. Ngay cả đến bậc hào kiệt như ông Sakamoto Ryoma cũng thỉnh thoảng chữa bệnh theo phương pháp này. Nghe nói vậy, mình đã đi ngay đến tận Kami Negishi để xoa bóp thử. Nhưng mà, nào là “phải xoa bóp xương, chuyên đảo vị trí của các phủ tạng thì mới trị tận gốc được”… cả một phương pháp xoa bóp khủng khiếp. Sau đó thì cơ thể sẽ nhũn như bông, tâm trạng sẽ giống như người mắc bệnh hôn mê v.v.
Nghe nói thế mình chữa thử một lần rồi lẳng lặng bỏ.
Cậu A thì bảo dứt khoát không được ăn những thức ăn cứng. Mình đã uống sữa cả một ngày, không ăn uống gì. Thế là ruột cứ réo èo èo như sắp chảy tuôn nước ra, suốt đêm không ngủ được.
Ông B thì bảo thở bằng cơ hoành cách để vận động các cơ quan trong bụng thì dạ dày cũng tự nhiên khỏe lên, cậu thử làm xem. Mình cũng đã làm thử nhiều lần nhưng thấy bụng cứ hồi hộp, rất khó chịu. Đã thế, thỉnh thoảng sắp nghĩ ra một cái gì, đang cố gắng tập trung, được dăm sáu phút lại quên béng mất. Cố gắng để khỏi quên thì lại bận tâm đến hoành giáp mạc, không thể đọc, viết gì được. Nhìn thân thể mình như vậy, nhà mỹ học Meitei đùa giễu “thôi, cậu không phải vặn vẹo như đau đẻ thế nữa”, thế là dạo này mình thôi không làm nữa.
Thầy C thì bảo ăn soba (kiều mạch) rất tốt. Thế là lập tức hết soba nấu đến soba luộc. Kết quả là chỉ có đi tiêu chảy nhiều chứ chẳng có công hiệu gì cả. Mình đã cố gắng áp dụng mọi phương pháp để quyết tâm từ giờ đến sang năm, trị hẳn cái bệnh dạ dày này, nhưng chẳng có phương pháp nào có hiệu quả. Chỉ có mỗi ba chén Masamune uống cùng với Kangetsu tối qua là có hiệu quả rõ ràng. Từ rày mình sẽ quyết định mỗi tối uống 2, 3 chén.”
Quyết định này thể nào cũng chẳng tiếp tục lâu được đâu. Lòng dạ ông chủ luôn luôn biến đổi không ngừng, cũng giống như tròng mắt của tôi. Ông là người làm cái gì cũng chỉ được mấy hôm. Vả lại trong nhật ký thì ông ta lo lắng đến cái bệnh dạ dày như thế, nhưng bên ngoài thì rất gan lì, nín chịu. Thế mới lạ.
Hôm trước có một người bạn, là một học giả gì đó, đến chơi. Ông này đưa ra một học thuyết rằng “có một loại quan điểm cho rằng, mọi thứ bệnh tật trên đời này đều do từ bản thân mình hay tổ tiên, ông cha mình sinh ra”. Học thuyết được trình bày rất khúc chiết, minh bạch. Tội nghiệp cho ông chủ tôi, ông là người không đủ đầu óc và tri thức để phản bác lại học thuyết này. Nhưng vì ông đang có bệnh dạ dày nên ông muốn biện giải gì đó để giữ sĩ diện của mình. Ông nói:
– Lý thuyết của anh nghe hay đấy, nhưng chính ngay cả Carlyle cũng bị đau dạ dày đấy thôi!
Ông cứ làm như là vì Carlyle đau dạ dày thì mình đau dạ dày cũng là một vinh dự, nên mới đối đáp nhầm lẫn như vậy.
– Ông Carlyle đau dạ dày không có nghĩa là hễ ai đau dạ dày sẽ là ông Carlyle.
Thế là ông chủ im, không nói gì nữa. Thật là buồn cười, một con người mang đầy lòng hư danh như vậy mà thực ra lại muốn thà không đau dạ dày vẫn hơn và đã quyết tâm từ tối nay, trước khi ngủ sẽ uống rượu. Xem ra, sáng nay ông ăn nhiều zoni như vậy chắc là do ảnh hưởng của việc tối qua đã uống rượu cùng với Kangetsu. Thế là tự nhiên tôi muốn ăn thử zoni xem thế nào.
Tôi là mèo nhưng nói chung món gì tôi cũng ăn. Tôi không đủ sức khỏe và ý chí như Đen nhà hàng xe để mà đi xa, đến tận hàng cá trong phố. Tôi cũng không phải là kẻ có đẳng cấp để có thể xa hoa như nàng Tam Mao nhà bà thầy dạy đàn nhị huyền[12] ở trong hẻm. Bởi vậy, tôi thuộc loại ít chê các món ăn. Những mẩu bánh bọn trẻ con ăn làm rơi vãi tôi cũng ăn. Nhân bánh hay kẹo, tôi cũng liếm. Món dưa muối thì cực kỳ dở. Nhưng để biết mùi, tôi cũng đã từng ăn thử hai lát củ cải muối. Ăn rồi mới thấy rất kỳ lạ. Và từ đó tôi có thể ăn tất cả mọi thứ một cách bình thường. Cái kiểu xa hoa nũng nịu “tôi không thích món này, tôi không thích món kia” là cái không thể nói ra từ miệng một con mèo, sống trong nhà một ông giáo bình thường, như tôi.
Theo ông chủ nói thì ở Pháp có một nhà văn tên là Balzac, là một người rất xa hoa xa xỉ. Không phải xa hoa trong chuyện ăn uống mà là trong viết lách. Một hôm, giữa lúc ông đang tìm tên cho một nhân vật tiểu thuyết của mình nhưng thấy tên nào cũng không vừa lòng thì có một người bạn đến chơi. Ông ta bèn rủ người bạn đi dạo phố. Người bạn không biết gì, cứ thế đi theo. Còn Balzac thì muốn tìm cái tên mình đang cần nên cứ kéo ông bạn đi hết cửa hàng này sang cửa hàng khác, chỉ để đọc mỗi cái tên cửa hàng trên biển hiệu. Vậy mà mãi vẫn không tìm được cái tên ưng ý. Ông ta cứ kéo bạn đi mãi. Người bạn chẳng hiểu sao cũng cứ đi theo. Hai người đi khắp Paris từ sáng đến tối. Khi quay về, Balzac chợt nhìn thấy biển hiệu một cửa hàng may mặc có cái tên là Marcus. Balzac vỗ tay reo:
– Đây rồi, đây rồi. Chỉ có cái tên này thôi! Cái tên Marcus hay đấy. Ta sẽ thêm chữ Z vào đầu chữ Marcus, sẽ được một cái tên không phải phàn nàn gì nữa. Phải là chữ Z mới được. Z. Marcus, ôi thật là hay! Những cái tên mình đặt, dẫu có đẹp mà nó không tự nhiên, miễn cưỡng thì cũng không hay. Mãi bây giờ mới tìm được cái tên vừa ý.
Ông ta vui sướng và quên rằng mình đã làm khổ bạn thế nào. Đặt tên cho một nhân vật trong tiểu thuyết mà phải đi sục sạo khắp Paris suốt cả một ngày như vậy thì cầu kỳ thật. Xa hoa được đến mức đó thì cũng hay lắm. Nhưng mà thân phận một con mèo, có ông chủ suốt ngày ru rú xó nhà như tôi đây làm sao mà làm nổi chuyện ấy! Cái gì cũng được miễn có cái ăn là tôi vừa lòng. Điều này cũng do cảnh ngộ mà ra thôi. Do vậy, việc tôi muốn ăn thử canh bánh dày lúc này công không phải vì xa hoa. Đó chẳng qua là xuất phát từ cách suy nghĩ muốn ăn gì thì cứ ăn, và vì tôi chợt nhớ ra cái canh mà ông chủ ăn bỏ thừa biết đâu vẫn còn ở trong bếp… Và thế là tôi đảo vào bếp, xem thử.
Vẫn miếng bánh dày sáng nay, với cái màu cũng như ban sáng, dính dưới lòng bát. Thú thực, từ trước tới nay tôi chưa ăn bánh dày bao giờ. Trông thì cũng có vẻ ngon đấy, nhưng hơi kinh kinh. Tôi lấy chân trước gạt những mẩu rau bám ở trên ra. Nhìn móng chân thấy có bánh dày bám vào, dinh dính. Tôi cào cào thử xem thì thấy có mùi như mùi khi xới cơm. Tôi nhìn quanh, băn khoăn hay là ăn chăng? Một điều, không hiểu là may hay không may, là lúc này không có ai ở đây cả. Chị bếp, cuối năm cũng như đầu năm, lúc nào cũng nét mặt ấy, đang mải đánh cầu. Bọn trẻ con ở phòng trong, đang hát “con thỏ là con thỏ gì”. Nếu ăn thì chính là lúc này đây. Bỏ lỡ cơ hội này thì cho đến bằng giờ sang năm, tôi sẽ sống mà không biết mùi vị bánh dày là gì. Mặc dù là mèo, chỉ trong khoảng khắc rất ngắn tôi đã ngộ ra một chân lý: “loài vật nào cũng vậy, thời cơ rất hiếm, phải biết chớp cơ hội mà chiếm lấy”. Thực ra mà nói thì tôi cũng chẳng thích ăn zoni lắm. Càng nhìn kỹ đáy bát càng thấy ghê ghê, chẳng muốn ăn chút nào. Lúc này mà có tiếng chị bếp hay tiếng bước chân bọn trẻ con đi vào thì tôi bỏ ngay, chẳng tiếc rẻ gì, và cho đến tận sang năm, cái chuyện canh zoni cũng chẳng đọng lại trong đầu tôi đâu. Nhưng mà chẳng có ai xuất hiện cả. Tôi cứ trù trừ mãi và vẫn không có ai vào bếp. Thế là như có tiếng ai giục “ăn đi, ăn đi, mau lên”, tôi vừa dòm đáy bát vừa thầm mong mau mau có ai đó vào đây thì hay. Nhưng rồi vẫn chẳng có ai. Cuối cùng tôi buộc phải ăn zoni.
Tôi gần như đổ cả sức nặng người mình xuống đáy bát, ngoạm một cục bánh dày vuông mỗi chiều trên 3 cm. Dùng sức đến thế mà cắn, nếu bình thường ra thì cắn được ngay, nhưng thực là kinh ngạc! Tôi nghĩ thôi chẳng ăn nữa, định rút răng ra nhưng không rút được. Lại cắn thử một lần nữa thì răng dính chặt, không cựa quậy được nữa. Khi hiểu ra được bánh dày là một loại “ma” thì đã muộn. Giống như người sa xuống vũng lầy, càng cố rút chân lên càng bị lún sâu hơn, tôi càng cố cắn thì miệng càng chặt cứng lại, răng hoàn toàn không cử động được nữa. Cảm giác sướng răng thì cũng có đấy. Song chỉ là cảm thấy răng được cắn thật đã thôi, nhưng không thể nào thanh toán cho xong chuyện được. Trước đây, có lần nhà mỹ học Meitei đã đánh giá ông chủ tôi “cậu là người cái gì cũng dây dưa, không dứt khoát được”. Quả là một nhận xét rất giỏi. Bánh dày này y hệt ông chủ, không thể cắt cho đứt hẳn ra được. Càng cắn thì càng như lấy 10 mà chia cho 3. Một phương trình không bao giờ tận cùng cả. Giữa lức phiền toái này, tôi lại bắt gặp một chân lý thứ hai. Đó là: “Mọi động vật đều dự đoán các sự vật có phù hợp với mình hay không, theo trực giác”.
Đã tìm ra được hai chân lý, nhưng vì bánh dày dính chặt quá nên ngay cả ngứa lông tôi cũng không cảm thấy. Răng tôi bị bánh dày kẹp chặt, đau buốt như sắp rụng. Không ăn mau mà chuồn đi thì chị bếp sẽ vào. Tiếng hát của bọn trẻ con cũng không nghe thấy nữa. Thế nào chúng cũng sắp chạy vào bếp cho mà xem. Quá lo buồn, tôi ngoáy tít cả đuôi, nhưng cũng không ăn thua gì. Rồi tôi giương tai lên, cụp tai xuống, cũng vô hiệu. Suy cho cùng thì tai và đuôi chả có liên quan gì tới bánh dày cả. Cuối cùng tôi hiểu ra là, dù có vẫy có cụp cũng chỉ tiệt, nên tôi thôi. Một lúc sau, tôi nghĩ rằng chỉ có dùng chân trước gỡ bánh ra là có khả năng thôi. Đầu tiên tôi đưa chân phải lên, xoa xoa xung quanh miệng. Xoa một lúc cũng không gỡ được. Lần này tôi dang rộng chân trái, xoa quyết liệt xung quanh miệng. Dùng phép bùa ấy cũng không xua được con ma bánh dày. Biết là phải kiên tâm mới được, tôi cứ luân phiên hết chân phải sang chân trái xoa miệng, nhưng răng vẫn bị cắm trong bánh. Thật là tai quái. Lần này tôi dùng cả hai chân một lúc. Thật ngạc nhiên, lúc này tự nhiên tôi đứng được bằng hai chân sau. Tôi có cảm giác kỳ lạ như mình không phải là mèo nữa. Nhưng là mèo hay không, thì vào cái ngày như ngày hôm nay, cũng có nghĩa gì đâu. Tôi chỉ còn biết cào, xoa khắp mặt, sao cho rãy được cái con ma bánh dày này ra thôi. Vì hai chân trước giãy giụa mãnh liệt nên hơi một tí là mất thăng bằng, suýt ngã. Mỗi lần như vậy lại phải dùng chân sau lấy lại thăng bằng nên tôi không thể đứng yên một chỗ, phải xoay khắp phòng. Tự mình cũng thấy không hiểu sao mình có thể đứng tài như vậy. Một chân lý thứ ba bỗng lại ập tới: “Lúc lâm nguy, hãy bình tĩnh lại, ta sẽ làm được cái mà lúc thường không làm nổi. Cái đó là trời phù hộ.”
May mắn được trời phù hộ, tôi đang ra sức vật lộn với con ma bánh dày thì nghe như có tiếng bước chân từ phòng trong đi ra. Phen này bị con người nhìn thấy thì gay to, nghĩ thế tôi hăng tiết, lao khắp phòng. Tiếng bước chân càng đến gần. Ôi, thật đáng tiếc. Trời phù hộ hơi bị thiếu. Cuối cùng bọn trẻ con đã nhìn thấy. Có tiếng hét lớn:
– Trời ơi, con mèo nó ăn zoni và nó đang múa kìa.
Người đầu tiên nghe thấy tiếng hét ấy là chị bếp. Chị ta ném vội cả quả cầu lẫn bàn cầu, từ cửa sau chạy vào, miệng kêu “trời đất ơi!”. Bà chủ, mặc áo lụa sồi có vẽ gia huy, bảo “con mèo dở quá nhỉ”. Cả ông chủ cũng chạy từ phòng khách ra, mắng “cái đồ của nợ này”. Chỉ có bọn trẻ con là kêu hay quá, hay quá, rồi như đã hẹn nhau, tất cả cùng cười khúc khích. Tôi rất tức. Cảm thấy khốn khổ, muốn thôi nhảy nhót mà không thôi được, sức đã yếu. Rồi tiếng cười cũng ngưng và đứa trẻ 5 tuổi bảo:
– Mẹ ơi, con mèo cũng ghê nhỉ!
Thế là lại rơi vào tình trạng “chết đuối vớ phải bọt”. Tôi đã từng nghe và chứng kiến rằng loài người là giống vô tình và bạc bẽo, nhưng chưa bao giờ tôi thấy căm giận họ như lúc này. Cuối cùng, sự phù hộ của trời cũng đi đâu mất. Tôi nằm bò xuống như vẫn nằm, đành diễn tiếp cái trò khó coi, mắt lờ đờ, trợn ngược.
Quả thật, thấy cứ bỏ mặc như vậy cũng tội nghiệp, ông chủ bảo chị bếp:
– Gỡ miếng bánh dày ra cho nó đi.
Chị bếp đưa mắt nhìn bà chủ như muốn hỏi “cứ để cho nó tiếp tục biếu diễn nữa nhé?”. Bà chủ cũng muốn xem múa đấy, nhưng không muốn xem cho đến khi nó chết, nên bà im lặng. Ông chủ lại nhìn chị bếp, nói:
– Không gở ra cho nó, nó chết đấy. Nhanh lên, gỡ cho nó đi.
Chị bếp túm mẩu bánh dày, lôi tuột ra, vẻ mặt thẫn thờ như người bị đánh thức giữa lúc đang mơ được ăn ngon. Không phải là Kangetsu, nhưng tôi nghĩ chắc răng cửa của mình cũng bị gãy hết rồi. Không nói là đau hay không đau, chỉ độc mỗi chuyện, những chiếc răng bị cắm chặt trong bánh dày mà bị kéo bạt mạng không thương tiếc như vậy, cũng đủ hết chịu nổi. Tôi lại trải nghiệm một chân lý thứ tư. Đó là: “Mọi sự an nhàn, sung sướng không thể không trải qua sự khổ sở”. Tôi trân trối nhìn một lượt khắp xung quanh phòng thì tất cả mọi người đã vào phòng trong hết rồi.
Khi đã gặp thất bại thế này mà lại ở nhà dàn mặt với chị bếp thì cũng ngượng. Tôi bèn lẻn ra sau bếp, đi đến nhà bà thầy dạy đàn nhị huyền ở trong hẻm, thăm Tam Mao.
Tam Mao đẹp nổi tiếng trong vùng này. Với mèo thì chẳng nghĩ thế đâu, nhưng thôi thì tôi cứ nghĩ theo cách cảm nhận của con người vậy. Mỗi khi ở nhà mà nhìn thấy cái mặt ông chủ nhăn nhó, hay bị chị bếp la mắng là tôi lại tìm đến người bạn khác giới này, để giãi bày nỗi lòng. Thế là mọi lo lắng, khổ não của tôi bay biến hết, lòng thanh thản, thấy mình như được đổi đời, được sinh ra lần khác vậy. Ảnh hưởng của nữ giới thật là lớn lao.
Từ kẽ hở hàng rào gỗ sam nhòm vào, tôi đưa mắt tìm thì thấy nàng đang ngồi rất ngoan ngoãn, kiêu sa trên thềm nhà, cổ đeo một chiếc vòng mới, vì hôm nay là ngày Tết. Cái lưng tròn của nàng quà là đẹp như người ta vẫn nói, nó tạo thành vẻ đẹp của một đường cong. Cái dáng cụp đuôi, xếp chân, rồi cái điệu vẫy tai liên tiếp vẻ u sầu… thật khó mà hình dung nổi.
Nàng ngồi lịch thiệp ở một nơi đầy nắng, trông rất ấm áp, cho nên mặc dù phong thái rất đoan trang, nghiêm túc mà bộ lông mượt như nhung phản chiếu ánh nắng xuân làm người ta tưởng nó đang lay động rộp rờn, mặc dù không có gió. Tôi say mê ngắm nàng một lúc rồi trở lại với mình, dùng chân trước vời vời, khẽ gọi “Tam Mao, Tam Mao!”. Tam Mao cất tiếng “ôi, thầy!” rồi đứng dậy, rời bờ hè. Chiếc chuông nhỏ mắc tren chiếc vòng cổ màu đỏ kêu leng keng, leng keng. Tôi còn đang mê mải, cảm động, thầm nghĩ “ngày Tết nên người ta đeo cả chuông ư? Tiếng chuông hay quá!” thì nàng đã đến bên cạnh, vẫy đuôi về phía bên trái, chào: “A, năm mới, xin chúc mừng thầy”.
Trong loài mèo chúng tôi, có phong tục khi chào nhau thân ái thì vểnh đuôi lên, vẫy về phía bên trái như vậy. Trong hàng phố này, chỉ có mỗi một mình Tam Mao gọi tôi là “thầy”. Như tôi đã nói, bởi vì tôi chưa có tên, nhưng cũng vì tôi sống ở nhà ông giáo nên Tam Mao kính trọng, cứ gọi tôi là “thầy, thầy”. Bị gọi là thầy tôi cũng không thấy khó chịu gì lắm, nên cứ đáp “vâng, vâng”.
– Ôi, xin chúc mừng năm mới. Hôm nay cô trang điểm đẹp quá nhỉ!
– Vâng, cuối năm ngoái, bà thầy dạy nghề đã mua cho em đấy. Cũng đẹp đấy chứ, phải không ạ? – Nàng vừa nói vừa rung chuông leng keng.
– Ồ, tiếng kêu thanh thật. Từ bé đến giờ, tôi chưa nhìn thấy thứ đồ tuyệt hảo như vầy bao giờ cả.
– Ôi, không phải thế đâu. Ai cũng đeo cả mà!
Nàng nói và lại rung chuông leng keng, leng keng.
– Tiếng chuông nghe rất hay, phải không ạ? Em rất thích.
Nàng nổi và lại rung leng keng.
– Bà chủ nhà cỏ cỏ vẻ thương yêu, chiều chuộng cô lắm nhỉ?
Tôi thầm so sánh với thân phận mình và thốt lên ý ghen tị như vậy.
– Vâng, đúng thế. Bà ấy coi em như con mình vậy.
Nàng cười hồn nhiên. Không phải nhất thiết là mèo thì không biết cười đâu. Loài người nghĩ rằng ngoài mình ra, các loài khác không biết cười thì thật nhầm to. Khi cười, chúng tôi thường nhăn lỗ mũi thành hình tam giác, rung cuống họng mà cười nên con người không thể biết thôi.
– Vậy, thể bà chủ nhà cô là người thế nào?
– Ôi, chủ em ấy à, kỳ lạ lắm! Là người dạy nghề mà. Thầy dạy đàn Nhật đấy.
– Cái ấy thì tôi biết rồi, nhưng đẳng cấp của bà ta thế nào? Hình như trước đây bà ta là người cao sang lắm, phải không?
– Vâng.
Bên trong cửa sổ, bà thầy dạy đàn đang gảy “anh chờ em mà em chẳng đến”. Tam Mao nói vẻ kiêu hãnh:
– Đấy, tiếng đàn nghe hay chưa?
– Nghe có vẻ hay đấy, nhưng tôi chẳng hiểu gì cả. Thế là cái gì vậy?
– Cái đó à? Là gì nhỉ? Bà thầy thích nó lắm. Bà ấy đã 62 tuổi rồi, khá điêu luyện đấy chứ, phải không ạ?
Đã sống đến tuổi ấy rồi thì không thể nói là không thành thục được. Tôi bảo “ừ”, nghe hơi ngớ ngẩn nhưng trong óc chẳng nảy ra được câu đáp lễ nào hay ho nên đành vậy.
– Ấy thế mà đảng cấp của bà ấy rất cao đấy, bà ấy vẫn bảo vậy.
– Thế à? Bà ấy vốn là gì?
– Bà ấy bảo bà ấy vốn là con gái người cháu trai của bà mẹ chồng mà cô em gái của người thư ký của “Thiên Chương Viện”[13] về làm dâu đấy.
– Thế nghĩa là thế nào?
– Người em gái của người thư ký của Thiên Chương Viện…
– À, thế à, người em gái của người thư ký của Thiên Chương Viện…
– Ngài Thiên Chương Viện mà thầy cũng biết đấy.
– Ừ, ừ.
– Người thư ký ấy mà.
– Ừ, ừ.
– Đúng rồi.
– Về làm dâu.
– Cô em gái về làm dâu…
– Đúng, đúng, tôi nhầm. Cái ngài mà cô em gái đi làm dâu…
– Là nơi người con gái người cháu họ bà mẹ ấy…
– Con gái của cháu họ bà ấy à?
– Vâng, thầy hiểu rồi chứ ạ?
– Chưa hiểu. Hơi rắc rối nên tôi chưa nắm được. Vấn đề ở chỗ, thế thì là gì của ngài Thiên Chương Viện?
– Mãi thầy chẳng hiểu gì cả. Thì đã nói rồi mà, là con gái của người cháu họ của bà mẹ chồng, nơi mà em gái của ngài thư ký của ngài Thiên Chương Viện về làm dâu mà lỵ,
– Cô biết rõ quá nhỉ.
– Biết rõ như vậy tốt lắm chứ.
– Ừ.
Tôi chịu, đành xin hàng. Chúng tôi có những lúc phải nói dối đầy lý luận như vậy.
Tiếng đàn bên trong cửa đã tắt. Tiếng bà chủ gọi:
– Tam Mao, Tam Mao đâu? Về ăn cơm đi.
– Ôi, bà chủ đang gọi, em phải về đây. Có được không ạ?
Nhìn Tam Mao có vỏ vui sướng nên tôi không thể bảo “không”.
– Thế thì hôm khác thầy lại đến chơi nhé.
Nàng vừa nói vừa rung chuông leng keng chạy vào, đến gần sân, bỗng nàng đột ngột quay lại, hỏi với vẻ lo lắng:
– Trông thầy thần sắc có vẻ kém lắm, phải làm thế nào chứ?
Không thể nói ra cái chuyện ăn zoni rồi múa may quay cuồng ấy, tôi bảo:
– Cũng chẳng có gì đặc biệt đâu, tôi chỉ hơi nghĩ ngợi một chút nên đau đầu thôi. Tôi nghĩ là nói chuyện với cô thì sẽ khỏi nên đã đến đây mà!
– Ồ, thế à? Vậy thầy chú ý giữ sức khỏe nhé. Xin tạm biệt.
Nàng có vẻ hơi lưu luyến. Thế là cái vụ zoni cũng qua, tôi đã hồi phục, khỏe lại. Lòng tôi rất vui. Trên đường về, tôi định đi qua vườn chè mọi khi nên bước qua những mảnh băng mỏng của sương đọng, đang tan mà đi. Vừa ló mặt ra khỏi góc hàng rào phên tre đã thấy Đen nhà hàng xe nằm cuộn lưng trên bụi cúc héo, đang ngáp. Gần đây, không phải là sợ mà vì ngại nói chuyện nên hễ gặp Đen là tôi giả vờ không nhìn thấy và hôm nay tôi cũng đang định cứ thế đi qua. Đen là kẻ có tính thấy người khác hơi có vẻ coi thường mình là không chịu yên.
– Này, cái thằng nhà quê không tên kia, dạo này mày có vẻ vênh váo lắm nhỉ? Dẫu mày có ăn cơm nhà ông giáo hay dẫu là gì thì cũng không phải lên mặt kiêu căng, hợm hĩnh như thế đâu nhé. Coi thường người khác là không hay đâu.
Hình như Đen vẫn chưa biết rằng tôi đã nổi tiếng. Tôi muốn nói cho nó biết, nhưng dẫu sao nó cũng không phải là kẻ có thể hiểu được nên tôi quyết định hãy cứ chào hỏi qua loa, rồi tìm mọi cách thoái thác mà về, càng sớm càng tốt.
– Ôi, chào cậu Đen, xin chúc mừng cậu năm mới. Trông cậu vẫn mạnh khỏe lắm nhỉ.
Tôi cong đuôi, vẫy về phía bên trái. Đen chỉ cong đuôi lên mà không chào hỏi gì cả.
– Cái gì? Chúc mừng ấy à? Nếu ngày tết là đáng chúc mừng thì mày đáng mừng quanh năm đấy. Liệu mà cẩn thận, cái đồ “đằng sau ống thổi” ạ.
“Đằng sau ống thổi” có vẻ là thứ ngôn ngữ chửi rủa gì đó, nhưng tôi không hiểu.
– Xin lỗi, xin cho tôi hỏi thế “đằng sau ống thổi” nghĩa là gì?
– Hừ, lại còn hỏi à? Ai mà thèm trả lời. Vây nên mày là thằng “đáng mừng như tết” đấy.
‘Thằng đáng mừng như tết” nghe có vẻ giống thơ lắm, nhưng câu cú còn khó hiểu hơn cả “đằng sau ống thổi” nữa. Tôi còn muốn hỏi nữa để tham khảo nhưng biết là có hòi cũng không được trả lời rõ ràng nên tôi chỉ đứng im trước mặt Đen. Thật là những giây phút chán chường, tẻ nhạt.
Bỗng có tiếng bà chủ nhà Đen cất lên xe xé:
– Chết rồi, chỗ cá hồi cất trong chạn đi đâu mất rồi. Chết thật, lại cái con mèo đen thổ tả ấy công đi thôi. Thật là một con mèo hỗn láo, đáng ghét. Mày mà dẫn xác về đây lúc này thì mày biết tay ta.
Tiếng quát tháo không kiêng nể ai, làm chấn động cả bầu không khí êm đềm đầu xuân. Một vị minh quân đang nổi giận làm tan vỡ cả một triều đại đang thiên hạ thái bình. Đen tỏ thái độ lì lợm “muốn gào thét thì cứ việc gào thét cho thỏa đi!” rồi nó đưa cái cằm vuông ra, tỏ ý bảo “đây mày nghe thây chưa?”.
Từ nãy đến giờ, mải lo ứng xử xã giao với Đen nên tôi không để ý. Bây giờ nhìn kỳ mới thấy, dưới chân Đen có những mẩu xương một miếng cá hồi đáng giá 2 hào 3 xu[14] đã bị lấm lem bùn đất. Tôi quên mất sự vướng mắc vừa rồi mà cất lời cảm phục hỏi:
– Cậu vẫn làm thế nhỉ?
– Mày nói cái gì, hả, cái thằng này? Một vài miếng cá hồi mà “vẫn làm vẫn làm” cái gì? Mày đừng có mà nói giọng khinh người thế nhá. Tao có cố kìm nén đến mấy thì vẫn là mèo Đen nhà hàng xe, hiểu chưa?
Mắng mỏ từ nãy đến giờ vẫn chưa thỏa mãn, thay vì xắn tay áo, nó giơ chân trước bên phải lên, cào ngược lên tận vai, nói.
– Ngay từ đầu tôi đã biết cậu là Đen rồi mà.
– Biết mà sao còn “vẫn làm, vẫn làm” cái gì? Vẫn nghĩa là thế nào?
Nó tiếp tục trút lửa lên đầu tôi. Nếu là người, chắc tôi đã bị tóm ngực nện cho rồi đấy. Tôi hơi chờn chờn, lòng cảm thấy gay rồi thì lại nghe tiếng bà chủ khi nãy:
– Này Nishikawa, anh Nishikawa ơi, tôi nhờ chút việc đây. Cái anh này, đi đâu rồi. Mang ngay cho một cân thịt bò đây. Nghe thấy chưa? Hiểu chưa? Mang cho một cân thịt bò. Thịt bò mềm ấy.
Tiếng gọi mang thịt bò phá tan bầu không khí yên tĩnh khắp xung quanh.
– Hâm! Một năm mới đặt mua thịt bò một lần mà hét nhắng cả lên. Tự hào với hàng xóm láng giềng chỉ vì một cân thịt bò, rõ đồ dở hơi.
Đen vừa dè bỉu vừa dồn sức vào bốn chân, dướn mình đứng dậy. Tôi biết có nói gì cũng vô ích nên im lặng nhìn.
– Một cân thì chẳng bõ. Nhưng mà thôi, cũng được, cứ mua đi, ta sẽ ăn cho.
Đen làm như người ta đặt mua thịt cho mình vậy.
– Lần này thì cậu được ăn cỗ to rồi, tốt quá. Hay quá.
Tôi nói để mong đuổi hắn về, càng sớm càng tốt.
– Mày biết gì mà nói. Im đi, lắm chuyện.
Hắn nói và bỗng lấy chân sau hất té đầy bùn đất vào đầu tôi. Tôi giật mình, đang còn mải phủi bùn đất trên người thì Đen đã chui qua hàng rào, biến mất. Chắc là đi rình miếng thịt nhà Nishikawa.
Tôi về đến nhà, nghe từ trong phòng khách có tiếng cười vui vẻ, đầy mùa xuân mà ngày thường không có, thậm chí cả ông chủ cũng cười. Tôi leo qua hành lang để ngó, đến gần chỗ ông chủ thì thấy có một vị khách lạ. Vị khách đầu chải mượt, rẽ ngôi, mặc quần Hakama loại Kokura cùng với áo khoác Haori có in gia huy, một người trông rất thư sinh và nghiêm túc. Nhìn trên mép lò sưởi của ông chủ, thấy có tấm danh thiếp để cạnh hộp thuốc lá sơn mài Xuân Khánh, trên đó viết “Mizusima Kangetsu xin giới thiệu anh Ochi Tofu[15], tôi biết đây là bạn của Kangetsu.
Chuyện của chủ và khách đang nói giữa chừng nên không hiểu thế nào nhưng nghe có vẻ có liên quan đến nhà mỹ học Meitei mà trước đây tôi đã giới thiệu. Ông khách nói rất điềm đạm:
– Thầy ấy bảo là có “ý nghĩa”[16] rất hay, nhất định cậu phải đến nhé.
– Sao việc ăn trưa ở nhà hàng Âu ấy mà có ý nghĩa ư?
Ông chủ rót trà, đẩy đến trước mặt khách.
– Chà, cái “ý nghĩa” ấy thì lúc đó em cũng chẳng hiểu gì, nhưng nó như thế nên em cho là chắc có cái gì hay đây.
– Cậu đã đi cùng với hắn à? Ra thế đấy!
– Nhưng thật là kinh ngạc.
Ông chủ vỗ bộp bộp vào đầu tôi, đang nằm trên đùi ông, dường như muốn nói “Đó, thấy chưa?”. Tôi thấy hơi đau.
– Nó lại làm cái trò đó à? Tay này có cái tật ấy mà.
Tự nhiên ông nhớ lại cái vụ Andrea del Sarto.
– Hì hì. Vì thầy ấy bảo là: “Này cậu, ta ăn món gì khác đi một chút chăng?”
– Ăn cái gì vậy?
– Đầu tiên là xem thực đơn rồi nói chuyện về món ăn.
– Trước khi đặt món à?
– Vâng.
– Thế rồi sao?
– Thế rồi thầy ấy ngoẹo cổ, nhìn về phía anh bồi bàn bào chẳng có món gì đặc biệt nhỉ!? Anh bồi cũng không chịu thua, bảo có món vịt quay hay sườn bê gì đó. Thầy ấy bảo mấy cái thứ nhàm chán ấy thì việc gì phải đến tận đây mà ăn? Anh bồi nghe bảo “nhàm chán” thì không hiểu nghĩa là thế nào, mặt ngớ ra, im không nói gì.
– Thế à?
– Thế rồi thầy ấy quay lại, rất hăng say bảo em: “Cậu mà đi Pháp hay đi Anh thì có thể được ăn những món Thiên minh điều (hương vị khách quan) hay Vạn diệp điều (có hình thức, không nội dung) đấy, nhưng ở Nhật Bản này thì đến đâu cũng toàn những món giống nhau như in, mình chẳng muốn vào các tiệm ăn Tây ở đây một chút nào cả”. Thầy ấy đã đi Tây rồi chăng?
– Cái gì? Meitei mà đã đi Tây rồi ấy à? Ừ thì có tiền, có thời gian, muốn đi lúc nào chả được. Có điều lấy việc “sẽ đi” mà nói là “đã đi” để ra bộ cho oai thế thôi.
Ông chủ nói và tự cho là chí lý lắm, cất tiếng cười hề hề. Nhưng khách thì không thấy tỏ ra cảm phục gì lắm.
– Thế à? Thế mà em tưởng thầy ấy đã từng đi Tây rồi, nên nghe cứ tưởng thật. Xem ra thì những món canh sò hay súp ếch cũng toàn do thầy ấy tưởng tượng và bịa ra thôi.
– Chắc là cậu ta nghe ai đó nói. Cậu ta giỏi bịa chuyện lắm.
– Có vẻ thế.
Ông khách vừa ngắm nhìn những cây hoa thủy tiên cắm trong bình vừa như có vẻ đang tiếc một cái gì.
– Thế thì cái gọi là “ý nghĩa” là cái đó chăng?
– Không, đó chỉ là phần mở đầu thôi. Từ bây giờ mới bắt đầu đi vào nội dung chính cơ.
– Chà!
Ông chủ thán phục với vẻ tò mò.
– Sau đó thì thầy ấy bảo, có muốn ăn sò, ăn ếch cũng chẳng được, nên tôi muốn bàn với cậu là ta đành ăn tạm món “tochimenbo” chăng? Em không biết gì nên bảo thế cũng được. hơi lâu
– Tochimenbo à? Lạ nhỉ!
– Vâng, kỳ lạ lắm. Nhưng thầy ấy rất nghiêm chỉnh nên em không nhận ra.
Người khách nói như xin lỗi ông chủ.
– Thế rồi sau đó thế nào?
Ông chủ vô tư hỏi, không hề quan tâm gì đến ý xin lỗi của khách.
– Sau đó thầy ấy gọi bồi, bảo mang cho hai suất mì tochimenbo. Anh bồi hỏi là menchibo phải không? Thầy ấy càng nghiêm nghị hơn, bảo không phải menchibo mà là tochimenbo.
– À, ra thế! Hóa ra, đúng là có cái món tochimenbo không ấy à?
– Vâng, em cũng thấy hơi lạ, nhưng thấy thầy ấy rất điềm tĩnh, lại thông thạo Tây phương như vậy, vả lại lúc đó em cũng tin là thầy ấy đã từng đi Tây nữa, nên em cũng hùa theo, bảo anh bồi là “món tochimenbo”.
– Thế anh bồi ấy làm thế nào?
– Anh bồi ấy thì bây giờ nghĩ lại thấy rất hài hước. Anh ta suy nghĩ một chút rồi bảo “đáng buồn cho quý khách quá, hôm nay rất tiếc là không có tochimenbo. Nếu là menchibo thì chúng tôi có thể làm ngay được hai suất”. Tiên sinh tỏ ra rất tiếc, bảo thế thì hôm nay chúng tôi cất công đến đây chẳng được tích sự gì cả. Nói roi thầy ấy đưa cho anh bồi tờ tiền 20 sen bảo anh xem thế nào, cố gắng cho chúng tôi ăn món tochimenbo đi. Anh bồi bảo để tôi đi hỏi bếp trưởng xem thế nào, rồi đi đâu mất.
– Cậu ta có vẻ muốn ăn món tochimenbo quá nhỉ!
– Một lúc sau, anh bồi ra, bảo thật là trớ trêu quá, nếu các ông đặt thì chúng tôi sẽ làm, nhưng phải chờ hơi lâu mới được. Thầy Meitei rất thản nhiên bảo không sao, ngày tết nên chúng tôi rất rỗi, có thể chờ được. Nói thế rồi thầy ấy móc túi rút thuốc lá ra hút phì phèo. Em cũng rút báo từ trong túi ra đọc. Anh bồi lại đi vào trong để bàn bạc.
– Chà, nhiêu khê, cầu kỳ quá nhỉ.
Ông chủ nói và mời khách ngồi chơi với khí thế chuẩn bị nghe tin chiến sự.
– Thế rồi anh bồi lại đi ra, bảo dạo này vừa mới hết nguyên liệu để làm món tochimenbo. Chúng tôi đã đến tiệm Kameya, sang cả tiệm Jugoban ở Yokohama mà cũng không mua được. Cho nên rất tiếc là bây giờ không thề làm được món này. Thầy ấy nhìn em bảo chán quá nhỉ, cất công đến đây mà không được… Em không thể không nói gì nên cũng hùa theo “vâng, tiếc thật, chán thật”.
– Hết ý đấy!
Ông chủ tán thành. Tôi không hiểu ông bảo cái gì là hết ý?
– Anh bồi cũng tỏ ra thương cảm bảo là mấy hôm nữa có nguyên liệu, xin mời quý khách quay lại. Thầy ấy hỏi thế nguyên liệu của món ấy là gì? Anh bồi cười hề hề, không trả lời. Thầy ấy liền hỏi lại “có phải là những thi nhân trường phái Nhật Bản không?”. Anh bồi bảo vâng, đúng thế ạ. Vì thế cho nên gần đây đi Yokohama cũng không mua được, thật đáng tiếc vô cùng.
– Ha ha… được một bài tấu hài đấy nhỉ.
Ông chủ cười rất to, chưa từng thấy ông cười như thế bao giờ. Đùi ông rung nảy lên, làm tôi suýt bị rơi. Vậy mà ông vẫn cứ cười vô tư. Chắc là ông khoái lắm vì biết không phải chỉ một mình ông đã bị mắc chuyện A. Sarto.
– Sau đó hai người đi ra ngoài. Thầy ấy rất khoái chuyện chơi chữ của mình, bảo em: “Thế nào, cậu thấy tôi nói được không? Lấy Tochimenbo[17] làm đề tài cũng hay đấy chứ hả?” Em định bảo “vâng, rất kính phục” rồi chia tay luôn, nhưng cuối cùng mãi mới được ăn trưa, đói ơi là đói.
– Thật là phiền hà quá nhỉ!
Lần đầu tiên ông chủ bày tỏ sự thông cảm với người khác, về chỗ này thì tôi cũng giống ông chủ. Câu chuyện tạm dừng ở đây. Tiếng kêu phát ra từ cổ họng tôi lọt vào tai ông chủ và vị khách. Anh Tofu uống một hơi cạn chén trà đã nguội, tiếp tục nói chuyện:
– Hôm nay em đến đây, thực ra là có chút việc muốn nhờ thầy.
Ông chủ hưởng ứng ngay:
– Việc gì vậy?
– Như thầy đã biết đấy. Em rất mê văn học, mỹ thuật nên…
Ông chủ cổ vũ:
– Cái đó hay đấy!
– Những người cùng chí hướng tụ tập với nhau, hôm trước đã tổ chức một “Hội ngâm đọc”. Chúng em định mỗi tháng gặp nhau một lần để tiếp tục nghiên cứu theo chiều hướng này. Lần đầu tiên đã tổ chức vào cuối năm ngoái…
– Xin lỗi, anh cho hỏi, nghe nói là “hội ngâm đọc” thì nghe như kiểu đọc thơ, văn theo một loại tiết tấu nào đấy, vậy thì các anh làm như thế nào?
– Chúng em định là đầu tiên thì sẽ đọc những tác phẩm cổ điển, sau dần dần đọc cả tác phẩm đương đại.
– Tác phẩm cổ điển thì như loại Tì bà hành của Bạch Lạc Thiên ấy à?
– Không ạ.
– Hay là loại Xuân phong mã đề khúc của Buson?[18]
– Không ạ.
– Thế thì là cái gì?
– Lần trước chúng em đã ngâm tác phẩm “Chuyện cùng quyên sinh” của Chikamatsu[19].
– Chikamatsu à? Cái ông Chikamatsu của tuồng Tịnh lưu ly ấy à?
Chikamatsu thì làm gì có hai người cơ chứ. Nói là Chikamatsu thì rõ ràng chỉ có nhà soạn kịch ấy chứ còn ai nữa. Vậy mà còn hỏi. Cái ông chủ này đúng là ngu thật! Tôi nghĩ bụng như vậy, nhưng ông ta thì không hề biết, cứ vuốt ve đầu tôi rất tử tế. Trên đời này cũng có cái loài người, một loài mà cứ nhìn nhận sai lầm nên tự cho là mình được ca tụng thế đấy. Cho nên cái sự ngu dốt này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên lắm. Thế là tôi cứ để mặc cho ông ấy vuốt ve mình. Anh Tofu nhìn nét mặt ông chủ, trả lời:
– Vâng ạ.
– Vậy thì một người đọc hay phân vai nhiều người đọc?
– Phân vai cho nhiều người cùng phối hợp làm. Quan trọng nhất là phải thể hiện được tình cảm của các nhân vật trong tác phẩm, làm nổi bật tính cách nhân vật. Giọng đọc phối hợp với động tác tay và người. Lời kịch chủ yếu là thể hiện con người đương thời, dù là một tiểu thư hay một thằng hầu cũng phải giống hệt như nhân vật đó.
– Vậy thì giống như đóng kịch còn gì?
– Chỉ khác là không bài trí quần áo và trang trí sân khấu thôi.
– Xin lỗi cho hỏi, vậy các anh làm có tốt không?
– Vâng, vì là lần đầu tiên nên có thể coi như đã thành công.
– Thế cái vở “cùng quyên sinh” mà anh bảo các anh đã làm thì thế nào?
– Đó là đoạn người lái đò chở khách đến Yoshiwara.
– Làm đúng cái đoạn khó nhất ấy à?!
Ông giáo nói một mình và lắc đầu làm khói thuốc Hinode từ mũi ông phả ra, bay qua tai tôi rồi lại vòng qua mặt ông.
– Cũng chẳng khó lắm đâu ạ. Nhân vật thì chí có người khách, người lái đò, Oiran và người hầu phòng, người sai vặt và người bảo vệ thôi mà.
Đệ tử Tofu trả lời bình thản. Ông chủ nghe đến cái tên Oiran thì hơi nhăn mặt rồi hình như ông không có đủ tri thức về các thuật ngữ “người hầu phòng” “người sai vặt” “bảo vệ” nên hỏi:
– “Người hầu phòng” tức là người hầu của người sương phụ (gái điếm) ấy à?
– Cái này em chưa nghiên cứu kỹ, nhưng người hầu phòng tức là đầy tớ gái trong phòng trà, còn người sai vặt thì giống như một vai phụ nữ nào đó…
Cái anh Tofu này, lúc nãy thì bảo là phải thế hiện đúng như nhân vật ấy xuất hiện trên sân khấu, vậy mà hình như cũng chả hiểu gì tính cách của người hầu phòng, người sai vặt…
– À, thì ra là vậy! Người hầu phòng là người thuộc phòng trà, còn người sai vặt là người đầy tớ thuộc lâu xanh nhỉ. Thế còn “bảo vệ” thì là người hay vọng gác? Là người thì đàn ông hay đàn bà?
– Bào vệ thì em nghĩ nhất định phải là đàn ông.
– Ông ta giữ chức vụ gì nhỉ?
– À, cái đó em chưa tìm hiểu kỹ. Sau này em sẽ nghiên cứu.