Tôi Là Con Mèo

CHƯƠNG 5 PHẦN 1



Muốn ghi hết, đọc hết mọi việc xảy ra trong hai mươi tư tiếng đồng hồ thì ít nhất cũng mất thời gian là hai mươi tư tiếng đồng hồ. Dù là người ủng hộ phương pháp viết tả chân đến mấy, tôi cũng phải tự nhận rằng đó là một trò diễn mà kế hoạch của mèo đặt ra không thể với tới được. Do vậy, mặc dù ông chủ tôi đã biểu diễn những hành động, lời lẽ kỳ quặc, đáng phải miêu tả tỉ mỉ suốt cả ngày đêm ra sao, thì cũng vô cùng đáng tiếc là tôi không đủ năng lực và sự kiên nhẫn để thông báo tỉ mỉ đến độc giả được. Đáng tiếc thật đấy nhưng mà đành chịu thôi. Dù là mèo thì cũng cần phải nghỉ ngơi.
Sau khi ông Suzuki và ông Meitei về rồi, gió lạnh cũng ngừng thổi, tất cả trở nên lặng lẽ như đêm tuyết rơi dầm dề. Ông chủ lại chui vào phòng sách như mọi khi. Bọn trẻ con kê gối nằm cạnh nhau trong gian phòng sáu chiếu. Cách cánh cửa lùa một gian rưỡi, trong căn phòng hướng nam, bà chủ nằm cho bé Men ba tuổi bú. Mặt trời chiều âm u cũng mau lặn. Ngoài đường, tiếng guốc khua vọng vào trong phòng khách nghe rõ như trong tầm tay. Từ nhà trọ phường bên cạnh, tiếng sáo lúc vang lúc tắt, thỉnh thoảng lại đập vào những đôi tai đang buồn ngủ những âm thanh nặng nề. Ngoài trời chắc đã mờ tối. Bữa cơm tối có món canh mọc cá viên, tôi ăn hết những viên bào ngư nên cái bụng lúc này thấy cần được nghỉ.
Nghe nói trong thiên hạ có hiện tượng người ta thích thơ bài hài, và dùng “tình yêu của mèo” gì đó để chỉ mùa xuân, khi mà khắp mọi nơi trong phường, họ nhà mèo đi suốt đêm, quên cả ngủ. Thế nhưng với tôi thì lúc này vẫn chưa gặp được điều gì làm cho tâm trạng khác đi được. Vốn dĩ tình yêu là sức sống của toàn vũ trụ. Từ thần Jupiter trên trời cho đến giun dế trong lòng đất, bằng tình yêu người ta có thể làm thay đổi bản thân mình. Đó là tập quán chung của vạn vật. Vì vậy, họ nhà mèo chúng tôi nếu có tạo nên một cái mốt phong lưu, vui vẻ, làm náo nhiệt thiên hạ thì cũng không có gì là vô lý cả. Ngẫm ra, nói như vậy là tôi cũng có xốn xang trong lòng và nghĩ đến Tam Mao đấy. Ngay cả cô Tomiko, con gái nhà Kaneda, một mẫu mực điển hình của “chủ nghĩa sankaku” nghe nói cũng yêu anh Kangetsu cơ mà?! Vậy thì không có lý do gì để coi khinh, coi thường, cho là một sự băn khoăn phiền toái về việc những con mèo đực, mèo cái cứ vào tiết “chiều xuân ngàn vàng” lại điên cuồng chạy khắp mọi nơi, loạn cả lên như vậy cả. Nhưng tôi thì không thể nào có được tâm trạng đó nên đành chịu. Buồn ngủ như thế này thì không thể yêu được. Tôi lò dò tìm cách chui vào trong chăn của bọn trẻ con, ngủ rất khoan khoái.
Tôi bất chợt mở mắt nhìn thì thấy ông chủ đã rời phòng sách sang phòng ngủ từ bao giờ và nằm trong chăn đệm trải bên cạnh bà chủ. Ông chủ có thói quen khi ngủ bao giờ cũng mang theo những quyển sách viết ngang[1] vào trong phòng ngủ. Nhưng khi nằm xuống thì không bao giờ đọc tiếp đến dòng thứ hai, thậm chí có khi chỉ mang đến để cạnh gối, không thèm sờ tới. Không đọc thì cần gì phải mang vào như vậy? Nhưng đó là đặc tính của ông mà dẫu cho bà vợ có chế giễu hay gàn, ông cũng nhất quyết không nghe. Đêm nào cũng vất vả khuân sách vào phòng ngủ rồi chẳng đọc. Có khi còn nổi máu tham, vác cả ba, bốn quyển một lúc. Trước đây, hằng đêm ông ta còn vác cả cuốn từ điển lớn của Webster vào nữa cơ. Xem ra đây là một thứ bệnh của ông chủ. Giống như có người giàu có, xa hoa, đêm đêm mà không nghe tiếng nước sôi của cái ấm sắt Long văn Đường thì không thể ngủ được, có lẽ ông chủ này nếu không đặt sách dưới gối thì cũng không ngủ được chăng? Xem ra sách đối với ông chủ không phải là thứ để đọc mà là một dụng cụ để ru ngủ. Đó là một loại thuốc ngủ được in ấn.
Không biết tối nay có sách gì không nhỉ? Tôi thử nhìn thì thấy một quyển sách mỏng, bìa đỏ mở sẵn vứt lăn lóc cạnh bộ râu của ông. Ngón tay cái bên tay trái ông vẫn kẹp trong trang sách nên có lẽ hôm nay là trường hợp đặc biệt kỳ lạ, ông đã đọc được năm, sáu dòng rồi chăng? Cùng với quyển sách màu đỏ, chiếc đồng hồ Nickel bỏ túi nằm cạnh, toát lên một màu lạnh giá, chẳng hợp với mùa xuân chút nào.
Bà chủ vứt đứa con nhỏ đang bú mẹ ra xa chừng một thước, nằm há mồm ngáy, đầu trật khỏi gối. Có lẽ con người không có gì trông chán hơn là khi nằm ngủ, há miệng ra một cách khổ sở. Mèo thì suốt đời không bao giờ gây ra chuyện đáng xấu hổ này. Vốn dĩ mồm là để phát ra âm thanh, còn mũi thì để hít thở không khí. Đi ngược xa lên phía bắc thì con người trở nên vô tình, cố sức không mở miệng nên kết quả là có lúc gừ gừ như nói bằng mũi. Nhưng nếu mũi bị tắc, chỉ dùng miệng để thở phì phì thì còn khó chấp nhận hơn cả gừ gừ nữa. Trước hết là rất nguy hiểm, phân chuột từ trên trần nhà có thể rơi vào mồm.
Tôi nhìn sang những đứa trẻ thì tư thế nằm ngủ của chúng cũng không thua kém gì bà mẹ. Con chị Tonko dang rộng cánh tay phải, gác lên tai con em như muốn tuyên bố quyền làm chị là như thế này đây.
Con em Sunko, để trả thù lại, gác một chân lên bụng chị. Cả hai đều đã xoay 90 độ so với tư thế ngủ ban đầu. Tuy vậy cả hai đều ngủ rất say, không ai phàn nàn gì và cứ giữ mãi tư thế bất tự nhiên này.
Ánh đèn mùa xuân quả thật cũng có khác. Đằng sau cảnh tượng vừa ngây thơ vừa hết sức thiếu thanh lịch ấy, ánh đèn chiếu ngời ngợi, dịu dàng như luyến tiếc đêm đẹp. Không biết lúc này là mấy giờ rồi? Tôi nhìn quanh một lượt khắp phòng, tất cả đều im lặng như tờ, chỉ có tiếng đồng hồ treo trên tường, tiếng ngáy của bà chủ và phía xa hơn là tiếng nghiến răng của cô sen. Cô này, nếu có ai bảo cô là nghiến răng khi ngủ thì bao giờ cô cũng cãi không phải vậy. Cô ta cứ nhất định “từ bé đến giờ tôi chưa bao giờ nghiến răng cả” chứ không hứa là sẽ sửa hay nói “tội nghiệp quá”, chỉ một mực “không thể có chuyện đó”. Thì ra đó là nghệ thuật biểu diễn khi ngủ nên người ta không thể nhớ được. Nhưng sự thực thì dù không nhớ nó vẫn tồn tại, thế mới khổ. Trên đời này có nhiều người làm việc xấu nhưng bao giờ cũng nghĩ mình là người tốt. Cái này nếu vì tin là mình không có tội mà vô tư thì cũng được. Nhưng sự thật là người khác bị làm phiền thì không thể vô tư mà lờ đi được. Những nam thanh nữ tú kiểu này cũng thuộc loại cô sen này đây.
Đêm có vẻ đã khuya lắm.
Cửa chớp ở nhà bếp có tiếng gõ nhẹ bộp bộp hai lần. Quái lạ, chẳng lẽ có ai đến vào giờ này? Chắc lại bọn chuột mọi khi chăng? Chuột thì nhất định là tôi không bắt rồi, cứ tha hồ mà làm gì thì làm… Lại có tiếng va bộp bộp, có vẻ không phải chuột. Nếu là chuột thì đây là loại chuột biết giữ gìn ý tứ cẩn thận lắm. Chuột nhà ông chủ này cũng giống như bọn trò của trường ông, dù ban đêm hay ban ngày, chúng cũng say sưa đập phá, làm loạn cả lên, cứ như thiên chức của chúng là phải phá hoại, làm kinh hoàng giấc ngủ của ông chủ tội nghiệp vậy. Vì thế chúng không thể giữ gìn ý tứ kiểu này. Nhất định đây không phải là chuột. So với những con chuột hôm trước đã đột nhập vào phòng, ngoạm cả cái mũi không lấy gì làm cao lắm cùa ông chủ, rồi ung dung ca khúc khải hoàn, kéo nhau đi thì hành động này bạc nhược quá. Quyết không thể là chuột. Lần này có tiếng nâng cánh cửa chớp từ dưới lên trên nghe “két” một cái, đồng thời là tiếng đẩy cánh cửa lùa rất nhẹ. Đúng là không phải chuột rồi. Người. Giữa đêm khuya thế này, không có ai ra đón mà tự mở cửa lẻn vào thì nhất định không thể là thầy Meitei hay ông Suzuki được. Rất có thể là tay ẩn sĩ kẻ trộm nổi tiếng mà tôi vẫn được nghe nói đến tên cũng nên. Chà, chà, nếu là ẩn sĩ thì tôi muốn mau chóng được xem khuôn mặt đáng kính của ông ta ra sao?
Ẩn sĩ bước bàn chân to lớn đi cả giày lên thềm và tiến độ hai bước. Đến bước thứ ba thì vấp phải mảnh ván lát trồi lên, gây tiếng động đánh chát một cái, vang trong đêm. Lông tôi dựng ngược hết cả lên như bị chải ngược bằng bàn chải đánh giày. Trong khoảnh khắc, không nghe thấy tiếng bước chân. Tôi nhìn bà chủ thấy bà vẫn há hốc mồm, ra sức hít thở bầu không khí yên bình. Ông chủ thì có lẽ vẫn đang mơ là ngón tay bị kẹp trong quyển sách đỏ chăng. Một lúc sau, nghe có tiếng bật diêm trong bếp. Mặc dù là ẩn sĩ nhưng xem ra mắt cũng không nhìn được trong đêm tối như tôi. Chắc là không quen nên nhất định là bất tiện rồi.
Lúc này tôi vừa cuộn mình nằm phục xuống thềm vừa nghĩ ẩn sĩ sẽ vòng từ cửa bếp sang phòng nghỉ hay rẽ tay trái qua cửa hiên rồi vào phòng sách? Tiếng bước chân cùng với tiếng cửa lùa đi về phía thềm hành lang. Cuối cùng ẩn sĩ đã vào phòng sách, rồi im bặt không thấy động tĩnh gì nữa.
Trong thời gian này tôi đã nhận thấy là phải nhanh chóng đánh thức hai vợ chồng ông chủ dậy, nhưng làm thế nào để đánh thức đây? Mãi vẫn không nghĩ ra được cách, chỉ có ý nghĩ thì cứ quay cuồng trong đầu như cái guồng nước, không thể phân biệt được gì nữa. Hay là ngậm cái mép chăn mà kéo thử xem? Tôi nghĩ thế và làm thử hai ba lần nhưng vô hiệu quả. Tôi lại nghĩ hay là cọ cái mũi lạnh của mình vào má ông chủ và tôi đưa mũi đến trước mặt ông. Ông chủ vẫn cứ ngủ, chỉ đưa tay đẩy mũi tôi ra cách thô bạo, thật đáng ghét. Đối với mèo, mũi cũng là một chỗ nhạy cảm, rất đau. Không còn cách nào khác tôi phải kêu meo meo hai lần để đánh thức nhưng không hiểu sao chỉ riêng lúc này có cái gì vướng trong họng, không kêu thành tiếng như ý muốn được. Tôi lấy hết sức kêu cũng chỉ phát ra được tiếng rất nhỏ và trầm làm tôi ngạc nhiên.
Quan trọng nhất là ông chủ thì có vẻ chẳng thức dậy gì cả, trong khi đó thì đột nhiên lại nghe tiếng bước chân của ẩn sĩ. Tiếng bước chân truyền qua hành lang nghe xoẹt xoẹt, đang đến gần. Thế là đến rồi. Thế này thì hỏng rồi. Tôi đành phó mặc, nấp vào giữa cái rương và cánh cửa lùa, lắng nghe động tĩnh trong một lát.
Tiếng bước chân đi đến trước phòng ngủ thì im bặt. Tôi nín thở, cố nghe xem tiếp theo cái gì sẽ xảy ra? Sau này nghĩ lại mới thấy, khi rình bắt chuột có lẽ cũng không như thế này, cứ như là hồn vía sắp nhảy hết ra từ hai con mắt vậy. Thật là may mắn, nhờ có ẩn sĩ mà tôi đã được một lần giác ngộ, không bao giờ có thể lặp lại lần thứ hai nữa.
Bỗng dưng, cái khung ô cửa thứ ba, chỗ chính giữa, thay đổi màu, giống như bị nước mưa thấm ướt. Những thứ nhìn thấy qua ô cửa đó có màu hồng nhạt rồi sẫm dần. Sau đó giấy dán cửa bị rách từ lúc nào, qua lỗ thủng, nhìn rõ một cái lưỡi đỏ. Cái lưỡi nhanh chóng biến mất vào bóng đêm. Thay vào đó, từ bên kia lỗ thủng, xuất hiện một vật gì phát sáng dễ sợ. Không còn nghi ngờ gì nữa, đó chính là con mắt của ẩn sĩ. Cái kỳ lạ là tôi có cảm giác đôi mắt ấy không nhìn cái gì trong phòng mà chỉ chằm chằm nhìn vào mỗi tôi đang nấp sau cái rương đan bằng cành liễu. Chỉ chưa đến một phút, nhưng tôi cảm thấy bị nhìn thế này thì đến giảm tuổi thọ mất. Không thể chịu đựng nổi, tôi đang định nhảy ra khỏi chỗ nấp thì cánh cửa xoẹt mở, cái người ẩn sĩ mà tôi chờ đợi ấy đã ở ngay trước mắt tôi.
Tôi rất vinh dự sẽ giới thiệu với quý vị một cách trình tự về vị ẩn sĩ kẻ trộm, vị khách hiếm lạ bất ngờ này. Nhưng trước đó, tôi xin có một ý kiến nhỏ, làm phiền tới các bậc cao kiến.
Các vị thần cổ đại vẫn được tôn thờ như các đấng toàn trí toàn năng. Chúa Trời của Ki tô giáo, cho đến tận thế kỷ 20 này cũng vẫn mang bộ mặt toàn trí toàn năng này. Nhưng cái “toàn trí toàn năng” mà con người phàm tục vẫn nghĩ ấy, tùy từng lúc mà có thể hiểu đó là “vô trí vô năng” cũng được. Đây rõ ràng là một nghịch thuyết (Paradox). Tuy nhiên, từ thuở khai thiên lập địa đến nay, chỉ có mỗi mình tôi là kẻ đả phá cái nghịch thuyết này, cho nên tự bản thân mình, tôi cũng thấy trào lên một niềm tự hào “mình chả mèo chút nào cả”. Vì vậy, ở đây tôi muốn nêu ra lý do ấy để mà nhắc nhở cho loài người ngạo mạn biết rằng không thể coi thường chúng tôi được đâu, dù cho chúng tôi là mèo.
Người ta bảo Chúa làm ra tất cả trời đất, vạn vật. Từ đó suy ra, con người cũng là một sản phẩm của Chúa. Nghe đâu hiện nay trong kinh thánh vẫn ghi rõ ràng như vậy. Về cái “con người” này thì từ hàng nghìn năm nay họ tự quan sát mình, cho rằng ta rất lạ kỳ, huyền diệu và họ ngày càng nghiêng về thừa nhận sự toàn trí toàn năng của Chúa. Chính con người chứ không phải ai khác, mặc dù đông lúc nha lúc nhúc như vậy, nhưng trên đời này chẳng có một ai giống ai cả. Tất nhiên về cái dụng cụ gọi là mặt thì độ lớn tương đối giống nhau. Nói một cách khác thì tất cả họ đều được chế tạo bằng một thứ vật liệu như nhau. Họ đều hình thành từ một vật liệu như nhau nhưng kết quả thì không có một ai giống ai cả. Cứ nghĩ rằng chỉ bằng một thứ nguyên liệu đơn giản như vậy mà có thể nghĩ ra được bao nhiêu bộ mặt như thế thì không thể không khâm phục tài năng nhà sáng chế. Không có sức tưởng tượng độc đáo thì làm sao có thể có sự thay đổi biến hóa như thế được? Một họa sĩ suốt cuộc đời dốc hết tâm trí, sức lực để tìm tòi sự khác nhau thì cũng chỉ sáng tạo được mười hai, mười ba loại mặt là cùng. Từ đó mà suy ra thì không thể không khâm phục bàn tay của Chúa, bàn tay đã tự mình đảm nhận làm ra cả loài người, là một bàn tay đặc biệt được. Chí ít thì đó cũng là một tài năng không thể tìm ra trong xã hội loài người. Cho nên có cho đó là “toàn trí toàn năng” thì cũng được. Về điểm này, con người rất cảm phục Chúa và quả thật nếu theo sự quan sát của con người thì cũng đáng cảm phục thật.
Nhưng nếu theo lập trường của mèo thì cùng một sự việc có thể hiểu ngược lại rằng đó là bằng chứng nói lên sự vô năng của Chúa. Nếu như không phải là hoàn toàn vô năng thì cũng có thể khẳng định rằng Chúa không phải có năng lực hơn con người đâu. Chúa đã sáng chế ra bao nhiêu con người với bấy nhiêu bộ mặt. Nhưng phải chăng ngay từ đầu Chúa đã dự định và biết là như vậy? Hay chẳng qua Chúa định làm tất ráo trọi, mặt nào cũng giống mặt nào, nhưng làm hỏng, không làm được nên mới dẫn đến tình trạng hỗn tạp như thế? Việc tạo ra bộ mặt con người này được coi như sự ghi nhận thành công của Chúa, đồng thời cũng có thể hiểu đó là chứng tích về sự thất bại của Chúa. Có thể gọi là toàn năng hay đánh giá là vô năng cũng không sao cả.
Mắt của người gồm có hai cái, đứng cạnh nhau trên một mặt phẳng, nên không thể cùng một lúc nhìn cả hai phía phải trái. Cho nên con người thật đáng thương hại, bao giờ cũng chỉ nhìn thấy một nửa của sự vật. Nếu đứng ở một góc độ khác mà nhìn thì những sự thật đơn giản như thế này vẫn luôn xảy ra suốt ngày đêm trong xã hội của họ. Vậy mà họ tâng bốc Chúa, bị Chúa nuốt chửng mất nên mới không ngộ ra.
Nếu trong chế tạo, làm ra những cái khác nhau là khó, thì làm ra những cái giống hệt nhau từ đầu chí cuối cũng khó như vậy. Nếu yêu cầu Raphael vẽ hai bức chân dung Đức mẹ không được khác nhau một chút xíu nào cũng giống như bắt ông cho ra hai bức Madonna hoàn toàn khác nhau, thì đối với Raphael đây là một sự phiền toái. Biết đâu việc vẽ hai bức tranh khác nhau về cùng một vật, ngược lại, lại khó hơn cũng nên. Nếu yêu cầu Quảng Pháp đại sư[2] hãy viết lại đúng hệt như bút pháp của Không Hải, biết đâu còn làm cho ông khổ hơn là bảo ông hãy thay đổi kiểu chữ đi.
Tiếng mẹ đẻ mà con người vẫn dùng, được truyền dạy hoàn toàn theo chủ nghĩa bắt chước. Con người hàng ngày khi học nói từ mẹ đẻ, từ nhũ mẫu hay từ những người xung quanh, chỉ hoàn toàn là bắt chước, lặp lại như tai nghe được chứ không có một chủ ý nào cả. Nghĩa là chỉ bắt chước theo bản năng mà thôi. Cái thứ tiếng nói hình thành do bắt chước như vậy, qua 10, 20 năm thì tự nhiên phát âm cũng khác dần, điều đó chứng tỏ con người không có khả năng mô phỏng hoàn toàn. Việc mô phỏng thuần túy là một việc hết sức khó khăn như thế đó. Cho nên nếu Chúa làm ra được những con người ai cũng giống ai như cái mặt nạ Okame thì cũng có thể chứng minh được sự toàn năng của Chúa đấy. Còn khi mà Chúa tạo ra để chường dưới gầm trời những cái mặt khác nhau đến rối cả mắt như hiện nay, thì đó là chứng cớ cho phép ta suy ra sự vô năng của Chúa.
Tôi cũng quên mất tại sao tôi lại cần đưa ra ý kiến tranh luận này. Quên một cái cơ bản gốc rễ cũng là cái thường xảy ra ở con người. Vì vậy mong quý vi hãy nhìn đại khái, coi đó là đương nhiên đối với mèo thôi. Chỉ biết là, khi mèo nhìn thấy người ẩn sĩ kẻ trộm mở cửa phòng ngủ, lù lù hiện ra trước mắt mình thì ý nghĩ này tự nhiên trào lên trong ngực, thế thôi. Trào lên ư? Tại sao? Nếu có ai hỏi như vậy thì bây giờ tôi phải nghĩ lại và lý do nó là thế này:
Khi tôi nhìn thấy bộ mặt tên kẻ trộm hiên ngang xuất hiện trước mặt mình thì đó là một cái mặt có đặc điểm rất đủ để đánh tan những nghi ngờ thường ngày đối với kết quả tốt đẹp của sự sáng chế hay là sự vô năng của Chúa. Nó có đặc điểm là nhìn thoáng qua một lần thì không thể nào quên được. Cái đặc điểm ấy thật ra không có gì khác là nó giống hệt anh Mizushima Kangetsu của chúng ta như hai giọt nước. Tất nhiên tôi không có nhiều bạn bè tri kỷ là kẻ trộm, nhưng qua những hành vi thô bạo của chúng, thì không phải là tôi không tưởng tượng ra và vẽ trong tâm trí mình nét mặt của chúng. Tôi tự cho cái mặt của chúng chỉ nhỏ bằng đồng kẽm một chinh, cái đầu thì nhất định phải là lơ quả gáo. Nhưng giữa cái nhìn thấy và cái tưởng tượng ra lại khác nhau một trời một vực. Sự tưởng tượng chẳng hề dồi dào phong phú chút nào cả. Ẩn sĩ này lưng thẳng tắp, lông mày nét ngang đen nhạt, một tay kẻ trộm thực thụ về chí khí. Hắn độ chừng hai lăm, hai sáu tuổi. Về điểm này cũng sao nguyên như của Kangetsu. Nếu Chúa cũng có khả năng tạo ra được hai cái mặt giống nhau như thế này thì không thể coi là vô năng được. Thực ra mà nói, giống đến mức tôi đã nghĩ hay là anh Kangetsu bị điên, nên đang đêm khuya khoắt mà cũng nhảy đến đây chăng? Chỉ có điều, dưới mũi hắn không để bộ râu đen nhạt nên tôi biết đó là người khác.
Anh Kangetsu là một chàng trai thông minh lanh lợi, một tạo vật được chế tạo cẩn thận đến mức dễ dàng cuốn hút tiểu thư Kaneda Tomiko, người được Meitei mệnh danh là một cái tem nhỏ biết đi. Nhưng ẩn sĩ này nhìn tướng người mà xét thì cũng không chịu thua anh Kangetsu, dù chỉ một bước, về mặt hấp dẫn đối vói phụ nữ đâu. Nếu như tiểu thư Kaneda say mê bờ môi khóe mắt của anh Kangetsu mà lại không bị anh kẻ trộm này hút hồn với cùng một độ say đắm thì không hợp nghĩa lý nhân tình. Nhân tình là thứ vốn không hợp với luân lý. Một người có tài năng như thế, có tố chất có thể hiểu ngay bất cứ cái gì như thế, thì một việc thế này, dù cho không có ai mách bảo cũng nhất định sẽ hiểu được thôi. Từ đó mà suy ra, nếu đem tay kẻ trộm này thay thế anh Kangetsu thì nhất định cũng sẽ được yêu hết mình và tạo nên một cuộc duyên ưa phận đẹp chứ không sai đâu. Nếu như trước những lời thuyết pháp của Meitei mà anh Kangetsu bị dao động, làm cho mối lương duyên thiên cổ này bị tan vỡ thì một khi vẫn còn có những người như ẩn sĩ đây, không có gì đáng phải lo ngại cả. Nghĩ trước về diễn biến của sự kiện trong tương lai, tôi thấy yên tâm về tiểu thư Kaneda. Anh kẻ trộm này tồn tại trong thế gian là một sự cần thiết rất lớn để đảm bảo hạnh phúc cho cuộc đời cua tiểu thư Tomiko.
Ẩn sĩ cắp một cái gì ở bên nách. Nhìn kỹ hóa ra là cái chăn cũ mà ông chủ vứt vào phòng sách trước. Hẳn mặc một cái áo hanten[3] vải, thắt bằng cái dây đai quần áo ngủ. Bắp chân từ đầu gối trở xuống để trần và một chân vừa đặt lên sàn chiếu. Ông chủ từ nãy đến giờ vẫn đang mơ ngón tay bị kẹp trong quyển sách, lúc này bỗng trở mình đánh rầm môt cái miệng kêu “Kangetsu”. Ẩn sĩ giật mình, làm rơi chiếc chăn, bàn chân vừa thò lên chiếu vội vã rụt lại. Bóng hai cái cẳng chân thon dài đứng nguyên và hơi run run phía sau tấm cửa giấy. Ông chủ làu bàu cái gì đó, hất quyển sách ra, gãi soàn soạt cái cánh tay đen thui như thể người bị hắc lào. Sau đó lại tiếp tục ngủ im, đầu trật ra khỏi gối. Tiếng gọi “Kanketsu” có vẻ hoàn toàn chỉ là tiếng nói mê mà bản thân ông không hề hay biết.
Ẩn sĩ đứng yên ngoài hành lang, quan sát động tĩnh một lúc, biết vợ chồng ông chủ đang ngủ say, lại bước một chân lên sàn chiếu. Lần này không nghe tiếng gọi Kangetsu nữa. Thế là hắn cho nốt chân kia lên. Gian phòng rộng 6 chiếu được ngọn đèn mùa xuân rọi sáng khắp cả, bị cái bóng của ẩn sĩ cắt nghiến ra làm hai phần rạch ròi, một nửa tường, từ chỗ cái rương đến chỗ qua đầu tôi, tối đen. Tôi quay lại nhìn thì vừa đúng lúc bóng cái mặt của ân sĩ đang lờ mờ ngọ ngoạy ở chỗ chiều cao 2/3 bức tường. Dù là bóng của người đẹp trai, nhìn hình thù vẫn kỳ dị như quỷ tám đầu.
Ẩn sĩ nhìn từ trên cao xuống mặt bà chủ đang ngủ rồi không hiểu sao tủm tỉm cười. Tôi thật ngạc nhiên, ngay đến kiểu cười cũng là mô phỏng của anh Kangetsu. Cạnh gối của bà chủ có đặt một cái hòm gỗ đóng đanh, mỗi chiều chừng 1 thước rưỡi, thước sáu (khoảng 45,50 cm), trông có vẻ rất quý giá. Đây là hòm khoai mỡ mà anh Tatara Sanpei, công dân phố Karatsu, xứ Hizen[4] hôm trước về quê mang lên làm quà. Bày biện khoai làm vật trang trí trong phòng ngủ là một chuyện rất hiếm thấy và kỳ lạ. Nhưng bà chủ đây thuộc loại người rất nghèo nàn về quan niệm, nếu như phải cân nhắc xem để đường nguyên liệu kho nấu vào trong tủ đồ dùng tùy thân thì có thích hợp hay không. Có lẽ vì thế đối vói bà, khoai chứ dẫu có là củ cải muối thì để trong phòng ngủ vẫn cứ là bình thường. Nhưng ẩn sĩ này không phải là Chúa nên không thể hiểu được đây là người đàn bà như thế, và không phải là không có lý khi cho rằng cái thứ được để trân trọng bên người thế này, quyết phải là thứ của quý. Ấn sĩ nâng thử hòm khoai lên và có vẻ rất mãn nguyện vì thấy nó nặng đúng như mong muốn.
Ái chà, định ăn trộm khoai à? Tôi nghĩ và tự nhiên thấy buồn cười, một anh chàng đẹp trai như thế này mà lại đi ăn trộm khoai ư? Nhưng nếu lên tiếng thì nguy hiểm nên tôi đành im lặng nín chịu. Cuối cùng ẩn sĩ bắt đầu cung kính gói khoai vào cái chăn len cũ. Hắn nhìn quanh xem có cái dây gì để buộc không thì may có cái dây thắt lưng vải mà khi ngủ ông chủ tháo ra, vứt cạnh đó. Ấn sĩ dùng dây lưng này buộc chặt chỗ gói khoai rồi khoác lên lưng chẳng mấy khó khăn. Một hình ảnh mà phái nữ chẳng ưa thích lắm!
Sau đó hắn lấy hai cái áo khoác của trẻ con nhét vào trong cái quần lót dệt kim của ông chủ, làm cho phần đùi ống quần phồng lên như con rắn hổ mang nuốt con ếch. Hay nói cho dễ hình dung hơn là trông giống như con rắn bụng chửa to sắp đến tháng đẻ. Tóm lại là một hình thù rất kỳ quặc. Nếu có ai không tin, bảo là tôi nói dối thì cứ làm thử mà xem. Ẩn sĩ quấn chiếc quần dệt kim đó lên cổ. Sau đó tưởng hắn làm gì thì hắn trải cái áo bằng sợi xe của ông chủ ra như một tấm vải gói lớn, gói vào trong đó cái tấm đai lưng của bà chủ, quần và áo khoác haori của ông chủ cùng tất cả các thứ vặt vãnh khác. Cách làm thành thạo và khéo léo của hắn hơi đáng phục. Sau đó hắn nối cái dây nâng đai lưng và ruột thắt lưng của bà chủ lại, buộc cái gói này và xách ở tay. Hắn nhìn quanh xem còn gì có thể lấy được nữa không thì thấy gói thuốc lá Asahi ở cạnh đầu ông chủ, liền nhặt ném vào ống tay áo. Sau đó lại rút một điếu thuốc từ trong gói, chìa vào đèn châm lửa, hít mạnh một hơi thật sâu, hút vẻ ngon lành. Khói thuốc màu trắng đục như sữa, quyện quanh bóng đèn, còn chưa tan hết thì tiếng bước chân ẩn sĩ đã xa dần ngoài hành lang và không còn nghe thấy nữa. Vợ chồng ông bà chủ vẫn ngủ say. Không ngờ con người lại lơ đãng đên như vậy.
Tôi cũng lại cần phải nghỉ một chút. Nếu cứ tường trình mãi thì cơ thể không cầm cự nổi. Tôi ngủ say tít và mở mắt ra thì trời tháng ba đã sáng bảnh. Lúc đó ở cửa bếp, ông bà chủ đang nói chuyện với cảnh sát:
– Vậy nó vào từ cửa này và vòng sang phòng phải không? Lúc đó ông bà đang ngủ và không hay biết gì, có đúng không?
– Vâng. – Ông chủ trả lời có vẻ không dứt khoát lắm.
– Vậy thì bị mất trộm vào khoảng lúc mấy giờ?
Người cảnh sát tuần tra hỏi một câu hỏi rất vô lý làm sao mà trả lời được. Nếu đã biết được là mấy giờ thì làm gì còn bị mất trộm? Vậy mà ông bà chủ cũng không hiểu được điều đó, cứ hăng hái bàn bạc đế tra lời câu hỏi này.
– Mấy giờ nhỉ?
– Ồ, mấy giờ nhỉ?
Bà chủ suy nghĩ. Có lẽ bà tưởng là cứ suy nghĩ thì sẽ biết được chăng?
– Đêm qua mình đi ngủ lúc mấy giờ?
– Tôi đi nằm sau 12 giờ đêm.
– Vâng, còn em thì đi ngủ trước mình.
– Ông bà thức dậy vào lúc mấy giờ?
– Lúc 7 rưỡi.
– Vậy thì kẻ trộm vào nhà lúc khoảng mấy giờ?
– Nhất định là vào trong đêm.
– Vào trong đêm thì biết rồi, nhưng muốn biết là lúc mấy giờ kia.
– Chính xác là lúc nào thì phải suy nghĩ kỹ mới biết được.
Bà chủ lại định suy nghĩ nữa.
Người cảnh sát chẳng qua chỉ hỏi lấy lệ chứ có quan tâm gì đến mấy giờ mấy phút đâu. Tôi nghĩ cứ nói bịa hay nói đại khái thế nào mà chả được. Thế mà ông bà chủ cứ trả lời ấm a ấm ớ, nghe mà sốt cả ruột. Khi người cảnh sát bảo “Vậy thì thời điểm mất trộm là không rõ, được không?” thì bà chủ vẫn giọng như cũ, trả lời:
– Vâng, có lẽ vậy.
Người cảnh sát cũng chẳng cười, bảo:
– Vậy thì ông bà hãy viết một tờ giấy ghi rõ ngày… tháng… năm Minh Trị 38[5], khi chúng tôi đóng cửa, đang ngủ thì kẻ trộm đã mở cửa nào, chỗ nào, lẻn vào phòng nào, phòng nào, lấy đi những thứ mà chúng tôi tố cáo như sau… Nhớ đây là tố cáo chứ không phải trình báo, và không ghi tên thì tốt hơn.
– Phải viết rõ từng thứ đồ vật à?
– Vâng, phải ghi rõ như là mấy cái áo khoác, trị giá bao nhiêu… Thôi, bây giờ tôi có vào xem xét cũng chả để làm gì. Đằng nào thì cũng đã bị lấy rồi.
Người cảnh sát thản nhiên nói như vậy rồi về. Ông chủ mang bút mực ra giữa phòng nghỉ, gọi bà vợ đến trước mặt, rồi với một giọng như bắt đầu cãi nhau, bảo:
– Bây giờ tôi bắt đầu viết tờ trình mất trộm đây, cô hãy nói từng cái bị mất là cái gì đi, nào, nói đi.
– Không nói. Kiểu đâu ra lệnh như thánh tướng “nào, nói đi, nói đi” như vậy thì ai mà thèm nói.
Bà chủ nói và ngồi phịch xuống, lưng vẫn quấn chiếc dây đai mỏng.
– Ăn mặc kiểu gì thế? Trông cứ như những cô hầu phòng trong lầu xanh ấy. Sao không thắt cái đai lưng cho nó tử tế?
– Nếu dây này không được thì mua cho tôi cái khác đi. Lầu xanh hay lầu gì thì cũng bị mất trộm rồi, làm thế nào được?
– Lấy trộm cả cái đai lưng à? Thật quá đáng. Thế thì bắt đầu ghi từ cái đai lưng vậy. Cái đai là thuộc loại đai nào?
– Loại đai nào? Làm gì mà có lắm loại thế. Cái đai bằng sa tanh đen pha đũi ấy.
– Đai lưng sa tanh đen pha đũi, một chiếc. Giá bao nhiêu?
– Khoảng 6 yên.
– Láo thật, dám dùng cái đai lưng đắt như vậy. Từ nay cô chỉ được dùng loại 1 yên rưỡi thôi.
– Làm gì có loại đai như vậy. Cho nên mình đúng là người tệ bạc, vợ có ăn mặc rách rưới bẩn thỉu thế nào cũng chẳng bận tâm.
– Thôi, được rồi. Tiếp theo là cái gì?
– Áo khoác Haori lụa. Đó là di vật của bác Kono để lại, tuy cùng là lụa gấm nhưng giá trị khác với lụa gấm bây giờ.
– Không phải giải thích nhiều như vậy, giá là bao nhiêu?
– 15 yên.
– Mặc cái áo khoác 15 yên thì không hợp với địa vị của cô đâu.
– Mặc kệ tôi, có phải là của mình mua cho tôi đâu.
– Tiếp theo là gì nữa?
– Một đôi tất màu đen.
– Của cô à?
– Của mình đấy. Giá 27 sen.
– Cái gì nữa?
– Một thùng khoai mỡ.
– Lấy cả thùng khoai à? Nó định luộc lên hay là mài ra ăn sống nhỉ?
– Định làm gì thì ai mà biết, mình đi mà hỏi nó.
– Bao nhiêu tiền?
– Tôi không biết giá khoai.
– Vậy thì cứ cho là 12 yên 50 sen đi.
– Dở hơi à? Dù có là khoai mang từ Karatsu đến thì cũng làm gì có khoai tới 12 yên rưỡi như vậy được.
– Nhưng cô chả bảo là không biết giá là gì?
– Vâng, tôi không biết. Không biết nhưng mà cái giá 12 yên 50 sen thì không chấp nhận được.
– Không biết giá nhưng lại biết là 12 yên rưỡi thì không được, thật chả logic tí nào cả. Vậy cho nên cô mới là ngài O-tan-chin pa-re-o-ro-ga-su[6] mà.
– Cái gì?
– Là otanchin peorogasu.
– Cái gì? Cái otanchin peorogasu ấy là cái gì?
– Là gì cũng được. Tiếp theo là cái gì? Còn áo Kimono của tôi vẫn chưa ghi vào đây nhỉ?
– Tiếp theo là cái gì cũng được nhưng hãy cho tôi biết otanchin peorogasu có nghĩa là thế nào?
– Chẳng có nghĩa gì cả.
– Vậy thì sao không cho tôi biết? Mình là chúa coi thường tôi đấy, chắc là nghĩ người ta không biết tiếng Anh nên nói xấu cái gì đó chứ gì?
– Đừng có nói vớ vẩn nữa, nhanh lên, để nói sau cũng được. Không đi trình báo sớm thì không lấy lại được đồ mất trộm đâu.
– Đằng nào thì bây giờ có đi báo cũng chẳng kịp nữa rồi. Hãy nói cho tôi biết otanchin pereorogasu nghĩa là cái gì còn quan trọng hơn đi trình báo.
– Cô này lắm chuyện nhỉ. Đã bảo là không có nghĩa gì cả mà.
– Thế thì đồ vật cũng chẳng còn gì nữa cả.
– Ngoan cố nhỉ. Vậy thì mặc xác cô, tôi không viết giấy trình báo cho cô nữa.
– Tôi cũng chẳng nói cho mình biết số lượng những cái bị mất trộm nữa. Giấy trình báo là tự mình mình làm lấy, mình không viết thì tôi cũng chả việc gì.
– Vậy thì thôi.
Ông chủ lại như mọi khi giận dỗi đứng lên, bỏ vào phòng sách. Bà chủ thì bỏ ra phòng khách, ngồi xuống trước giỏ khâu. Cả hai cùng yên lặng, bất động nhìn cánh cửa trong khoảng 10 phút.
Vừa lúc đó có tiếng mở cửa rất mạnh, anh Tatara Sanpei, người gửi tặng khoai mỡ, bước vào. Anh Tatara Sanpei vốn là học trò ở đây, bây giờ đã tốt nghiệp đại học luật, làm việc ở phòng khoáng sản của công ty. Đây cũng là một nhà doanh nghiệp tương lai, hậu sinh của ông Suzuki Tojuro. Vì mối quan hệ cũ, anh Sanpei thỉnh thoảng vẫn ghé thăm mái lều nhà thầy cũ, có hôm chủ nhật ở chơi cả ngày rồi ngủ lại, là người thân quen với gia đình.
– Chào cô ạ. Ôi, trời đẹp quá!
Anh ta cúi chào trước mặt bà chủ với cái giọng nhà quê Karatsu.
– A, anh Tatara.
– Thầy đi đâu rồi ạ?
– Không, ở trong phòng sách ấy.
– Thưa cô, thầy cứ học hành nghiên cứu thế thì hại lắm. Thỉnh thoảng mới có một ngày chủ nhật, cô ạ!
– Anh nói với tôi thì cũng chẳng được gì, anh hãy nói như vậy cho thầy của anh nghe đi.
– Thế nhưng mà…
Anh Sanpei nói rồi nhìn đảo quanh phòng, hỏi:
– Hôm nay các em cũng không ở nhà nhỉ?
Vừa nói chưa dứt lời thì Tonko và Sunko đã từ phòng bên cạnh chạy sang:
– Anh Tatara, hôm nay anh có mang sushi đến không?
Con chị Tonko nhớ lời hẹn hôm trước, vừa nhìn thấy mặt Sanpei đã hỏi. Tatara gãi đầu gãi tai thú lỗi:
– Nhớ kỹ thế nhỉ! Lần sau nhất định anh sẽ mang đến, hôm nay anh quên mất.
– Chán quá!
Con chị vừa nói xong con em cũng bắt chước:
– Chán quá!
Bà chủ đã nguôi ngoai, mặt hơi tươi tỉnh lại.
– Không có sushi nhưng mà có khoai mỡ đấy, các em đã ăn chưa?
– Khoai mỡ là cái gì?
Con chị hỏi và con em lại bắt chước hỏi Sanpei “khoai mỡ là cái gì?”.
– Vẫn chưa ăn à? Nhanh lên, bảo mẹ luộc cho ăn đi. Khoai mỡ của Karatsu ngon lắm, không như khoai của Tokyo đâu.
Sanpei tự hào khoe khoai quê mình làm bà chủ nhớ ra, cảm ơn:
– Anh Tatara, hôm trước anh cho nhiều khoai thế, cảm ơn anh chu đáo quá.
– Thế nào? Đã ăn thử chưa ạ? Khoai đã được lèn chặt trong thùng để khỏi bị gãy, chắc là vẫn còn nguyên củ dài chứ ạ?
– Nhưng… Chẳng mấy khi được cho khoai quý như vậy mà đêm qua bị kẻ trộm lấy mất rồi.
– Kẻ trộm à? Đồ mất dạy hỗn láo quá. Sao lại có cái thằng thích khoai mỡ đến thế nhỉ?
Sampei nói với vẻ thán phục. Con chị hỏi:
– Mẹ ơi, đêm qua kẻ trộm vào nhà mình à?
Bà chủ khẽ trả lời “ừ”.
– Kẻ trộm vào nhà, kẻ trộm vào nhà, thế kẻ trộm trông mặt thế nào hả mẹ?
Lần này là con em hỏi. Với câu hỏi hiếm lạ như vậy, bà chủ không biết trả lời thế nào nên bảo:
– Trông sợ lắm.
Rồi bà quay nhìn anh Tatara.
– Trông sợ thế thì giống mặt anh Tatara à?
Con chị hỏi lại một cách không khoan nhượng.
– Mày nói cái gì hỗn thế hả?
– Ha ha… mặt tôi trông đáng sợ thế kia hả, gay quá nhỉ?
Tatara nói, tay vò đầu. Phía sau đầu Tatara có một đám hói đường kính khoảng một tấc (3,03 cm). Đám hói xuất hiện từ cách đây khoảng một tháng, đã đi khám bác sĩ nhưng xem chừng khó chữa được. Người đầu tiên nhìn thấy đám hói này là con chị Tonko, nó reo:
– Ôi, đầu anh Tatara sáng bóng, giống đầu mẹ.
– Đã bảo không được nói hỗn mà!
Con em hỏi:
Mẹ ơi, đầu thằng kẻ trộm đêm qua cũng sáng loáng à?
Cả bà chủ lẫn anh Tatara đều bất chợt phì cười, song vì phiền quá nên chẳng nói chuyện được. Cuối cùng bà chủ đuổi:
– Thôi, chủng mày ra ngoài sân chơi đi. Đi đi rồi mẹ cho kẹo ngon.
Bà quay sang hỏi rất nghiêm túc:
– Đầu anh Tatara bị làm sao vậy?
– Bị hói rồi, không thể chữa được. Cô cũng bị à?
– Không, không phải bị hói mà là vì chỗ búi tóc thì phụ nữ ai cũng bị như thế một chút thôi.
– Hói là do nấm khuẩn (bacteria) đấy.
– Đầu tôi không phải là do nấm.
– Thế thì cô là người rất cứng rắn đấy.
– Không phải cái gì cũng là bacteria đâu. Thế “hói” tiếng Anh là gì?
– Là “bald” gì đó.
– Không, không phải thế, có tên gì dài hơn kia, phải không?
– Hỏi thầy thì sẽ biết ngay mà.
– Thầy anh nhất định không nói cho nên tôi mới phải hỏi anh đấy.
– Em chỉ biết mỗi từ “bald” thôi. Từ dài hơn là từ như thế nào?
– Là otanchin pereorogasu. Có phải otanchin là hói, còn pereorogasu là đầu, phải không?
– Có thể là như vậy, để em đi vào phòng sách của thầy em sẽ tra từ điển Webster cho cô. Nhưng thầy cũng lạ quá nhỉ, trời đẹp thế này mà cứ ở lì trong nhà. Cô ạ! Cứ như thế này thì bệnh dạ dày không thể khỏi được đâu. Cô phải khuyên thầy đi Ueno mà xem hoa một tí đi.
– Anh dẫn ông ấy đi đi. Phụ nữ nói ông ấy không bao giờ nghe cả.
– Dạo này thầy vẫn ăn mứt kem à cô?
– Vâng, vẫn thế.
– Hôm trước thầy có thổ lộ là “vợ mình kêu mình ăn mứt kem rất dữ, gay thật. Mình nghĩ mình đâu có ăn nhiều như vậy”. Thầy bảo là chắc có sự nhầm lẫn gì đấy chăng? Vậy thì chắc là cả cô và các em cũng ăn, phải không?
– Ôi, cái anh Tatara này, sao anh lại nói thế.
– Nhưng trông cô thì đúng là người đã ăn mứt kem đấy!
– Sao nhìn mặt mà lại biết được?
– Không biết được, nhưng mà cô cũng có ăn một tí chút chứ?
– Ừ, thì cũng có ăn một chút. Ăn cũng được chứ sao, của nhà mình chứ có phải của ai đâu?
– Ha ha… đúng thế. Nhưng cái vụ kẻ trộm thì đúng là tai bay vạ gió nhỉ. Nó chỉ lấy có khoai mỡ thôi à?
– Nếu chỉ có khoai không thì không đến nỗi. Nó lấy tất cả quần áo mặc hàng ngày.
– Trước mắt là gay rồi nhỉ? Thế có lại phải vay nợ nữa không? Giá mà con mèo này là chó thì có phải tốt không, thật chán quá! Cô ạ, nhất định phải nuôi lấy một con chó thật to vào. Mèo chả được cái tích sự gì cả, chỉ ăn thôi… Thế có bắt được con chuột nào không?
– Chưa bao giờ bắt được một con chuột nào, thật là một con mèo trơ tráo, lười biếng.
– Trời, thế thì không thể được, phải vứt ngay đi thôi. Hay là cho em, em mang về làm thịt ăn vậy.
– Ôi, anh Tatara ăn thịt mèo à?
– Ăn chứ! Thịt mèo ngon lắm.
– Thật là hảo hán nhỉ.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.