Chào! Tiến sĩ Hoffer thốt lên, tay vẫn còn để trên tay cầm cửa phòng thay đồ. Các cậu làm tôi giật mình. Tôi không ngờ có người ở đây.
Hannibal vẫn còn run, nhưng cố mỉm cười.
– Tụi cháu đang thám hiểm, Hannibal nói.
Hoffer băng qua ngưỡng cửa phòng thay đồ, bước vào nhà thờ. Ba thám tử thấy được một căn phòng nhỏ phía sau ông, với cánh cửa dẫn ra ngoài.
– Các cậu nên cẩn thận, Hoffer nói. Đây là đất nhà tư nhân, thuộc dòng họ Lewinson. Họ sở hữu một căn nhà to lớn phía bên kia ngọn đồi. Tôi được phép vào đây, nhưng tôi sợ họ không thích người lạ đâu.
Tiến sĩ Hoffer ngồi xuống các bậc thềm ngăn cách khu vực bàn thờ với phần nhà thờ còn lại.
– Thật đáng kinh ngạc là mọi thứ vẫn như xưa, Hoffer nói. Có một tòa nhà trống không ở vùng gần đây, thế là tôi bắt gặp ba cậu đang thám hiểm. Lúc còn trẻ tôi cũng làm y như các cậu. Khi bằng tuổi các cậu, có một ngôi nhà không người, gần nhà tôi ở Milwaukee. Chúng tôi tìm ra được một cửa sổ không khóa, đột nhập vào và lập trụ sở câu lạc bộ ở trên tầng mái. Chỗ đó rất thích, không bị những người như bố mẹ hay thầy cô tràn vào quấy phá.
Tiến sĩ Hoffer ngưng nói, nhảy mũi. Tiến sĩ lấy chiếc khăn tay, chậm mắt.
– Lại cái vụ sốt cỏ ấy mà, tiến sĩ nói. Tôi luôn hay bị dị ứng với các thứ. Chính vì thế mà tôi quan tâm đến hệ miễn nhiễm.
Tiến sĩ đứng dậy.
– Hôm nay đi như vậy là đủ rồi, ông nói. Có một cái gì đó trong không khí không thích hợp với tôi. Các cậu về làng bây giờ chưa? Tôi khuyên các cậu không nên thám hiểm xa hơn. Edward Lewinson có tiếng là hay bắn súng vào những kẻ xâm phạm đất nhà ông.
– Y như một người mà tụi cháu biết rồi, Hannibal trả lời. Newt MacFee.
– Vậy thì về làng đi, Peter nói.
Ba thám tử đi theo tiến sĩ Hoffer qua phòng thay đồ.
– Chú quan tâm đến bệnh dị ứng à? Hannibal hỏi trong khi cả nhóm đâm vào rừng. Nhưng chú đã trở thành nhà miễn nhiễm học. Cháu cứ tưởng những người lo về bệnh dị ứng là bác sĩ dị ứng chứ.
– Đúng vậy, Hoffer nói. Tuy nhiên điều này dẫn đến điều kia. Miến nhiễm cũng là một loại phản xạ dị ứng.
– Thế à? Bob kêu.
Hoffer gật đầu.
– Cơ thể ta có nhiều cách thức để bảo vệ. Cơ thể ta sản sinh ra một thứ gọi là kháng thể. Kháng thể tiêu diệt các vi khuẩn và virút xâm nhập vào, hoặc hủy bỏ những chất độc từ vi khuẩn hay virút. Chẳng hạn, nếu ta bị bệnh sởi, thì cơ thể sẽ sản sinh ra kháng thể để đấu tranh chống lại bệnh. Khi đã bị rồi, thì ta sẽ không mắc bệnh đó nữa, bởi vì kháng thể vẫn còn lại trong ta. Ta nói rằng cơ thể đã được miễn nhiễm chống lại bệnh sởi.
Bây giờ giả sử cơ thể ta sản sinh ra kháng thể để phản ứng lại với những thứ không làm phiền đa số người khác. Ví dụ ta bị dị ứng một loại phấn hoa nhất định nào đó. Cơ thể sẽ sản sinh ra kháng thể phản ứng với phấn hoa, và sẽ cho ra một hợp chất hóa học gọi là histamine. Chất này khiến mũi ta sưng lên, nước mắt chảy ròng ròng.
Thế là hệ miễn nhiễm của ta cứu mạng ta khi đấu tranh chống lại bệnh tật, nhưng cũng có thể làm cho ta rất khổ sở khi vượt qua mức kiểm soát. Tôi tin còn nhiều bệnh tật của người là do hệ miễn nhiễm bị hư hỏng hơn là người ta nghĩ.
Tiến sĩ Hoffer có vẻ nghiêm trang.
– Hệ thống tự vệ là tài sản lớn nhất của ta, mà cũng là mối đe dọa lớn nhất đối với ta. Trong phòng thí nghiệm, tôi có những con chuột sống trong lồng kính kín, được bảo vệ khỏi các bệnh lây nhiễm. Tôi đã thành công trong việc làm chập mạch hệ miễn nhiễm của chúng, chúng sẽ sống lâu hơn những con chuột không được bảo vệ. Dĩ nhiên là chúng đặc biệt dễ bị bệnh tật tấn công bởi vì chúng không có cách nào để tự vệ. Nhưng nếu tôi học được cách làm thay đổi phản ứng của chúng, điều hòa được hệ miễn nhiễm của chúng, thì chúng sẽ có thể sống được ngoài lồng kính mà vẫn tránh được những bệnh tật giết chết đồng loại.
Bây giờ thử tưởng tượng xem điều khiển được hệ miễn nhiễm có ý nghĩa như thế nào đối với loài người. Thử nghĩ đến một thế giới không có những bệnh tật khủng khiếp kia!
Hoffer gật đầu.
– Cũng rất đáng công chứ! Tiến sĩ nói. Những gì Karl Birkensteen làm với trí thông minh là hoàn toàn hão huyền, và có lẽ cũng nguy hiểm. Còn Brandon thì như một đứa trẻ đang vui đùa với những khúc xương bụi bặm. Những gì tôi làm rất thực tế và có tác dụng hệ trọng ngay lập tức.
Cả nhóm đã đến cánh đồng phía sau nhà MacFee. Hoffer đứng lại để bắt tay ba thám tử. Rồi ông ông đi tiếp, lên đồi về hướng hội.
Có bầu im lặng sững sờ khi ông đi. Rồi Peter nói:
– Được rồi. Mình đã được thuyết phục rồi. Mình xin đề cử tiến sĩ Hoffer nhận giải thưởng Spicer một triệu đô-la.
Hannibal chỉ gật đầu. Ba thám tử tiếp tục đi xuống đường đến quán cà phê.
Nay, đám đông trong thành phố đã thưa hơn, không còn phải chờ đợi để được xếp chỗ ngồi. Ba thám tử ăn tối sớm, bình tĩnh bàn luận về những sự kiện trong ngày.
– Một vụ rất kỳ quặc, Peter kết luận. Đúng là quái dị. Cả thành phố lăn đùng ra ngủ say, rồi một người tiền sử lang thang tản bộ.
– Mà ta đã có dấu chân của người tiền sử, Hannibal nói, nếu đúng là của người tiền sử. Ta có thể biết được gì từ dấu chân? Ta có nên đưa cho tiến sĩ Brandon xem không? Ông ấy đã quen suy luận ra mọi việc từ những manh mối như một mẩu xương hay một đâu chân trong bùn. Nếu có mối liên quan giữa đâu chân trên bãi cỏ và người tiền sử, thì ông ấy sẽ nhận thấy ngay.
– Babal ơi, không thể nào là người tiền sử được, – Bob nói.
– Có thể là không, nhưng có một dấu chân trần của người trên bãi cỏ, và John Du mục thề thốt là đã nhìn thấy một người tiền sử. Chắc chắn tiến sĩ Brandon sẽ rất quan tâm đến chuyện này, đúng không?
– Thôi được, Bob nói. Có lẽ nên thử.
Ba thám tử ăn xong bữa tối, vội đi về kho thóc, lấy mẫu đúc dấu chân từ trong túi ngủ của Hannibal. Rồi cả ba đi đến Hội Spicer, gặp ông Brandon trong phòng làm việc.
Brandon đang ngồi trước một bàn bày đầy giấy tờ sách vở. Ông nhìn lên khi ba thám tử bước vào. Ba thám tử sợ ông sẽ lên cơn tam bành la hét. Nhưng khi ông đóng quyển sách đang đọc, ba bạn thấy được rằng ông không giận dữ, chỉ đang tập trung vào những gì đang làm.
– Sao? Tiến sĩ hỏi. Có chuyện gì vậy?
– Tụi cháu muốn xin ý kiến, Hannibal nói, và có thể xin thông tin. Thưa tiến sĩ Brandon, tụi cháu đang ở trọ trong kho thóc ông Newt MacFee, và từ cửa sổ trên đó, tụi cháu thấy được viện bảo tàng. Tối hôm qua, có một vụ lộn xộn xảy ra tại đó.
Hannibal tiếp tục kể về chuyện kỳ lạ của John Du mục và việc tìm thấy dấu chân trên cánh đồng. Rồi thám tử trưởng lấy mẫu đúc dấu chân cho Brandon xem.
– Dĩ nhiên là không thể nào tin rằng người tiền sử đã bước đi trên cánh đồng, Hannibal nói. Nhưng có kẻ đã bước đi, mà chú thì quen với việc suy luận sự việc về con người qua những chứng cớ còn nhỏ hơn dấu chân này.
– Khi nghe cậu ăn nói như thế, tôi có cảm giác như đang sống lại một câu chuyện thám tử thế kỷ thứ mười chín, – Brandon mỉm cười đáp rồi bỏ mẫu đúc thạch cao lên bàn. Thôi được, nếu các cậu hy vọng về một sinh thể tiền sử, thì đây không phải, Brandon nói tiếp. Kẻ đã để lại dấu chân này quen đi giầy. Khi người ta đi chân không suốt, thì bàn chân phải rộng lớn, các ngón chân bẹt ra. Kẻ đã để lại dấu này có bàn chân thon hẹp. Ngoài ra lại có ngón chân khoằm nữa, điều không thể có đối với một người không đi giầy.
– John Du mục khẳng định là đã nhìn thấy một người tiền sử, Bob nói. John Du mục bảo kẻ đó có mái tóc dài bù xù và khoác tấm da thú.
James Brandon phá lên cười.
– Bộ các cậu thật sự nghĩ người tiền sử mặc quần áo à? Tôi không biết John Du mục tưởng mình nhìn thấy cái gì, nhưng kẻ để lại dấu chân này không phải là người tiền sử. Không những bàn chân quá hẹp, cho dù có giả sử rằng một sinh thể thuộc họ người chết rồi mà lại có thể đi lang thang, thì cái chân này to quá.
– To quá à? Peter ngạc nhiên hỏi lại. Nhưng chân rất nhỏ! Chỉ có hai mươi hai phân thôi.
– Sinh thể nguyên thủy rất nhỏ, Brandon đáp. Tôi có lấy số đo của bộ hóa thạch trong hang động, và xét kích thước bộ xương, tôi cho rằng người tiền sử của ta cao khoảng chín mươi lăm phân khi ở tư thế đứng thẳng đi lang thang. Kẻ để lại dấu chân này cao ít nhất một mét sáu.
Brandon bước đến một tủ kê tựa vào tường.
– Khi đi châu Phi, – ông nói, tôi may mắn tìm được một bộ xương hóa thạch đầy đủ cổ xưa gần hai triệu năm. Nó nhỏ hơn sinh thể họ người ở Citrus Crove, nhưng xem nó, các cậu sẽ có được khái niệm.
Brandon mở khóa hai cánh cửa tủ, kéo thật rộng ra.
Rồi ông đứng đó như bị hóa đá, há miệng nhìn kệ tủ trống trơn trước mặt.
– Mất rồi! Ông kêu khẽ.
Rồi ông hít thở thật sâu trước khi hét lên.
– Mất! Mất rồi! Có kẻ đã lấy cắp bộ xương họ người của tôi!