Émile Hay Là Về Giáo Dục
QUYỂN BỐN P3
Chính các đam mê của mình kích thích chúng ta chống lại các đam mê của người khác; chính lợi ích của chúng ta làm cho chúng ta căm ghét những kẻ độc ác; nếu như họ không làm gì hại cho chúng ta, thì chúng ta sẽ thương hại nhiều hơn căm ghét họ. Điều tệ hại mà kẻ ác tạo ra cho chúng ta làm chúng ta quên mất điều tệ hại mà bọn chúng làm cho chính mình. Chúng ta tha thứ dễ dàng hơn các thói xấu của chúng nếu chúng ta biết được tự trong lòng chúng trách phạt mình biết bao nhiêu. Chúng ta nhận ra tội lỗi nhưng không thấy sự trừng phạt; lợi thế thì bộc lộ ra ngoài còn nỗi đau lặn vào bên trong. Kẻ nào tưởng hưởng thụ được thành quả của các thói hư tật xấu của mình thì cũng bị day dứt chẳng kém khi không kiếm chác được gì; mục tiêu bị thay đổi nhưng sự khắc khoải vẫn như nhau; chúng uổng công phô trương vận may và giấu kín tâm địa chúng, nhưng hành vi của chúng lột trần điều đó ra ngoài ý muốn của chúng: mà để thấy điều đó thì chúng cần phải có một điều nào tương tự.
Những đam mê mà chúng ta chia sẻ hấp dẫn chúng ta; những đam mê nào động chạm đến lợi ích của chúng ta khiến chúng ta bị kích động và do một sự khinh xuất chúng gây ra cho chúng ta, chúng ta lại trách người khác về cái mà chúng ta muốn bắt chước họ. Sự oán ghét và ảo tưởng là không sao tránh khỏi khi ta buộc phải chịu đau khổ từ người khác vì điều ác mà ta sẽ gây ra nếu ta ở vào vị trí của người đó.
Vậy thì phải làm gì để quan sát cho rõ con người? Phải có nhiều thích thú khi tìm hiểu họ, còn phải thật vô tư khi xét đoán về họ, phải có một trái tim đủ nhạy cảm để hiểu được mọi đam mê của con người và đủ bình thản để đừng thử nếm trải chúng. Nếu như trong cuộc sống có một thời điểm thuận lợi cho việc nghiên cứu này thì đó là thời điểm mà tôi đã chọn cho Émile: Nếu sớm hơn, thì những người này thật xa lạ với cậu ta, nếu chậm hơn cậu ta lại thấy mình giống như họ. Dư luận mà cậu ta nhìn thấy sự vận động vẫn chưa chế ngự được cậu; những đam mê mà cậu nhận ra tác dụng của nó không hề lay động trái tim cậu. Cậu là người đàn ông, quan tâm đến những người anh em; cậu công bằng, cậu xét đoán về những người cùng trang lứa với mình. Mà chắc chắn rằng nếu cậu xét đoán đúng về họ thì cậu chẳng muốn ở vào địa vị của bất cứ ai trong bọn họ, bởi vì cái đích của mọi nỗi băn khoăn day dứt mà họ tự chuốc lấy đều là dựa trên những thành kiến mà cậu không có; đối với cậu, đó là chỉ như một cái đích vu vơ, vô nghĩa. Đối với cậu, mọi cái cậu muốn đều ở ngang tầm tay. Liệu cậu có lệ thuộc vào ai khi mà cậu tự mình thấy là đủ cho mình và tự do không bị trói buộc bởi các thành kiến? Cậu có những cánh tay, có sức khỏe[202], biết sự chừng mực, có ít nhu cầu và có thể thỏa mãn những nhu cầu ấy. Được nuôi dưỡng trong sự tự do hoàn hảo nhất, điều tệ hại lớn nhất mà cậu quan niệm là sự lệ thuộc. Cậu ái ngại cho các vua chúa đáng khinh ấy, trở thành nô lệ cho bất cứ kẻ nào vâng lời họ; cậu ái ngại cho những người giả bộ hiền minh ấy, bị trói buộc vào danh vọng hão; cậu ái ngại cho bọn trọc phú ấy, những kẻ thống khổ vì sự xa hoa của mình, cậu ái ngại cho những kẻ khoái lạc để phô trương ấy, dành cả cuộc đời mình cho nỗi buồn chán để ra vẻ có lạc thú. Cậu sẽ còn ái ngại cho cả kẻ thù đã làm hại chính cậu; bởi lẽ trong sự độc ác của chúng, cậu nhìn ra sự khốn khổ của chúng. Cậu tự nhủ rằng: Vì muốn làm hại mình mà con người ấy đã đem số phận của hắn phụ thuộc vào số phận của mình.
Còn một bước nữa là chúng ta đến đích. Lòng tự ái là một phương tiện hữu ích, nhưng nguy hiểm; thường là nó gây thương tổn cho bàn tay sử dụng nó, và ít khi làm được điều thiện mà không đi kèm với cái ác. Émile vì nhận rõ thứ bậc của mình trong loài người và thấy mình thật hạnh phúc được ở cương vị ấy sẽ coi công trình lý trí của các vị là công lao của lý trí cậu ta, và coi hiệu quả hạnh phúc của cậu ta là thành tích của lý trí ấy. Cậu tự nhủ mình thì đứng đắn còn mọi người đều điên cả. Trong khi thương hại họ, cậu sẽ khinh rẻ họ; trong khi tự khen mình cậu sẽ tự quý trọng mình hơn; và khi thấy mình hạnh phúc hơn họ, cậu sẽ cho rằng mình xứng đáng để hưởng hạnh phúc hơn. Đấy là cái sai lầm đáng sợ nhất vì đó là sai lầm khó sửa nhất. Nếu cậu còn tiếp tục giữ tâm thể ấy thì cậu sẽ chóng thu nhận được mấy ở những chăm sóc của chúng ta; và nếu phải lựa chọn thì tôi chưa biết liệu tôi có ưa ảo tưởng của các thành kiến hơn ảo tưởng của thói kiêu ngạo không.
Các vĩ nhân không hề lạm dụng ưu thế của họ; họ biết là mình có ưu thế, họ cảm nhận được như thế nhưng không hề vì thế mà kém phần khiêm nhường. Họ càng có nhiều thì họ lại càng biết những gì họ còn thiếu. Họ ít tự phụ về sự nổi trội của họ so với chúng ta và họ thấy tự ti nhiều hơn vì ý thức về nỗi khốn khổ của họ; với trong những lợi thế đặc hữu của mình, do họ quá biết điều nên không tự phụ về một tư chất mà họ không tự làm ra cho mình, Người có từ tâm thì có thể tự hào về đức độ của mình, bởi vì đức độ thuộc về họ, nhưng người có tài trí thì tự hào về cái gì? Racine đã làm gì để không phải là Pradon? Boileau đã làm gì để không phải là Cotin?
Ở đây lại còn là một chuyện khác hẳn nữa. Chúng ta hãy vẫn ở nguyên trong trật tự chung. Tôi không cho rằng ở người học trò của tôi có một tài năng siêu việt hay một lý trí bị hạn chế. Tôi đã chọn nó trong số những đầu óc thông thường để chứng tỏ cái mà giáo dục có thể làm được cho con người. Mọi trường hợp hiếm gặp đều là ngoại lệ. Vậy có vì những kết quả chăm sóc của tôi mà Émile ưu thích cách sống, cách nhìn nhận, cách cảm nhận của mình hơn cung cách của những người khác thì Émile có lý đấy; nhưng khi cậu ta vì điều đó mà cho rằng mình có một bản chất tốt đẹp hơn, sinh ra đã may mắn hơn so với những người kia thì Émile sai rồi: Cậu ta lầm lẫn; cần phải làm cho cậu ta tỉnh ngộ hay đúng hơn là ngừa trước sai lầm vì sợ rằng sau này muốn diệt trừ sai lầm ấy thì quá muộn.
Không có cuồng vọng nào mà ta không thể chữa khỏi được cho một con người chẳng phải là người điên, ngoài tính kiêu căng; đối với cái thói ấy thì chỉ có thể chữa được bằng sự trải nghiêm, nếu như dù sạo cũng có thể sửa được vài điệu; ít ra là có thể ngăn cản nó phát triển ngay lúc nó nảy sinh. Vậy các vị đừng lạc vào những lập luận hay ho để chứng minh cho thanh niên rằng nó cũng là người như những con người khác và cũng có những nhược điểm của họ. Hãy làm cho nó cảm nhận điều đó hoặc là chẳng bao giờ nó biết được điều đó ở đây lại vẫn là một ngoại lệ cho các quy tắc riêng của tôi, đó chính là trường hợp cố ý đưa học trò của tôi lâm vào một tai biến có thể chứng tỏ rằng nó không khôn ngoan hơn chúng ta. Sự phiêu lưu của nhà ảo thuật sẽ lặp lại bằng hàng ngàn cách khác nhau, tôi sẽ để cho những kẻ nịnh hót chiếm hoàn toàn lợi thế đối với nó: Nếu những kẻ dại dột có lôi kéo nó vào vài trò ngông cuồng gì đó thì tôi sẽ để cho nó bị nguy hiểm đe đoạ; nếu bạn cờ bạc bịp có tấn công nó trong ván bài thì tôi cũng để kệ cho hắn bị chúng lừa[203]; tôi cũng kệ cho nó bị bọn nịnh hót, bóc lột, ăn trộm sạch; và khi nó đã bị lấy sạch và bọn chúng sẽ kết thúc cuộc chơi bằng sự chế giễu nó, tôi sẽ cảm ơn chúng nữa kia về các bài học chúng đã vui lòng dạy cho nó. Chỉ riêng có các cái bẫy mà tôi hết sức thận trọng tránh cho nó khỏi bị vướng vào, đó là bẫy của bọn đàn bà đĩ thõa. Những sự nương nhẹ duy nhất của tôi đối với nó là tôi sẽ chia sẻ với nó mọi nguy hiểm mà tôi để cho nó bị đe dọa và mọi điều lăng nhục mà tôi đã mặc cho nó chuốc lấy. Tôi sẽ chịu đựng mọi điều trong im lặng, không than vãn, không trách mắng, chẳng bao giờ nói với nó về chuyện ấy một lời, cứ cho rằng ở ông thầy chỉ có những hiểu biết hạn chế như hiểu biết của nó, và xin quý vị hãy tin rằng bằng sự thận trọng được giữ gìn lâu bền ấy, mọi điều mà nó sẽ được thấy tôi phải chịu đựng vì nó sẽ gây được nhiều ấn tượng trong long nó hơn điều mà nó sẽ phải tự mình chịu lấy.
Tôi không sao đừng được việc nêu lên ở đây sự trang nghiêm giả tạo của các gia sư, vì muốn đóng vai hiền minh một cách ngu ngốc mà hạ thấp giá trị của học trò mình, cố ý đối xử với chúng luôn luôn như là với trẻ con và bao giờ cũng tỏ ra tách biệt cao đạo với chúng trong mọi việc mà họ bảo chúng phải làm. Đừng làm giảm dũng khí tuổi trẻ của chúng như vậy, mà cũng đừng tiếc gì sức mình để nâng cao tâm hồn chúng; hãy đối xử ngang hàng với chúng để cho chúng trở nên xứng đáng với vị thế ấy; và nếu chúng vẫn còn chưa tự nâng mình nên ngang hàng với các vị, thì các vị hãy xuống thấp ngang với chúng mà không hổ thẹn, không ngại ngần gì. Các vị hãy nghĩ rằng vinh dự của các vị không còn ở chỗ các vị nữa mà đang ở chỗ học trò của mình; hãy chia sẻ các lỗi lầm của nó đã giúp nó sửa đối. Hãy gánh vác lấy sự hổ thẹn của nó để xóa đi; hãy bắt chước người La Mã trung hậu nọ, khi thấy đoàn quân của mình tháo lui mà không sao tập hợp lại được, ông ta bèn chạy lên hàng đầu đoàn quân và thét lên: Quân ta không tháo chạy đâu mà đang theo người chỉ huy của mình. Liệu rằng ông ta có mất danh dự của mình về chuyện ấy không? Đâu phải như vậy, vì hy sinh vinh dự của mình như thế mà ông ta đã tăng vinh dự ấy lên nhiều. Sức mạnh của nghĩa vụ, cái cao đẹp của đức hạnh dù ta không muốn cũng khiến chúng ta tán thành và lật ngược những thành kiến điên rồ của chúng ta. Nếu như tôi bị một cái tát khi đang làm tròn chức trách của mình bên cạnh Émile, thì thay vì trả thù về cái tát ấy, tôi sẽ đi khắp nơi rêu rao về nó và tôi sợ rằng trên đời này làm sao có được lấy một người đủ hèn hạ[204] để không vì chuyện này mà tôn trọng tôi hơn lên.
Không phải người học trò cần giả định ở ông thầy những hiểu biết cũng chỉ hạn chế như hiểu biết của nó và cũng dễ dàng bị cám dỗ như nó. Ý kiến này là đúng cho một đứa trẻ khi còn chưa biết gì, chưa biết so sánh gì hết, đặt tất cả mọi người ngang tầm với nó và chỉ tin vào những người nào biết thực sự đặt mình vào vị thế ấy. Nhưng một thanh niên ở lứa tuổi Émile và cũng có ý thức như cậu ấy thì không còn đủ ngu ngốc để cho mình bị lừa phỉnh như thế, và sẽ không tốt nếu anh ta bị lừa phỉnh. Lòng tin mà học trò phải có đối với người gia sư của mình thuộc về một loại khác: Lòng tin ấy phải căn cứ vào uy tín của lẽ phải, vào tầm cao hơn của sự hiểu biết, những lợi thế mà chàng thanh niên có khả năng biết được và cảm thấy có ích cho mình. Một sự trải nghiệm lâu dài đã thuyết phục anh ta rằng, anh ta được người hướng dẫn của mình yêu quý; rằng người hướng dẫn này là một người thông thái và đúng đắn, ông ta vì mong muốn cho anh được hạnh phúc mà biết cái gì có thể đem lại cho anh ta hạnh phúc ấy. Anh ta phải biết rằng, vì lợi ích của chính mình, anh ta nên nghe theo lời khuyên của ông. Mà nếu như ông thầy lại để mình bị lừa giống như đệ tử của mình, thì ông ta mất cái quyền đòi hỏi được đồ đệ tôn trọng và cái quyền cho anh ta các bài học. Học trò lại càng cần ít nghĩ rằng, ông thầy cố ý để anh ta rơi vào các cạm bẫy và giăng bẫy cho sự chất phác của anh ta. Vậy phải làm sao đây để tránh được đồng thời cả hai điều bất lợi ấy? Cách tốt nhất và tự nhiên nhất: Sống giản dị và thật thà như anh ta, cảnh báo cho anh ta những nguy hiểm mà anh ta đang lâm vào; chỉ cho anh ta thấy rõ ràng và để cho anh ta cảm nhận được, nhưng không nói quá mức cần thiết, không cáu giận, không phô trương sáng suốt rởm, nhất là đừng để sự cảnh báo của các vị thành các mệnh lệnh, chờ cho đến lúc những lời cảnh báo này cần phải như thế, và cho đến lúc cái giọng ra lệnh ấy hoàn toàn cần thiết. Liệu nó có khăng khăng giữ ý định của mình sau việc này chăng, như nó vẫn hay làm thế. Lúc đó xin đừng nói thêm gì với nó nữa; xin hãy cứ để nó tự do hành động, xin hãy theo nó, bắt chước nó sao cho thật vui vẻ, thành thật, hãy buông mình, hãy vui chơi như nó nếu có thể. Nếu các hậu quả trở nên quá nghiêm trọng thì các vị vẫn luôn luôn ở đó chặn chúng lại; và trong khi đó chàng trai, chứng kiến sự tiên đoán của quý vị và sự chiều chuộng của các vị lại chẳng xiết bao ngạc nhiên vì tài tiên đoán đồng thời xúc động vì sự ân cần chiều ý hay sao! Mọi lỗi lầm của nó đều là bấy nhiêu mối dây liên hệ mà nó cung cấp cho các vị để giữ nó lại khi cần. Mà ở đây cái tạo nên nghệ thuật cao tay nhất của người thầy là tìm cơ hội và lựa lời cổ vũ để biết trước được lúc nào nó sẽ chịu nghe lời mình và lúc nào nó sẽ cứ như bỏ ngoài tai, nhằm bủa vây nó khắp mọi nơi bằng các bài học của sự trải nghiệm mà không bao giờ để nó lâm vào những nguy hiểm quá lớn.
Hãy chỉ bảo cho nó các lỗi lầm của nó trước khi nó sa vào: Khi nó đã phạm lỗi thì đừng quở trách gì hết, vì như thế các vị sẽ chỉ kích thích và xúi giục long tự ái của nó mà thôi. Một bài học gây sự tức giận thì chẳng ích gì. Tôi không thấy có gì ngu xuẩn hơn là câu: Tôi đã nói rất rõ về điều ấy với cậu từ trước rồi kia mà. Cách tốt nhất làm cho nó ghi nhớ những gì người ta nói với nó là tỏ ra như ta đã quên các điều đó rồi. Trái lại, khi các vị thấy nó xấu hổ vì đã không tin các vị thì hãy xóa bỏ nỗi nhục ấy một cách nhẹ nhàng bằng những lời lẽ ôn tồn. Chắc chắn rằng nó sẽ yêu quý các vị khi thấy các vị quên mình vì nó, và đáng lẽ là áp chế nó thì các vị lại an ủi nó. Nhưng nếu các vị thêm những lời trách móc vào nỗi buồn của nó thì nó sẽ thù ghét các vị và sẽ quyết ý không nghe lời các vị nữa, như để chứng tỏ với các vị rằng, nó không nghĩ như các vị về tầm quan trọng của những lời cảnh báo của các vị.
Lối an ủi của các vị lại còn có thể là một sự dạy dỗ cho nó cũng có ích hơn bởi nó sẽ không ngờ vực điều ấy. Khi các vị nói với nó, tôi giả định như thế này, rằng có đến hàng ngàn kẻ khác cũng mắc các lỗi ấy, các vị đặt nó vào một tình trạng mà nó không tính đến: Các vị sửa lỗi lầm của nó mà chỉ có vẻ như thương xót nó: Bởi vì đối với kẻ nào cho rằng mình có giá trị hơn những người khác thì tự an ủi mình bằng những tấm gương của những người khác ấy là một lối tạ lỗi rất nhục nhã; đó chính là do hiểu rằng điều hắn có thể tự thị nhiều nhất là những người khác không hơn gì hắn.
Thời kỳ của các lỗi lầm là lúc học các bài ngụ ngôn. Bằng cách chỉ trích kẻ phạm lỗi thông qua những bộ mặt xa lạ, người ta giáo dục nó mà không xúc phạm đến nó; và lúc đó nó hiểu rằng bài ngụ ngôn răn đời không phải là lời nói dối, nhờ ở sự thật mà nó đã tự mình áp dụng. Đứa trẻ nào chưa từng bao giờ bị người ta lừa gạt bằng những lời tán tụng thì chẳng hiểu gì về bài ngụ ngôn mà tôi đã xét đến trước kia[205] nhưng đứa dại khờ vừa mới bị một tên nịnh hót lừa phỉnh thì nhận ra rất tài tình rằng con quạ chỉ là một thẳng ngốc. Thế là từ một sự kiện nó rút ra những phương châm; và sự trải nghiệm mà có lẽ chẳng mấy chốc nó quên đi lại khắc ghi trong óc phán đoán của nó nhờ bài ngụ ngôn. Không có một hiểu biết luân lý nào mà người ta lại không thể thu nhận được do kinh nghiệm của người khác hay do sự trải nghiệm của chính mình. Trong trường hợp mà sự trải nghiệm này là nguy hiểm thì người ta rút ra bài học cho mình từ lịch sử thay vì bản thân tự trải nghiệm. Khi cuộc thử thách không gây ra hậu quả nặng nề thì cứ để cho chàng trai tiếp tục chịu đựng là điều tốt; tiếp đó, bằng bài ngụ ngôn luân lý mà ta biên soạn thành các châm ngôn về những trường hợp riêng biệt mà chàng trai đã biết.
Tuy nhiên, tôi không muốn rằng, các châm ngôn này phải được phát triển cũng như phải được nêu tên, không có gì vô ích và cũng không có gì để bị hiểu lầm bằng câu luân lý dùng để kết thúc phần lớn các bài ngụ ngôn, chẳng khác nào như câu luân lý ấy chưa từng hay chưa được hiểu trong chính truyện ngụ ngôn ấy, để làm cho câu luân lý ấy dễ được độc giả cảm nhận! Vậy thì tại sao khi thêm luân lý này vào cuối bài, ta lại tước mất cái thú của độc giả là tự mình tìm ra điều ấy? Tài năng giáo dục là làm cho con người thích học. Song, muốn cho anh ta thích học thì không nên để trí óc anh ta thụ động với tất cả mọi điều các vị nói với anh ta đến mức anh ta chẳng can làm gì hết để hiểu được các vị lòng tự ái của người thầy bao giờ cũng phải dành vài phần cho lòng tự ái của nó; phải để cho nó có thể tự nhủ rằng: Tôi hiểu, tôi thấu triệt, tôi hành động, tôi tự học hỏi. Một trong những việc làm cho nhân vật Pantalon trong hài kịch Ý trở nên chán ngán là y giải thích thật là cẩn thận cho khán giả những điều tầm phào mà người ta đã nghe quá nhiều rồi. Tôi không thích người gia sư là nhân vật Pantalon ấy, càng không thích hơn nữa gia sư là một tác gia. Ta cần luôn luôn cho người ta hiểu mình nhưng đừng có bao giờ nói luôn ra hết cả: Ai mà nói ra tất cả tức là nói rất ít các sự việc vì rốt cuộc là người ta không nghe ông ta nữa. Bốn câu thơ mà La Fontaine thêm vào bài con ếch phình bụng[206] có nghĩa gì? Ông ta sợ người ta không hiểu nổi bài ấy chăng? Liệu nhà họa sĩ lớn ấy có cần phải viết tên dưới các vật mà ông vẽ chăng? Như vậy là đáng lẽ phải khái quát hóa bài học luân lý thì ông ta lại biệt hóa nó, thu hẹp nó về cái ví dụ đã kê và cản trở người ta áp dụng vào các trường hợp khác. Tôi muốn rằng, trước khi đưa cái bài ngụ ngôn của tác giả không ai bắt chước nổi này vào tay bọn trẻ thì nên cắt bỏ hết các kết luận mà qua đó ông ta đã cố công giải thích điều ông ta vừa mới nói xong một cách vừa sáng sủa vừa thú vị. Nếu học trò của các vị chỉ hiểu bài ngụ ngôn có sức giải thích ấy thì xin cứ tin rằng, nó sẽ không hiểu gì về bài ấy dù có sự giải thích như vậy.
Lại còn cần phải sắp xếp các bài ngụ ngôn ấy theo một thứ tự hợp với việc dạy học hơn và phù hợp với tiến trình của các tình cảm và hiểu biết của đứa trẻ hơn. Liệu người ta có quan niệm được rằng, chẳng có cái gì kém hợp lý hơn là việc đi theo chính xác các số thứ tự của quyển sách mà chẳng cần đếm xỉa gì đến nhu cầu và thời cơ không? Trước hết là con quạ, rồi đến con ve sầu[207], rồi đến con ếch, rồi đến hai con la v.v… Tôi rất phiền lòng về hai con la này, vì tôi nhớ rằng đã từng thấy một đứa trẻ được dạy dỗ để theo nghề tài chính và người ta làm nó choáng váng về công việc nó sẽ làm, đọc bài ngụ ngôn ấy, học bài ấy, lặp đi lặp lại hàng trăm lần bài ấy mà chẳng bao giờ rút ra được một mảy may phản kháng nào của nghề mà người ta định dành cho nó. Không những tôi chưa từng bao giờ thấy trẻ con áp dụng hẳn hoi các bài ngụ ngôn mà chúng đã học, mà tôi cũng chẳng bao giờ thấy ai quan tâm đến việc bảo chúng phải áp dụng. Cái cớ của việc học ngụ ngôn này là việc dạy đạo đức, nhưng cả một hoạt truyện mới chiếm được cái mục tiêu thực sự của bà mẹ và đứa con, còn như nó có đọc thuộc những bài ngụ ngôn của mình thì khi lớn lên cũng quên hết sạch, khi mà chẳng còn là vấn đề đọc thuộc các bài ấy nữa mà phải vận dụng chúng cho có ích. Thêm một lần nữa, việc tự học trong các truyện ngụ ngôn là chỉ dành cho người lớn và đây là lúc bắt đầu việc đó đối với Émile.
Tôi chỉ vạch ra từ xa bởi vì tôi cũng không muốn nói ra hết tất cả về những con đường dẫn ta đi khác hướng những con đường tốt đẹp, nhằm làm cho người ta học được cách tránh xa chúng. Tôi tin rằng, cứ theo con đường mà tôi đã chỉ ra thì học trò của các vị sẽ mua được kiến thức của mọi người và của chính mình với giá rẻ nhất có thể; rằng các vị hãy đặt nó vào vị trí quan sát sự biến đổi của thời vận mà không đố kỵ với số phận của những người được thời vận ưu ái, và bằng lòng về mình mà không tự coi mình khôn ngoan hơn người. Các vị cũng nên bắt đầu cho nó thành diễn viên để rồi lại làm khán giả: mà phải làm đến nơi đến chốn, bởi vì từ hàng ghế của khán giả người ta nhìn các sự vật như chúng biểu hiện, còn từ trên sân khấu người ta thấy các sự vật này như chúng vốn là như thế. Đã bao quát được cái tổng thể phải tự đặt mình vào điểm quan sát, phải tiếp cận để thấy được các chi tiết. Nhưng với tư cách gì mà một chàng thanh niên thâm nhập vào những việc đời? Mà nó có quyền gì được khai tâm trong các bí mật ám muội đó? Những trò tằng tịu đàng điếm giới hạn các hứng thú của lứa tuổi nó; nó chỉ mới có bản thân nó để tùy nghi sử dụng; vậy cũng như thế nó chẳng có gì hết để tùy nghi sử dụng. Con người là thứ hàng hóa ít giá trị nhất, và, trong số các quyền hệ trọng về sở hữu của chúng ta thì nhân quyền bao giờ cũng là ít quan trọng hơn cả.
Khi tôi thấy ở lứa tuổi hoạt động mạnh mẽ nhất này mà người ta cứ hạn chế lớp trẻ trong sự nghiên cứu thuần túy tư biện và sau đó họ đột nhiên bị ném vào đời và vào công việc mà chẳng có lấy chút kinh nghiệm nào, tôi thấy người ta làm trái ý lý trí chẳng kém trái ý cái tự nhiên, và tôi cũng chẳng lạ gì khi quá ít người biết cách xử sự ở đời. Do lối suy nghĩ kỳ cục nào mà người ta dạy chúng ta bao nhiêu là chuyện vô bổ, trong khi chẳng đếm xỉa gì đến nghệ thuật hành động? Người ta có tham vọng đào tạo chúng ta cho xã hội mà lại dạy dỗ chúng ta cứ như là ai trong chúng ta cũng chỉ sống một mình mà tha hồ suy nghĩ trong phòng riêng, hoặc là luận giải các chủ đề vu vơ với những kẻ thờ ơ. Các vị tưởng dạy cho con cái mình biết cách sống là dạy cho nó những cách uốn éo thân thể và vài công thức ăn nói nhất định, thật là vô nghĩa. Tôi cũng vậy, tôi đã dạy cho Émile của tôi biết cách sống; bởi vì tôi đã dạy cho nó học được cách sống với chính nó, và, hơn nữa, biết kiếm lấy miếng ăn. Nhưng như thế là chưa đủ. Để sống trong cuộc đời, cần phải biết cư xử với mọi người, phải biết những phương tiện giúp nắm được họ, phải tính toán lường trước tác động và phản ứng của lợi ích riêng trước xã hội dân sự và tiên đoán thật đúng đắn các biến cố để ta ít khi lầm lẫn uổng công việc mình tiến hành hoặc ít ra là bao giờ cũng chọn được những phương sách tốt nhất để thành đạt. Các đạo luật không cho phép người ít tuổi thực hiện việc kinh doanh riêng của mình và có toàn quyền sử dụng tài sản riêng của mình: Nhưng những thận trọng này làm sao mà phục vụ cho họ được nếu như đến độ tuổi đã định họ chưa thể thu nhận được kinh nghiệm gì? Họ sẽ chẳng kiếm được gì vì chờ đợi và mọi chuyện cũng vẫn cứ là mới mẻ ở tuổi hai mươi lăm giống y như ở tuổi mười lăm. Rõ ràng là phải ngăn chặn một người trẻ tuổi bị mù quáng do dốt nát hoặc bị lầm lẫn do các đam mê của hắn mà tự mình làm hại chính mình; nhưng ở tuổi nào cũng vậy, nó đều được phép có thiện tâm, ở lứa tuổi nào người ta cũng có thể bảo vệ, dưới sự điều khiển của một người khôn ngoan, những kẻ bất hạnh chỉ cần có chỗ dựa.
Các vú nuôi, các bà mẹ quyến luyến với con trẻ bằng những chăm sóc của họ cho chúng; việc rèn luyện đạo đức xã hội thấm vào tận đáy lòng tình yêu nhân loại: Chính là khi làm điều tốt người ta trở thành người tốt; tôi không thấy sự thực hành nào chắc chắn hơn. Hãy làm cho học trò của các vị luôn bận rộn trong mọi hành động tốt vừa ngang tầm trình độ của chúng, sao cho lợi ích của những kẻ bần hàn luôn luôn là lợi ích của nó; sao cho nó không giúp đỡ họ bằng riêng túi tiền của mình mà bằng sự chăm sóc của mình; sao cho nó phục vụ cho họ, bảo vệ họ, sao cho nó dành cho họ cả con người nó lẫn thì giờ của nó; nó tự làm cho mình thành người lo việc cho họ: Cả đời nó cũng sẽ chẳng hoàn thành một công việc cao quý đến như vậy. Biết bao người bị chà đạp mà người ta chưa từng được nghe, sẽ được hưởng công lý, khi nó đòi hỏi điều đó cho họ với lòng cương quyết đến gan h được tạo nên do sự rèn luyện về đạo đức; khi nó phá cửa xông vào các nhà quyền quý và các nhà giàu, nếu cần thì nó sẽ đến tận chân ngai vàng để làm cho người ta phải nghe tiếng nói của những người bất hạnh mà mọi tiếp xúc đều bị khép lại vì sự khốn cùng của họ và vì nỗi sợ hãi bị trừng trị do những điều ác mà người ta đã gây ra cho họ đến nỗi họ không dám đau khổ về những nỗi khổ ấy.
Nhưng chúng ta có làm cho Émile có trở thành một hiệp sĩ lang thang, một hiệp khách, một dũng sĩ không? Liệu nó có đi can thiệp vào các việc công, làm người hiền minh và người bảo vệ pháp luật ở các nhà quyền quý, các thẩm phán, các cung điện của những ông hoàng, làm kẻ khẩn cầu các quan tòa và các luật sư ở tòa án không? Tôi chẳng biết gì về những chuyện này. Những danh từ khôi hài và lố bịch chẳng thay đổi gì được tính chất của sự việc. Nó sẽ làm tất cả những gì nó biết là hữu ích và tốt đẹp. Nó sẽ không làm gì hơn thế và nó biết rằng không gì có ích và tốt lành cho nó trong những việc không phù hợp với lứa tuổi của nó; nó biết rằng, bổn phận đầu tiên của nó là nghĩa vụ đối với chính mình: Rằng thanh niên phải biết nghi ngờ chính mình, biết thận trọng trong cách cư xử, biết kính nể những người hơn tuổi mình, giữ gìn và kín đáo trong việc nói chuyện tào lao, thận trọng trong những việc vu vơ, nhưng táo bạo trong việc làm đúng và dũng cảm khi nói ra sự thật. Những người La Mã nổi tiếng từng sống như thế. Trước khi được trao trách nhiệm gánh vác công việc, họ dùng thời trẻ của mình đề truy tìm tội ác và bênh vực người vô tội không vì cái gì khác ngoài lợi ích của sự học hỏi bằng cách phụng sự công lý và bảo vệ thuần phong mỹ tục.
Émile không thích ồn ào cũng như những cuộc cãi vã, không những là giữa người với nhau[208] mà cả giữa loài vật nữa. Nó không bao giờ suỵt hai con chó cắn nhau; không bao giờ làm cho con chó đuổi bắt con mèo. Tinh thần hòa bình đó là kết quả của việc giáo dục nó. Lối giáo dục này vì không hề dấy động lòng tụ ái và tính tự phụ của nó nên đã xoay chuyển nó sang hướng khác hơn là đi tìm sự vui thích trong sự áp đảo và trong cảnh khó sớ của người khác nó đau khổ khi thấy người khác đau khổ, đó là một tình cảm tự nhiên. Điều làm cho một chàng trai thành ra chai sạn và thích xem hành hạ một sinh thể có cảm giác chính là khi một sự phục hồi của tính kiêu ngạo làm cho nó tự coi mình như được miễn trừ các nỗi khổ ấy nhờ sự khôn ngoan hay nhờ ưu thế của mình. Kẻ nào mà người ta đã che chở khỏi lối suy nghĩ như thế không thể nào rơi vào tật xấu do lối nghĩ ấy tạo nên. Vậy là Émile thích hòa bình. Hình ảnh của hạnh phúc làm cho nó vui sướng và khi nó có thể góp phần tạo ra hạnh phúc là nó có thêm một phương tiện nữa để chia sẻ hạnh phúc ấy. Tôi không giả thiết rằng, khi thấy những người bất hạnh, đối với họ nó chỉ có cái lòng trắc ẩn khô khan và tàn nhẫn tin bằng lòng với sự xót thương suông với nỗi đau mà lòng trắc ẩn kia có thể chữa lành. Lòng từ thiện tích cực của nó chẳng mấy chốc đem lại cho nó những ánh sáng mà một trái tim cứng rắn hơn có lẽ không thể nào có được hay cũng có thể có được nhưng muộn hơn nhiều. Nếu nó phát hiện ra sự bất hòa giữa bạn bè của mình thì nó tìm cách hòa giải họ. Nếu nó thấy những người sầu khổ, nó sẽ thăm hỏi về nguyên nhân gây ra sự thống khổ của họ. Nếu nó thấy hai người thù ghét nhau, nó muốn biết nguyên nhân sút thù hận ấy. Nếu nó thấy một người bị ức hiếp than vãn về việc một nhà quyền quý hay một phú gia làm khó cho họ thì nó sẽ tìm hiểu xem sự gây khó dễ ấy được che giấu dưới những thủ đoạn nào; và vì nó quan tâm đến mọi kẻ khốn cùng, nên nó không bao giờ thờ ơ với những phương cách làm chấm dứt những thống khổ của họ. Vậy chúng ta phải làm gì để tận dụng các khuynh hướng ấy cho phù hợp với lứa tuổi của nó? Đó là phải điều chỉnh các chăm sóc và các kiến thức của nó cũng như sử dụng lòng nhiệt tình của nó để làm gia tăng các điều đó.
Tôi không hề chán lặp lại những điều này: Các vị hãy đặt tất cả các bài học của thanh niên trong hành động hơn là trong lời nói; cái gì mà kinh nghiệm có thể dạy cho chúng được thì chúng đừng học trong sách vở. Luyện cho chúng nói không có chủ đề để chẳng nói được một nội dung nào; cho rằng trên ghế nhà trường trung học phải làm cho chúng cảm nhận được sức mạnh của ngôn ngữ biểu đạt những đam mê và toàn bộ mãnh lực của nghệ thuật thuyết phục vô vị lợi để mà chẳng thuyết phục được ai, thật là một dự án nhố nhăng biết mấy! Tất cả các bài học của khoa hùng biện chỉ giống y như một sự ba hoa thuần túy với người nào chẳng thấy những bài học ấy dùng được việc gì cho lợi ích của mình. Biết rằng ông Annibal đã nói như thế nào để ra lệnh cho quân lính của mình vượt qua dãy núi Alpes thì có gì là quan trọng cho một học sinh? Nếu thay vào các bài diễn từ hay tuyệt, các vị lại nói cho nó phải làm thế nào để cho ông giám học cho nó nghỉ, thì các vị hãy tin chắc rằng nó sẽ rất chăm chú nghe các quy tắc ấy của các vị.
Nếu muốn tôi dạy khoa hùng biện cho một chàng trai đã được phát triển đầy đủ mọi đam mê, tôi sẽ luôn luôn giới thiệu với anh ta những đối tượng thích hợp với việc mơn trớn các đam mê của anh ta, và tôi sẽ cùng anh ta xem xét ngôn ngữ nào anh ta cần nói với người khác để khiến họ ủng hộ những ham muốn của anh ta. Nhưng Émile của tôi thì lại không phải đang ở trong trạng thái thuận lợi cho nghệ thuật nói năng, hầu như chỉ hạn chế ở mỗi một thứ nhu cầu vật chất, cậu ta ít cần đến người khác hơn là người ta cần đến cậu; và chẳng có gì phải đòi hỏi ở họ cho mình, điều mà cậu muốn thuyết phục họ không dính dáng đến cậu quá gần nên không làm cho cậu xúc động thái quá. Từ đó suy ra rằng, nói chung, cậu ắt là có một thứ ngôn ngữ giản dị và ít hình ảnh. Cậu ta thường chỉ nói theo nghĩa đen rành mạch và chỉ để được người ta đủ hiểu. Cậu ít dùng châm ngôn vì cậu chưa học được cách khái quát hóa các ý tưởng của mình: Cậu có ít hình ảnh vì cậu ít khi say mê.
Dù sao thì cậu ta cũng không hoàn toàn phớt đời và lạnh lùng; lứa tuổi của cậu, các tập quán của cậu, các thị hiếu của cậu không cho phép điều đó: Trong nhiệt huyết của tuổi vị thành niên, tinh thần phấn chấn, biết giữ ý, và được tinh chế trong dòng máu của cậu đem lại cho trái tim non trẻ của cậu cái nhiệt tình long lanh trong ánh mắt mà người ta cảm nhận được ở lời nói của cậu, người ta thấy được ở các hành động của cậu. Cách nói của cậu biết nhấn mạnh và đôi khi hăng hái. Tình cảm cao thượng gây cảm hứng cho cậu, trao cho cậu sức mạnh và sự cao nhã: Thấm nhuần tình yêu nhân loại thắm thiết, cậu truyền đạt những xúc động của lòng mình qua lời nói; không rõ sự thành thật cao cả của cậu có cái gì đó quyến rũ hơn hằn sự hùng hồn giả tạo của những kẻ khác, hoặc chẳng mấy mà chính cậu mới hùng hồn thực sự vì cậu chỉ việc bày tỏ những gì cậu cảm thấy để truyền đạt cái đó cho những người nghe cậu nói.
Càng nghĩ về điều đó tôi càng thấy khi đem lòng từ thiện vào hành động như vậy và rút ra được những nhận định về nguyên nhân của các thành quả tốt hoặc xấu của chúng ta, thì ít có những tri thức hữu ích mà ta không thể vun đắp được trong trí tuệ của một người thanh niên; và, với toàn bộ kiến thức thật sự thu nhận được từ các trường trung học thì người thanh niên ấy còn tiếp thu thêm được ở các trường trung học một khoa học còn quan trọng hơn, đó là việc áp dụng vốn hiểu biết ấy để sử dụng vào cuộc sống. Khi mà tha thiết với đồng loại đến thế thì không thể nào không sớm học được cách cân nhắc và đánh giá những hành động, những thị hiếu, những ý muốn của họ và thường đánh giá được những gì có thể góp phần hay lại làm hại đến hạnh phúc của con người một cách đúng đắn hơn là những kẻ nào chẳng quan tâm gì đến một ai nên chẳng bao giờ có được một chút gì cho người khác. Những ai mà bao giờ cũng chỉ suy tính đến những việc riêng của mình thì vì quá tham vọng mà không nhận xét đúng đắn được mọi việc. Quy mọi chuyện vào chính họ và đem một ý tưởng về cái thiện và cái ác khuôn theo lợi ích của riêng mình nên đầu óc họ chất chứa hàng ngàn thành kiến lố bịch và bất cứ cái gì làm tổn hại đến lợi ích của họ dù chỉ là nhỏ nhất thì họ lập tức thấy rằng cả vũ trụ bị đảo lộn.
Trải rộng lòng tự ái đến những người khác thì chúng ta sẽ biến được lòng tự ái đó thành một đức tính và chẳng có trái tim nào của con người lại không có cội rễ của đức tính ấy. Đối tượng mà ta chăm sóc càng ít dính líu trực tiếp với chính chúng ta thì càng ít phải sợ ảo tưởng về lợi ích riêng tư, khi người ta càng khái quát hóa lợi ích ấy, nó lại càng trở nên công minh; và tình yêu loài người trong chúng ta thật chăng là gì khác ngoài tình yêu công lý. Cho nên, chúng ta muốn cho Émile yêu sự thật, chúng ta muốn cho cậu biết sự thật thì uổng công việc ta hãy luôn để cậu cách xa với bản thân. Những mối quan tâm chăm sóc của cậu cũng nhiều cho hạnh phúc của người khác thì những mối quan tâm ấy sẽ càng sáng suốt và hiền minh, và cậu sẽ càng ít khi lầm lẫn giữa cái tốt và cái xấu; nhưng chúng ta đừng bao giờ chịu để cho cậu có sự ưu đãi mù quáng chỉ dựa trên sự thiên vị ai đó hoặc trên những thành kiến bất công.. Mà cớ sao cậu lại làm hại người này để phục vụ cho người khác? Cậu chẳng thấy hề hấn gì khi có ai đó nhận được sự chia sẻ một hạnh phúc lớn hơn, miễn là cậu phấn đấu vì một hạnh phúc lớn hơn cho tất cả mà người: Đó là cái lợi đầu tiên của người hiền minh sau cái lợi riêng tư, bởi lẽ ai cũng là một phần của giống loài chứ không phải là của một cá thể khác.
Để tránh cho lòng thương không bị suy thoái thành sự mềm yếu thì phải suy rộng và trải tình thương ra khắp cả loài người. Như vậy, ta chỉ buông mình cho tình thương trong chừng mực phù hợp với công lý, bởi lẽ, trong mọi đức tính thì sự công bằng là đức tính góp phần nhiều nhất cho lợi ích chung của con người. Đối với chúng ta thì cả về lý lẫn về tình, đều cần phải có long thương đối với cả loài người nhiều hơn là thương người gần gũi với mình, và sự độc ác lớn nhất của con người là thương kẻ ác.
Vả chăng cũng phải nhớ rằng, tất cả những phương tiện mà tôi sử dụng để đặt người học trò của tôi ra ngoài bản thân cậu tuy vậy vẫn luôn có mối liên quan trực tiếp tới cậu, chính vì không những ở đó cậu được hưởng sự vui thích trong lòng mà còn vì khi biến cậu thành người làm điều tốt vì lợi ích của người khác tức là tôi làm việc cho sự học tập riêng của chính cậu.
Thoạt đầu, tôi cung cấp phương tiện và bây giờ tôi nêu ra hiệu quả. Tôi thấy có những nhãn quan khoáng đạt biết bao dần dần hình thành trong đầu óc cậu! Những tình cảm cao thượng biết bao bóp chết mầm mống của những ham muốn nhỏ nhẹn trong trái tim cậu! Tôi thấy có sự minh bạch biết bao trong phán đoán, sự chính xác biết bao trong lập luận được hình thành ở cậu từ những khuynh hướng đã được vun đắp, từ kinh nghiệm là nơi quy tụ những mong ước của một tâm hồn lớn đặt trong giới hạn chật hẹp của cái khả thi và vì thế mà một người cao thượng hơn những người khác khi không thể nâng họ lên ngang tầm với mình thì biết hạ mình xuống cho ngang tầm với họ! Những nguyên tắc thực sự của lẽ công bằng, những mẫu mực đúng đắn về cái đẹp, mọi quan hệ đạo đức giữa những con người, một ý tưởng về trật tự đã khắc sâu vào lý trí của cậu; cậu nhận rõ vị thế của mỗi sự việc và cái nguyên nhân làm cho cậu phải tránh xa: Cậu biết cái gì có thể làm nên việc thiện và cái gì cản trở điều đó. Chưa từng trải nghiệm những đam mê của con người, nhưng cậu biết những ảo tưởng và cả mánh khóe của họ.
Tôi tiến tới do sức mạnh cuốn hút của các sự vật, nhưng không áp đặt chuyện này cho sự đánh giá của độc giả. Đã từ lâu độc giả coi tôi như sống trong xứ sở của các ảo tưởng, còn tôi, tôi lại coi họ luôn luôn ở trong xứ sở của những thành kiến. Trong khi tôi cố tránh né những dư luận tầm thường, tôi vẫn luôn luôn giữ chúng hiện diện trong đầu óc mình: Tôi nghiên cứu chúng, tôi nghiền ngẫm chúng, không phải là để hùa theo cũng chẳng phải để trốn chạy khỏi chúng mà là để cân nhắc chúng trên bàn cân của sự lập luận. Mỗi khi tôi buộc phải né tránh các dư luận thì kinh nghiệm dạy tôi phải tự nhủ rằng họ chẳng noi theo mình đâu: Tôi biết rằng trong khi nhất quyết chỉ tưởng tượng là khả thi cái mà họ thấy, thì họ coi chàng trai mà tôi miêu tả là một con người ảo và kỳ quái, bởi vì cậu ta khác với những con người được họ đem ra để so sánh, mà chẳng hề nghĩ rằng đúng là cậu ta phải khác với những người ấy bởi lẽ cậu ta được nuôi dạy hoàn toàn khác, cảm thụ những tình cảm hoàn toàn trái ngược, được giáo dục khác hẳn những người kia, thì điều rất đáng kinh ngạc là nếu như cậu ta lại giống y như họ chứ không được như người tôi đòi hỏi. Đó không phải là người của con người mà là người của tự nhiên. Chắc chắn là con người ấy phải thật xa lạ trong mắt họ.
Khi bắt đầu công trình này tôi không hề giả định một điều nào mà toàn thể mọi người không thể theo được giống như tôi, bởi vì có một điểm, đó là sự ra đời của một con người, từ điểm ấy chúng ta cùng xuất phát hoàn toàn như nhau: Nhưng chúng ta càng tiến bước, tôi tiến bước để vun trồng cái tự nhiên, còn các vị tiến bước để làm suy thoái cái tự nhiên ấy, thì càng ngày chúng ta càng rời xa nhau. Người học trò của tôi vào năm lên sáu tuổi ít có gì khác với học trò của các vị mà các vị vẫn còn chưa đủ thời gian để làm cho biến dạng đó còn bây giờ thì chúng chẳng còn tí gì là giống nhau và tuổi trưởng thành đang sắp sửa đến, phải cho thấy người học trò của tôi dưới một dạng khác hẳn nếu tôi không uổng phí mọi sự chăm sóc của mình. Số lượng kiến thức thu được giữa hai bên có thể là gần ngang nhau nhưng các sự việc tiếp thu được lại chẳng hề giống nhau chút nào. Các vị ngạc nhiên khi thấy những tình cảm cao thượng ở người này còn ở những người khác thì chẳng hề có lấy một mầm mống nào dù là nhỏ nhất, nhưng hãy cứ coi như bọn họ đều là triết gia hoặc các nhà thần học rồi, trước khi Émile biết thế nào là triết học và nghe nói đến Thượng đế.
Vậy nếu như có ai đó nói với tôi rằng, chẳng có lấy một tí gì về cái mà ông đòi hỏi là có thật; những người thanh niên đã trưởng thành hoàn toàn không phải như vậy; họ có tham vọng này khác, họ làm điều này điều nọ, điều đó cũng giống như là người ta phủ nhận rừng cây lê chẳng bao giờ là một cây cao bởi người ta chỉ thấy có những cây lùn tịt ở trong vườn của chúng ta.
Tôi xin các vị quan tòa đã quá nóng vội trong việc chỉ trích này hãy cân nhắc kỹ rằng những điều các vị vừa nói đó thì tôi cũng biết rõ như các vị, mà tôi suy nghĩ về nó có lẽ lại còn lâu hơn, cũng chẳng ích gì khi áp đặt những điều đó cho các vị, nhưng tôi có quyền yêu cầu các vị chí ít là dành thời gian để tìm ra xem tôi nhầm lẫn ở chỗ nào. Các vị phải nghiên cứu kỹ thể trạng của con người, các vị phải theo dõi những phát triển đầu tiên của tâm tình con người trong hoàn cảnh này nọ, nhằm thấy rõ một cá nhân có thể khác biệt đến bao nhiêu so với một cá nhân khác nhờ sức mạnh của giáo dục; thế rồi các vị phải đối chiếu sự giáo dục của tôi với những hiệu quả mà tôi tạo ra cho nó; và các vị hãy nói xem tôi đã lập luận sai ở chỗ nào thì tôi sẽ không còn gì để trả lời nữa.
Điều làm cho tôi trở nên quả quyết hơn, và tôi cho rằng làm cho tôi đáng được miễn thứ hơn khi quả quyết như vậy là thay vì tiến hành theo tinh thần hệ thống tôi lại tranh phần ít nhất có thể cho việc lập luận và chỉ tin cậy vào sự quan sát. Tôi không căn cứ chút nào vào điều tôi đã tưởng tượng ra, mà là căn cứ vào điều tôi thấy đúng là tôi đã không khép kín kinh nghiệm của mình trong khuôn khổ các bức tường thành phố, mà cũng không riêng trong một tầng lớp nào; nhưng sau khi đã đối chiếu hàng bấy nhiêu tầng lớp và bấy nhiêu dân tộc mà tôi đã có dịp thấy trong cả một cuộc sống dùng để quan sát họ, tôi đã tách ra coi như giả tạo, cái gì là của một dân tộc này mà không phải là của một dân tộc khác của một quốc gia này mà không phải là của một quốc gia khác, và chỉ coi là hiển nhiên thuộc về con người khi điều đó là chung cho tất cả, cho bất kỳ độ tuổi nào, cho bất kỳ tầng lớp nào, trong bất kỳ quốc gia nào.
Thế mà, theo phương pháp này, nếu các vị theo dõi ngay từ tuổi thơ một thanh niên không hề có một hình thái gì là đặc biệt riêng cho mình và anh ta bận tâm ít nhất có thể đến quyền uy và dư luận của người khác thì các vị hãy nghĩ xem anh ta sẽ giống ai hơn cả, trong số học trò của tôi và các học trò của các vị? Đấy dường như với tôi, đó là câu hỏi phải được giải đáp để biết xem liệu tôi có đi sai hướng hay không.
Con người ta không bắt đầu dễ dàng để suy nghĩ, nhưng chừng nào nó bắt đầu thì nó không dừng lại nữa. Ai đã suy nghĩ thì luôn luôn suy nghĩ, và lý trí một khi được vận dụng vào sự suy nghĩ thì không thể nào ngưng nghỉ. Vậy thì người ta có thể nghĩ rằng tôi làm việc này quá nhiều hay quá ít, rằng đầu óc con người không hề tự nhiên sẵn sàng để mở ra và sau khi đã cho nó những thuận lợi mà nó không có thì tôi giữ nó quá lâu bên trong một phạm vi các tư tưởng mà nó phải vượt qua rồi.
Nhưng trước hết hãy xem xét kỹ là muốn hình thành con người của tự nhiên thì không phải vì thế mà biến nó thành con người hoang dã rồi giam hãm nó vào rừng thẳm, mà khi đặt nó vào cơn lốc quay cuồng của xã hội chỉ cần ở đó nó không để mình bị cuốn đi bởi các đam mê cùng các dư luận của mọi người; sao cho nó nhìn bằng mắt mình, nó cảm nhận bằng trái tim mình; sao cho không có bất cứ quyền uy nào được điều khiển nó ngoài cái quyền uy của lẽ phải của chính nó. Trong vị thế ấy, rõ ràng là có vô số đối tượng đụng chạm đến nó, những tình cảm thường xuyên tác động vào nó, những phương cách khác nhau để chu cấp cho các nhu cầu thực tế của nó, tất thảy đều cho nó vô số ý tưởng mà lẽ ra nó sẽ không bao giờ có hoặc là nó sẽ tiếp nhận chậm chạp hơn nhiều. Bước tiến bộ tự nhiên ở tinh thần được đẩy nhanh lên nhưng không bị đảo lộn. Chính cái con người cứ ngơ ngẩn trong rừng phải trở nên có lý trí và biết lẽ phải ở các thành phố khi mà tại đó anh ta sẽ chỉ là một khán giả đơn thuần. Không có gì thích hợp để trở thành khôn ngoan bảng những sự điên rồ mà ta chỉ xem chứ không chia sẻ; và ngay chính người nào chia sẻ những điên rồ ấy cũng còn học được, miễn là anh ta không mắc lừa các điên rồ này và không mắc phải sai lầm của những kẻ tạo nên những cơn điên loạn ấy.
Cũng cần phải xem xét thêm rằng, do chúng ta bị hạn chế bởi các năng lực tiếp cận những sự việc có thể cảm nhận được nên hầu như không đưa ra được một cách nắm bắt nào đối với các khái niệm trừu tượng của triết học và đối với các ý tưởng thuần túy trí tuệ. Muốn đạt tới chỗ ấy, hoặc là chúng ta phải tự giải thoát khỏi thể xác mà chúng ta vẫn gắn kết chặt chẽ, hoặc là phải thực hiện sự tiến bộ theo từng bước và chậm rãi từ đối tượng này sang đối tượng khác hoặc là đành vượt thật nhanh gần như một bước nhảy qua khoảng cách với bước chân của người khổng lồ mà tuổi thơ không kham nổi, mà để làm như vậy thì thật sự ngay cả người lớn cũng phải dùng đến các cấp độ cố ý được tạo ra cho họ. Cái ý tưởng trừu tượng đầu tiên là bậc thứ nhất của các cấp độ ấy; nhưng tôi thật khó mà hình dung được người ta định xây dựng các cấp độ ấy như thế nào.
Bản thể không sao hiểu nổi bao trùm tất cả, tạo ra sự vận động của vũ trụ và hình thành nên toàn bộ hệ thống các hữu thể, mà bản thể ấy mắt ta không nhìn thấy, tay ta không mó thấy. Bản thể ấy thoát khỏi mọi giác quan của chúng ta: Tạo nhầm thì bày ra mà người thợ ẩn mình. Thật không phải dễ dàng để biết được rằng rốt cuộc bản thể ấy có tồn tại, và khi chúng ta đã đi tới chỗ ấy tức là lúc chúng ta tự hỏi mình: Bản thể ấy là gì? Ở đâu? Đầu óc chúng ta rối bời, mất phương hướng và chúng ta chỉ còn biết suy nghĩ.
Locke muốn người ta bắt đầu bằng nghiên cứu tinh thần rồi tiếp theo mới nghiên cứu thể xác. Phương pháp này là phương pháp của thói mê tín dị đoan, của những thành kiến, của những sai lầm: Nó không có chút nào là phương pháp của lý trí, cũng chẳng phải là phương pháp của một thiên nhiên có trật tự hẳn hoi; đó là tự bịt mắt lại mà học cách nhìn. Phải nghiên cứu lâu dài về các thể xác để lục ra được cho mình một khái niệm đích thực về các tinh thần và đặt nghi vấn rằng liệu chúng có tồn tại. Thứ tự ngược lại chỉ dùng để lập nên chủ nghĩa duy vật mà thôi.
Chính vì các giác quan của chúng ta là những công cụ đầu tiên cho nhận thức của chúng ta nên các tồn tại thể xác và có thể cảm nhận được là những cái duy nhất mà ta nghĩ đến trực tiếp. Từ tinh thần chẳng hề có một ý nghĩa gì cho ai đó chưa từng triết lý. Một tinh thần chỉ là một thể xác đối với dân chúng và với trẻ con. Họ chẳng đã tưởng tượng ra những tinh thần kêu gào, nói năng, đánh đập, làm ồn đấy ư? Mà người ta thú nhận với tôi rằng, các tinh thần có tay, có lưỡi giống hệt như các thể xác. Đấy là lí do vì sao mà dân tộc trên thế giới không loại trừ cả người Do thái, đều tạo nên những ông thần có thể xác. Chính chúng ta cũng thế, với những từ linh hồn, chúa ba ngôi, các người, chúng ta phần lớn là những người thuộc phái nhân hình hóa. Tôi thừa nhận người ta dạy chúng ta rằng Chúa ở khắp nơi, nhưng chúng ta cũng cho rằng không khí ở khắp nơi, chí ít là ở trong bầu khí quyển của chúng ta mà cái từ tinh thần trong ngọn nguồn của nó thì chính nó chỉ có nghĩa là hơi thở và gió. Ngay khi người ta làm cho mọi người quen với những lời mà họ không hiểu thì sau đó rất dễ dàng bảo họ nói mọi điều mà người ta muốn.
Cảm nghĩ từ tác động của chúng ta lên các cơ thể khác trước hết làm cho chúng ta phải tin rằng, khi các cơ thể ấy tác động lên chúng ta thì đó cũng bằng một cách tương tự như vậy mà chúng ta tác động lên họ. Cho nên, con người đã bắt đầu hoạt hóa mọi bản thể mà anh ta cảm thấy có tác động. Tự thấy mình không mạnh bằng hầu hết các bản thể ấy, do không rõ giới hạn quyền năng của họ nên con người đã coi như quyền năng đó là vô hạn và chúng là các thánh thần ngay khi là các thân xác. Suốt trong các thời đại ban sơ con người sợ hãi mọi thứ, không thấy có gì chết trong tự nhiên. Ý tưởng về vật chất được hình thành ở họ chậm chẳng kém ý tưởng về tinh thần bởi lẽ cái ý tưởng về vật chất ấy chính nó lại là một sự trừu tượng hóa. Vậy nên hễ thấy vũ trụ đầy rẫy các thánh thần có thể cảm nhận được. Các tinh tú, gió, núi, sông, cây cối, các thành phố, cả các ngôi nhà nữa, hết thảy đều có linh hồn của mình, có vị thần của mình, có cuộc sống của mình. Những bức tượng nhỏ của Laban[209], các thần Thiện và Ác của những người hoang dã, các vật Thần của người da đen, mọi tạo phẩm của tự nhiên và của con người đều từng là những vị thánh đầu tiên của con người; đa thần giáo từng là tôn giáo đầu tiên của họ, sự sùng tín ngẫu tượng từng là việc thờ cúng đầu tiên của họ. Họ chỉ có thể thừa nhận một vị thần độc nhất khi ngày càng khái quát hóa được các ý tưởng của mình cho tới khi có thể đi ngược lên tới một nguyên nhân đầu tiên, cơ thể quy tụ toàn bộ hệ thống các bản thể vào cùng một ý tưởng độc nhất, và cung cấp một nghĩa cho từ thực thể, từ ấy vốn là sự trừu tượng hóa lớn lao nhất. Vậy mọi trẻ em tin vào Chúa tất yếu đều tôn sùng ngẫu tượng hoặc chí ít là nhân hình hoá; và một khí trí tưởng tượng đã nhìn thấy Chúa, thì rất hiếm khi lý trí quan niệm được Chúa. Đó chính là sai lầm mà trình tự của Locke dẫn tới.
Khi bằng cách nào chẳng biết, đạt tới ý tưởng trừu tượng về thực thể, người ta thấy rằng, để chấp nhận một thực thể duy nhất, cần giả định rằng, thực thể duy nhất ấy phải có những phẩm chất tương khắc, chúng loại bỏ lẫn nhau như là tư tưởng và phạm vi mà cái này thì căn bản là chia ra được còn cái kia thì loại trừ mà sự chia cắt. Vả chăng, người ta hiểu rằng tư tưởng, hoặc nếu muốn thì sự cảm nghĩ, là một phẩm chất nguyên thủy và không tách ra được khỏi thực thể có các phẩm chất ấy; và phạm vi tương ứng với thực thể của nó cũng như vậy. Do đó người ta kết luận rằng, các bản thể khi bị mất đi một trong các phẩm chất ấy thì mất cả thực thể có các phẩm chất ấy, và kết quả là cái chết chỉ là sự tách rời ra của thực thể, và các bản thể nào hội đủ hai phẩm chất ấy thì bao gồm hai thực thể có hai phẩm chất đó.
Mà bây giờ hãy xét xem còn khoảng cách nào nữa giữa khái niệm về hai thực thể và khái niệm về bản chất của Chúa; giữa ý tưởng không sao hiểu nổi về tác động của linh hồn ta lên thân thể ta và ý tưởng về tác động của Chúa lên mọi bản thể. Các ý tưởng về sáng tạo, sự hủy diệt, sự hiện diện khắp nơi, sự vĩnh hằng, sự toàn năng, vốn là thuộc tính của Chúa, tất cả các ý tưởng này mà một số rất ít người thấy chúng lộn xộn và khó hiểu, và chúng lại chẳng có gì là khó hiểu đối với dân chúng, bởi vì họ chẳng hiểu gì hết, sẽ biểu hiện với tất cả sức mạnh của chúng như thế nào, nghĩa là với toàn bộ sự mơ hồ tăm tối, đối với các đầu óc non trẻ vẫn còn vướng bận về các thao tác đầu tiên của các giác quan và chỉ hiểu được cái mà chúng sờ mó thấy? Thật uổng cho những vực thẳm của cái vô hạn mở ra khắp xung quanh chúng ta; một đứa trẻ chẳng hề biết những vực thẳm ấy; những con mắt kém cỏi của chúng không sao dò được chiều sâu của vực thẳm. Mọi thứ đều là vô tận đối với trẻ con; chúng không hề biết đặt giới hạn cho bất cứ cái gì, không phải vì chúng làm cho thước đo quá dài mà bởi vì chúng có lý trí ngắn. Tôi cũng nhận ra rằng, chúng coi số vô hạn ít khi vượt quá tầm cỡ các kích thước đã quen thuộc với chúng. Chúng rất hay đánh giá ước lượng một khoảng rộng bao la bằng các bước chân của chúng hơn là bằng mắt; đối với chúng thì khoảng rộng chẳng trải ra xa hơn chỗ chúng không thể nhìn thấy, nhưng lại xa hơn nơi chúng không thể đi tới. Nếu người ta nói với chúng về quyền năng của Chúa thì chúng đánh giá là Chúa cũng mạnh như cha chúng. Đối với chúng thì trong mọi việc, kiến thức của chúng là thước do những cái có thể, chúng cho rằng điều mà người ta nói với chúng bao giờ cũng kém hơn điều chúng biết. Đó là những xét đoán tự nhiên trong sự ngu dốt và sự yếu kém của trí tuệ. Ajax có lẽ sợ phải đọ sức với Achille nhưng lại thách đấu với Jupiter, bởi vì Ajax biết rõ Achille và không biết Jupiter. Một nông dân Thụy Sĩ tự cho rằng mình là người giàu nhất, và khi có người nhờ ông ta giải thích cho thế nào là một ông vua thì với một thái độ tự hào ông ta hỏi lại rằng liệu ông vua có thể có một trăm con bò ngoài núi hay không.
Tôi thấy trước rằng có bao nhiêu là độc giả sẽ ngạc nhiên vì thấy tôi theo sát suốt cả thời kỳ đầu tiên của học trò mà không hề nói về tôn giáo với cậu ấy. Đến năm mười lăm tuổi cậu không biết liệu mình có linh hồn không, và có thể là đến mười tám tuổi vẫn chưa phải lúc để cậu học được điều đó, bởi lẽ nếu cậu học điều đó sớm hơn lúc cần phải học, cậu có nguy cơ chẳng bao giờ biết được điều đó nữa.
Nếu tôi phải miêu tả sự ngu độn đáng giận thì tôi sẽ miêu tả một ông giáo gàn đang dạy giáo lý cương yếu cho đám trẻ con; nếu tôi muốn làm cho một đứa trẻ phát điên, tôi sẽ bắt nó giải thích những điều nó đang nói về giáo lý cương yếu. Người ta biện bác với tôi rằng phần lớn các tín điều của Thiên chúa giáo đều huyền bí, đợi cho đầu óc con người đến lúc có thể hiểu được, tức là không phải đợi cho đứa trẻ thành người lớn, mà là đợi cho nó không thành người lớn nữa. Về điều này tôi trả lời: Thứ nhất là có những điều huyền bí mà với người lớn không những là không thể hiểu nổi, mà còn không thể tin nữa, và tôi cũng không rõ người ta được lợi gì trong việc dạy những điều huyền bí ấy cho trẻ em, nếu không phải là sớm dạy cho chúng nói dối. Tôi nói them rằng, để chấp nhận những điều huyền bí thì chí ít cũng phải hiểu rằng đó lànhững điều không sao hiểu nổi, và trẻ con thì không đủ ngay cả khả năng để hiểu được như vậy. Đối với lứa tuổi mà mọi chuyện đều là huyền bí thì không có những điều huyền bí đích thực.
Phải tin ở Chúa để được cứu rỗi. Tín điều bị ngộ nhận này là nguyên tắc cho những sự cố chấp gây đổ máu, là căn nguyên của tất cả những lời rao giảng hão huyền giáng đòn chí mạng vào lý trí của con người khi làm người ta quen dùng những lời sáo rỗng. Rõ ràng là không có lúc nào được bỏ phí để xứng đáng được hưởng sự bằng an đời đời: Nhưng nếu để đạt được như vậy, chỉ cần nhắc đi nhắc lại một số lời lẽ nhất định, thì tôi chẳng thấy có gì cản trở chúng ta thả đầy trời những con sáo đá và ác là, cũng như những trẻ em.
Nghĩa vụ phải tin giả định khả năng tin được. Nhà triết học không tin là sai bởi vì ông ta sử dụng sai lý trí mà ông ta đã trau dồi và vì ông ta vẫn hiểu rõ các sự thật mà ông ta vứt bỏ. Nhưng đứa trẻ bảo nó theo đạo Thiên chúa, nó tin cái gì? Tin cái mà nó hiểu; và nó hiểu rất ít về điều mà người ta bảo nó nói ra, thành thử nếu như bạn bảo nó điều ngược lại, nó cũng hoàn toàn sẵn long như thế mà nghe theo luôn. Lòng tin của trẻ con và của nhiều người lớn là một vấn đề về địa lý. Liệu họ có được thưởng vì sinh ra ở Rome hơn là ở Mecque không? Người ta nói với kẻ này rằng Mahomet là nhà tiên tri của Thượng đế, thế là kẻ đó nói rằng Mahomet là nhà tiên tri của Thượng đế; người ta nói với kẻ kia rằng Mahomet là một kẻ gian xảo, thế là kẻ đó nói rằng Mahomet là một kẻ gian xảo. Từng người trong hai người có thể khẳng định điều mà người kia khẳng định, giá như họ bị đổi chỗ cho nhau. Có lẽ nào người ta lại có thể căn cứ vào hai tâm thể tương đồng đến vậy mà đưa một người lên thiên đường còn người kia xuống địa ngục? Khi một đứa trẻ nói rằng nó tin ở Chúa thì đó không phải là nó tin ở Chúa mà nó tin ở Pierre hay ở Jacques[210], những người bảo nó rằng có cái gì đó gọi là Chúa; và nó tin điều đó theo kiểu Euripide:
Ôi Jupiter! Về người, tôi chỉ biết có cái tên mà thôi[211].
Chúng tôi cho rằng chẳng có trẻ nào chết trước tuổi có lý trí lại sẽ bị tước bỏ mất phúc lạc vĩnh viễn, những người theo đạo Thiên chúa cũng tin như thế cho tất cả mà trẻ đã được làm lễ rửa tội, cho dù chúng chưa bao giờ được nghe nói đến Chúa. Cho nên cũng có những trường hợp con người vẫn có thể được cứu rỗi mà không còn tin vào Chúa, đó là các trường hợp hoặc là chết yểu hoặc là trong trạng thái điên khùng, khi mà đầu óc con người không đủ khả năng để thừa nhận Chúa. Tất cả sự khác biệt mà tôi nhận thấy trong chuyện này giữa các vị và tôi là: Các vị bảo rằng trẻ em đều có khả năng này ở năm lên bảy tuổi, còn tôi thì không đồng ý cho rằng chúng có khả năng ấy ngay cả đến tuổi mười lăm. Cho dù là tôi sai hay đúng thì ở đây cũng không phải là một tín điều mà là một quan sát đơn giản về lịch sử tự nhiên.
Theo cùng một nguyên tắc này thì rõ ràng là người nào đó đến già vẫn không tin Chúa sẽ không phải vì thế mà bị tước mất sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống khác nếu sự mù quáng của người ấy là không cố ý, và tôi nói rằng sự mù quáng ấy không phải là luôn luôn cố ý. Đối với những người mất trí, các vị đồng ý rằng một căn bệnh làm mất các năng lực tinh thần của họ nhưng không làm mất được chất người của họ, cho nên kết quả là cũng không làm mất quyền được hưởng ân huệ của họ từ đấng sáng tạo ra họ. Vậy tại sao lại không đồng ý như vậy cho những người bị giam hãm, tách rời khỏi mà sự giao thiệp từ ấu thơ, đã phải lần hồi sống một cuộc sống hoàn toàn hoang dã thiếu hẳn ánh sáng, mà người ta chỉ có được trong sự giao tiếp giữa những con người?[212] Bởi rõ ràng là không có khả năng một con người hoang dã như thế có thể nâng được những suy nghĩ của mình đến tầm hiểu được Chúa thực sự. Lý trí bảo chúng ta rằng một con người chỉ đáng trách phạt do những lỗi lầm cố ý, còn như sự ngu muội bất khả kháng thì không thể quy tội cho người ta. Từ đó suy ra rằng trước công lý vĩnh hằng, bất kỳ người nào có thể tin, nếu được ánh sáng soi rọi đầy đủ, thì người ấy được coi như là có tin, và chỉ trách phạt về sự vô tín ngưỡng với những kẻ mà trái tim khép lại với sự thật.
Chúng ta đừng nói về chân lý với những người không sẵn sàng để nghe sự thật ấy vì làm như vậy là muốn đem sai lầm thay thế cho sự thật. Thà rằng không hề có một chút ý niệm gì về Chúa còn hơn là có những ý tưởng tầm thường, ký quái, bất công, không xứng với Người; không biết đến còn ít tệ hại hơn là xúc phạm đến Người. Plutarque nhân hậu bảo tôi rằng tôi sẽ thích người ta nói là chẳng làm gì có Plutarque ở trên đời này hơn là nếu người ta nói Plutarque bất công, đố kị, ganh ghét và quá chuyên chế đến mức ông ta đòi hỏi nhiều hơn cả khả năng thực hiện.
Điều tệ hại lớn trong các hình ảnh lệch lạc về Chúa mà người ta vẽ ra trong đầu óc con trẻ là những hình ảnh ấy còn lưu giữ ở đó suốt đời chúng và khi thành người lớn chúng cũng chẳng hiểu gì thêm, chẳng hiểu gì khác với Chúa của chúng lúc chúng còn nhỏ tuổi. Tôi đã thấy ở Thụy Sĩ có một người mẹ trong gia đình trung hậu và sùng đạo, tin tưởng rất chắc chắn vào phương châm này đến mức bà ta không muốn dạy chút nào cho con trai mình về tôn giáo trong thời kỳ đầu tiên vì sợ rằng con bà bằng lòng với sự giáo dục thô thiển ấy vì thế mà sao nhãng một sự giáo dục tốt hơn ở tuổi có lý trí. Đứa trẻ này bao giờ cũng chỉ nghe nói về Chúa với thái độ chăm chú như uống từng lời và cung kính, và ngay khi nó tự mình muốn nói ra chuyện này thì người ta bắt nó phải im lặng coi như đó là một chủ đề quá cao xa và quá lớn lao đối với nó. Sự giữ gìn ý tứ như thế đã kích thích trí tò mò của nó và lòng tự ái, khát khao mong mỏi thời điểm được biết điều huyền bí mà người ta đã giấu nó cẩn thận đến thế. Người ta càng ít nói về Chúa với nó thì người ta lại càng ít khi cho phép nó tự mình nói ra điều đó, và nó càng quan tâm nhiều hơn: Đứa trẻ này thấy Chúa ở mọi nơi. Và điều mà tôi lo ngại về cái vẻ làm ra huyền bí một cách vụng về này sẽ là trong khi làm bùng lên quá nhiều tưởng tượng ở một chàng thanh niên, người ta làm hỏng mất đầu óc của anh ta, kết quả là bằng cách ấy người ta làm cho anh ta thành một kẻ cuồng tín, thay vì làm cho anh ta thành người có đức tin.
Nhưng chúng ta không ngại xảy ra điều tương tự với Émile của tôi, cậu ta trong khi luôn luôn không chịu để ý đến những gì quá tầm hiểu biết của mình lại nghe với thái độ thờ ơ nhất mọi chuyện mà cậu không hiểu. Về rất nhiều những chuyện như thế, cậu đã quen nói rằng: Cái đó không thuộc phạm vi của tôi, thành thử thêm một chuyện nữa cũng chẳng làm cậu bận tâm mấy nỗi, và khi cậu bắt đầu thắc mắc về các vấn đề lớn lao ấy thì không phải là vì đã nghe nói đến chúng mà là khi sự tiến bộ tự nhiên của ánh sáng trí tuệ của cậu hướng những tìm tòi của cậu về phía này.
Chúng ta đã thấy đầu óc con người có văn hóa tiếp cận với các điều huyền bí này theo con đường nào và tôi dễ dàng đồng ý rằng nó chỉ đạt tới một cách tự nhiên ngay cả ở trong lòng xã hội, ở một độ tuổi lớn hơn. Nhưng vì trong chính xã hội ấy cũng có những nguyên nhân không sao tránh được đẩy nhanh sự tiến triển của các đam mê, nếu người ta không đẩy nhanh kịp cái đà ấy, sự tiến triển của các luồng ánh sáng dùng để điều chỉnh các đam mê ấy thì lúc đó ta sẽ thực sự vượt qua khỏi trật tự của tự nhiên và thế cân bằng sẽ bị phá vỡ. Khi người ta không làm cho được việc điều chỉnh một sự phát triển quá nhanh thì phải dắt dẫn cũng nhanh như thế đối với những gì cần phải tương hợp với sự phát triển ấy, sao cho trật tự không bị đảo ngược, sao cho cái gì phải đi cùng nhau thì không được tách rời ra và sao cho con người, được vẹn toàn ở mọi thời điểm của đời mình mà không lâm vào cảnh: Ở điểm này do một trong các năng lực của nó trội lên và lại ở một điểm khác do những năng lực khác.
Ở đây, tôi thấy nổi bật lên một khó khăn biết mấy! Khó khăn càng lớn bởi nó ở trong sự việc ít hơn là ở trong sự nhút nhát của những ai không dám giải quyết nó. Chúng ta hãy bắt đầu ít nhất là dám nêu ra khó khăn ấy. Một đứa trẻ phải được giáo dục theo tôn giáo của cha nó: Người ta luôn chứng minh rõ ràng cho nó rằng tôn giáo này dù có thế nào thì cũng là tôn giáo đích thực duy nhất: Còn mọi tôn giáo khác đều lố lăng và phi lý. Sức mạnh của các lý lẽ hoàn toàn phụ thuộc vào địa điểm nào của nước nào mà người ta nêu ra. Hãy để cho một người Thổ Nhĩ Kỳ coi Thiên chúa giáo thật là nực cười ở Constantinople đến mà xem người ta coi Hồi giáo như thế nào ở Paris? Dư luận bao giờ cũng thắng thế nhất là trong lĩnh vực tôn giáo. Nhưng chúng ta là những người có tham vọng tháo gỡ cái ách của dư luận trong mọi sự việc, chúng ta không hề muốn phó mình cho quyền uy, chúng ta không hề muốn dạy cho Émile của ta điều gì mà cậu không thể tự mình học tập lấy ở khắp các nước. Thế chúng ta sẽ giáo dục cậu trong tôn giáo nào đây? Chúng ta sẽ đưa con người của tự nhiên gia nhập giáo phái nào? Theo ý tôi, câu trả lời rất đơn giản: Chúng ta không đưa cậu gịa nhập dòng này dòng nọ mà chúng ta sẽ để cậu có quyền lựa chọn giáo phái nào mà việc sử dụng tốt nhất lý trí của cậu phải hướng dẫn cậu đến với nó.
Incedo per ignes Suppositons cineri doloso[213].
Chẳng hề gì: Đối với tôi cho đến nay, nhiệt tình và thiện ý đã thay thế cho tính thận trọng: Tôi hi vọng rằng, những bảo đảm này không hề bỏ rơi tôi khi cần đến chúng. Xin các bạn đọc đừng e ngại rằng tôi có những dè dặt không đáng mặt một người bạn của chân lý: Tôi sẽ không bao giờ quên phương châm của tôi, nhưng tôi hẳn là được phép nghi ngờ những nhận định của mình. Ở đây đáng lẽ tự mình nói với các vị điều tôi nghĩ thì tôi sẽ nói với các vị về điều mà một người có giá trị cao hơn tôi suy nghĩ. Tôi đảm bảo sự xác thực của các sự kiện sắp được thông báo, tôi chỉ sao chép lại đúng hiện thực: Còn tùy các vị thấy từ đó liệu người ta có thể rút ra những suy nghĩ có ích cho chủ để được đề cập. Tôi không hề đề nghị các vị lấy cảm nghĩ của một người khác hay của chính tôi làm quy tắc; tôi cung cấp điều đó để các vị xem xét.
“Ba mươi năm trước, ở một thành phố của nước Ý, có một thanh niên lưu vong bị lâm vào cảnh khốn cùng tột độ. Anh ta sinh ra là một giáo đồ Calvin theo tôn giáo của người cha, nhưng do hậu quả của một hành động dại dột mà phải bỏ trốn ra nước ngoài. Không còn nguồn sống, anh ta phải cải đạo để có cơ hội kiếm việc làm. Ở thành phố ấy có một nhà đón khách thập phương của xứ đạo dành cho những người mới nhập đạo: Anh ta được thu nhận vào đó. Trong khi tranh luận để dạy giáo lý mới cho anh ta, người ta đã gây ra cho anh ta những mối hoài nghi mà anh chưa từng có; và dạy cho anh ta cái xấu mà anh ta chưa từng biết: Anh ta nghe được những tín điều mới, anh thấy những phong tục lại còn mới hơn; anh thấy những cái đó và suýt trở thành nạn nhân của chúng. Anh muốn chạy trốn, người ta nhốt anh lại, anh kêu ca phàn nàn, người ta phạt anh về sự kêu ca ấy. Ở trong tay bên bạo chúa hành hạ mình, anh thấy mình bị đối xử như tội phạm dù đã không chịu phạm tội. Xin những ai biết cái thử thách đầu tiên của bạo hành và bất công kích thích đến chừng nào một trái tim non trẻ và chưa từng trải hãy hình dung ra tình cảnh của anh lúc này. Từ đôi mắt anh chảy ra những dòng nước mắt cuồng nộ, sư phẫn uất làm anh nghẹn ngào; anh cầu xin Trời và những con người, kể lể với tất cả mọi người mà nào có ai nghe anh. Anh chỉ gặp độc có bọn tay sai hèn hạ vâng theo kẻ xấu xa đã xúc phạm làm nhục anh, hoặc là bọn a dua hùa theo chính tội ác này chế nhạo sự chống đối của anh và khêu gợi anh bắt chước bọn chúng. Anh nguy mất nếu không có một giáo sĩ lương thiện vì công việc gì đó đến nhà khách dành cho người mới nhập đạo này, và anh tìm được cách bí mật xin ý kiến. Giáo sĩ nghèo và cần đến tất cả mọi người nhưng người bị ức hiếp còn cần đến ông ta hơn; và ông ta chẳng ngần ngại giúp anh thoát thân dù có nguy cơ tạo cho mình một kẻ thù nguy hiểm.
“Thoát khỏi sự đồi bại để trở lại với sự bần cùng, chàng thanh niên chiến đấu không lại với số phận của mình: Có lúc anh ta tự cho rằng mình đã vượt lên trên số phận. Trong tia sáng le lói đầu tiên của sự may mắn, những tai vạ của anh và người bảo hộ cho anh đều bị quên lãng. Anh bị trừng phạt ngay về sự bạc bẽo ấy: mọi hi vọng của anh đều tiêu tan; dù tuổi trẻ của anh giúp ích cho anh rất nhiều, song những ý tưởng mơ mộng của anh làm hỏng tất cả. Chẳng có đủ tài cũng chẳng đủ khéo léo để làm ăn dễ dàng, không biết cả cư xử ôn hòa lẫn ác độc, anh mơ ước biết bao nhiêu chuyện thành thử anh chàng đạt được điều gì hết. Lại rơi vào cảnh khốn quẫn lúc đầu, không bánh mì, không nơi trú ngụ, sắp sửa chết đói, anh sực nhớ lại người ân nhân của mình.
“Anh trở về nơi ấy và gặp lại ông. Ở đó anh được đón tiếp nồng hậu: Cuộc gặp gỡ với anh gợi cho tu sĩ nhớ lại một việc thiện mà ông đã làm; một kỷ niệm như vậy bao giờ cũng làm sảng khoái tâm hồn. Con người này nhân hậu một cách tự nhiên, đầy lòng thương cảm; ông cảm nhận nỗi khổ của người khác bằng nỗi đau của chính mình và sự sung túc không hề làm cứng rắn được trái tim ông; những bài học đạo lý và một đức độ sáng suốt đã củng cố cho lòng tốt tự nhiên của ông. Ông tiếp nhận chàng trai, tìm cho anh một chỗ trú chân, gửi gắm anh ở đó, chia sẻ cho anh những nhu yếu phẩm dù chỉ tàm tạm đủ cho hai người. Hơn thế, ông còn an ủi anh, dạy cho anh em nghệ thuật khó khăn là chịu đựng nghịch cảnh một cách nhẫn nhịn. Hỡi những người mang thành kiến, phải chăng ở một giáo sĩ, phải chăng là ở nước Ý mà các vị có dịp trông đợi tất cả những điều đó?
“Ông giáo sĩ lương thiện này là một phó linh mục đáng thương ở xứ Savoie, mà một cuộc phiêu lưu thời trẻ đã khiến đức giám mục của ông không ưa, và ông đã phải vượt qua núi non để kiếm tìm những phương tiện sống mà ông không có được ở đất nước của mình. Ông không phải là không có trí tuệ và không có chữ nghĩa; và với một khuôn mặt khả ái, ông đã tìm được những người bảo trợ cho mình, họ xếp cho ông dạy con trai một ông thượng thư. Ông thích sống nghèo nàn hơn là phụ thuộc và ông không biết phải cư xử như thế nào trước các ông lớn. Ông không ở lại lâu ở nhà ông thượng thư và khi từ biệt, ông vẫn không bị mất sự quý mến vì ông sống đúng mục và khiến mọi người yêu mến, ông có ảo tưởng rằng lại được đức giám mục của mình che chở để nhận một chức cha xứ nhỏ mọn gì đó ở miền núi, để sống nốt ở đó những ngày còn lại của mình. Tất cả tham vọng của ông chỉ có thế.
“Một khuynh hướng tự nhiên khiến ông quan tâm đến người trẻ tuổi bỏ trốn, và khiến ông quan sát kỹ anh ta. Ông thấy rằng, vận rủi đã đóng dấu sắt nung lên trái tim anh, rằng sự sỉ nhục và khinh miệt đã làm tiêu tan nhiệt tình của anh, rằng lòng tự hào của anh biến thành nỗi bực dọc đắng cay, chỉ phơi bày ra cho anh thấy rõ tật xấu của bản chất con người và ảo tưởng về đức độ trong sự bất công và khắc nghiệt của họ. Anh đã thấy rằng, tôn giáo chỉ để dùng làm cái mặt nạ che giấu thói hám lợi, và sự thờ phụng thánh bảo hộ che giấu thói đạo đức giả; anh đã thấy rõ, trong sự tinh vi của các cuộc tranh cãi hão huyền, thiên đường và địa ngục được đưa ra làm cái giá cho những trò chơi chữ; anh đã thấy ý tưởng cao cả và nguyên thủy về Chúa bị xuyên tạc đi bởi những tưởng tượng kỳ quái của con người; và, khi thấy rằng muốn tin ở Chúa cần phải từ bò lời phán quyết mà ta đã nhận ở người, anh cũng xem thường như thế những mơ tưởng nục cười của chúng ta và đối tượng mà chúng ta áp dụng các mơ tưởng ấy. Không hề biết chút nào về điều đang tồn tại, không hề tưởng tượng được ra sự phát sinh của các sự vật, anh ta đắm chìm trong sự dốt nát xuẩn ngốc với thói khinh mạn sâu xa đối với tất cả những ai tự cho rằng họ biết nhiều hơn anh ta.
“Sự lãng quên mọi tôn giáo dẫn tới sự lãng quên mọi nghĩa vụ của con người. Tiến trình này đã diễn ra được già nửa trong lòng anh chàng vô tín ngưỡng. Dù sao anh ta cũng không phải là một đứa trẻ sinh ra đã ác; nhưng sự vô tín ngưỡng, sự bần hàn dần dần dập tắt cái tự nhiên, nhanh chóng dẫn anh ta tới sự suy vi và chỉ chuẩn bị cho anh ta những thói quen của kẻ ăn mày và đạo đức của một kẻ vô thần.
“Cái xấu, hầu như không tránh khỏi, chưa được hấp thụ hoàn toàn. Chàng trai có kiến thức, và việc giáo dục của anh ta đã không bị sao nhãng. Anh đang ở cái tuổi may mắn mà dòng máu đang lên men bắt đầu sưởi ấm tâm hồn nhưng không bắt nó phải phục tùng sự cuồng nhiệt của nhục cảm. Tâm hồn anh vẫn còn đầy đủ sức mạnh của nó. Sự e thẹn bẩm sinh, một tính cách rụt rè thế cho cho sự ngượng nghịu và kéo dài cho anh ta cái thời kỳ mà trong đó các vị gìn giữ người học trò của mình với biết bao chăm chút. Cái gương tồi tệ của sự đồi bại hung tàn và của thói xấu vô duyên không hề khuấy động được sự tưởng tượng của anh mà còn làm giảm bớt đi. Từ lâu, nỗi chán chường đã giúp anh bằng cách thay thế cho đức độ để bảo tồn được sự trong sạch của mình; sự ngây thơ trong sạch ấy chỉ không chống chả nổi trước những cám dỗ ngọt ngào hơn.
“Giáo sĩ nhìn thấy sự nguy hiểm và các khả năng. Những khó khăn không hề làm ông chán nản: Ông thấy thích thú uổng công việc của mình; ông quyết tâm hoàn tất nó; ông muốn làm cho nạn nhân mà ông đã kéo ra khỏi sự ô nhục trở về với đức hạnh. Ông tiến hành từ xa để thực hiện dự định của mình: Cái đẹp của động cơ khích lệ nghị lực của ông và gợi ra cho ông các cách thức xứng đáng với nhiệt tình của mình. Cho dù thành tựu có là thế nào thì ông cũng tin chắc rằng không uổng phí thì giờ của mình. Người ta luôn luôn thành công khi chỉ muốn làm điều tốt đẹp.
“Ông bắt đầu làm cho người mới nhập đạo tin tưởng ở ông bằng cách không bán cho anh ta việc thiện của ông, không hề làm cho mình trở thành kẻ quấy rầy; không hề thuyết giáo dài dòng với anh ta, luôn luôn tự đặt mình ngang tầm với anh ta, tỏ ra mình nhỏ bé để được ngang hàng với anh ta. Theo tôi thì đó là một cảnh tượng khá xúc động cho thấy một con người nghiêm chỉnh lại kết bạn với một kẻ lang thang, và đức độ chịu thuận theo phong cách của sự tự do phóng túng để chiến thắng được sự tự do phóng túng chắc chắn hơn. Khi con người dại dột ấy đến trao đối với ông những tâm sự khùng điên của mình và thổ lộ hết với ông, giáo sĩ lắng nghe anh ta, làm cho anh thấy thoải mái; ông không tán thành cái xấu, song để ý tất cả mọi chuyện: Không bao giờ có sự chỉ trích lộ liễu nào làm ngưng những lời nói huyên thuyên của anh ta và làm khép lòng anh ta lại; niềm vui có được khi cảm thấy mình được người khác nghe làm tăng thêm niềm vui khi nói ra tất cả. Cuộc tổng xưng tội đã diễn ra như vậy mà anh ta không hề nghĩ gì đến việc xưng tội.
“Sau khi đã nghiên cứu kỹ những cảm nghĩ và tính cách của anh ta, giáo sĩ thấy rõ rằng đối với lứa tuổi của mình anh ta không phải là không biết gì, mà là anh ta đã quên hết những điều hệ trọng mà anh ta cần phải biết, và sự sỉ nhục mà sự may rủi đã buộc anh phải chịu bóp chết ở anh một ý thức thật sự về cái thiện và cái ác. Có một mức độ mụ mẫm u mê tước mất sự sống của tâm hồn; và tiếng nói nội tâm không biết làm sao để đánh tiếng được đến một con người chỉ có nghĩ đến mỗi một chuyện kiếm sống. Để tránh cho người thanh niên bất hạnh này khỏi cái chết tinh thần ấy mà anh ta đang cận kề, ông đã bắt đầu bằng cách làm thức tỉnh lòng tự ái và lòng tự trọng ở anh ta: Ông chỉ ra cho anh thấy một tương lai sung sướng hơn trong việc sử dụng tốt các tài năng của mình; ông làm sống lại trong tim anh bầu nhiệt huyết cao cả bằng những câu chuyện về những hành động đẹp của người khác; trong khi để anh ta tán thưởng những gì người ta đã làm, ông đã gây lại cho anh ta lòng ước muốn làm được những việc tương tự. Để từ từ tách anh ra khỏi cuộc sống lang thang và vô công rồi nghề, ông đã bảo anh làm những đoạn trích các sách được tuyển chọn; và, trong khi làm ra vẻ cần đến những đoạn trích này, ông đã nuôi dưỡng ở anh tình cảm cao thượng về lòng biết ơn. Ông trực tiếp giáo dục anh bằng những quyển sách ấy; ông đã gây lại được cho anh một sự đánh giá khá tốt về chính mình để không còn cho mình là một sinh thể vô ích cho mọi việc tốt, và để không còn muốn tự khinh ghét mình dưới con mắt của chính mình nữa.
“Một chuyện nhỏ sẽ giúp đánh giá về nghệ thuật được con người từ thiện ấy dùng để nâng cao dần dần trái tim của người đệ tử lên trên sự đê tiện mà không lộ vẻ suy nghĩ về việc giáo dục cho anh ta. Giáo sĩ đã có tiếng tăm rất lớn là người trung thực và biết phân định rất chính xác thành thử nhiều người thích trao của bố thí qua tay ông hơn là qua tay các tu sĩ giàu có ở các thành phố. Một hôm người ta đưa ông một ít tiền để phân phát cho người nghèo, chàng thanh niên đã hèn nhát lấy danh nghĩa người nghèo mà hỏi xin tiền ông. Ông nói không, vì chúng ta là anh em, cậu thuộc về tôi và tôi không thể đụng chạm tới số tiền giữ hộ người ta này để dùng cho mình. Rồi sau đó ông cho anh ta chừng ấy tiền mà anh ta hỏi xin nhưng bằng tiền riêng của ông. Những bài học kiểu như thế này ít có khi nào bị uổng phí trong tấm lòng những người thanh niên còn chưa hoàn toàn hư hỏng.
“Tôi chán nói ở ngôi thứ ba, đó là một sự thận trọng quá thừa; bởi vì các vị cảm thấy rõ rằng, hỡi đồng bào quý mến, con người bỏ trốn khốn khổ ấy chính là tôi: Tôi tự cho rằng mình đã đủ cách biệt với những vụ lộn xộn hồi tôi còn trẻ để dám thú nhận về chúng, và bàn tay đã lôi tôi ra khỏi đó rất xứng đáng được tôi chịu một chút xấu hổ để tôn vinh phần nào việc làm nghiên của bàn tay ấy.
“Điều gây cho tôi ấn tượng mạnh nhất là thấy rằng trong đời tư của ông thầy đáng kính của tôi, sự đức độ, không vấy chút đạo đức giả, long nhân đạo không chút yếu mềm, lời nói bao giờ cũng thẳng thắn và đơn giản, còn cách cư xử bao giờ cũng phù hợp với những lời nói ấy. Tôi không hề thấy ông lo lắng liệu những người được ông giúp đỡ có đi cầu kinh chiều, liệu họ có hay đi xưng tội, liệu họ có nhịn ăn vào những ngày đã định, liệu họ có ăn chay, cũng chẳng đặt ra cho họ những điều kiện tương tự khác mà không có chúng thì người ta phải chết đi vì cùng khổ, người ta không hy vọng được những người sùng đạo giúp đỡ gì hết.
“Được khích lệ bởi những điều nhận xét của ông thầy, không hề tự mình bày ra trước mắt ông cái nhiệt tình tự nhiên của một kẻ mới cải hóa, tôi không hề giấu ông chút nào những cách suy nghĩ của tôi và chẳng thấy ông bất bình tức giận hơn vì chuyện ấy. Đôi khi tôi đã có thể tự nhủ rằng: Ông bỏ qua cho tôi sự thờ ơ đối với tôn giáo mà tôi đã theo vì ông thấy tôi cũng thờ ơ đối với tôn giáo mà tôi đã sinh ra trong đó, ông biết rằng sự coi thường của tôi không còn là chuyện phe phái nữa. Nhưng tôi phải nghĩ thế nào đây khi thỉnh thoảng tôi nghe ông tán thưởng những tín điều trái ngược với giáo hội La Mã và tỏ vẻ ít coi trọng tất cả các nghi lễ của giáo hội này? Tôi sẽ nghe ông là tín đồ Tin lành giấu mặt nếu tôi đã được thấy ông ít trung thành với các tục lệ mà ông có vẻ ít trọng thị; nhưng vì biết rằng ông làm tròn nghĩa vụ của người linh mục khi không có ai chứng khiến cũng tinh xác như dưới mắt công chúng, tôi không còn biết đánh giá những mâu thuẫn này ra sao. Trừ cái khuyết điểm ngày xưa đã kéo theo tai họa của ông mà ông sửa chữa không thật tốt lắm còn thì ông sống gương mẫu, phẩm cách của ông không chê vào đâu được, ông nói năng trung thực và chí lý. Sống với ông trong quan hệ thân tình nhất, tôi học tập tôn trọng ông ngày một nhiều hơn; và lòng tốt nhường ấy hoàn toàn chinh phục được trái tim tôi, tôi mong đợi với sự sốt ruột kỳ lạ cái lúc được hiểu ra ông đã xây đắp tính nhất quán của một cuộc sống đặc thù như thế bằng những nguyên tắc nào.
“Cái thời khắc đó không đến sớm. Trước khi thổ lộ tâm tình của mình với tôi, ông ra sức làm nảy mầm các hạt giống của lý trí và lòng nhân từ mà ông đã gieo vào tâm hồn tôi. Điều khó khắc phục nhất ở tôi là thói ghét người mang tính kiêu hãnh, thái độ phần nào gay gắt đối với những người giàu có và những người sung sướng ở đời, cứ như là họ được như thế là có hại cho tôi và cái gọi là hạnh phúc của họ lấn sang hạnh phúc của tôi. Thói kiêu căng quá mức của tuổi trẻ kháng cự kịch liệt sự sỉ nhục chỉ làm cho tôi càng thiên nhiều hơn về khuynh hướng bực bội nóng nảy, và lòng tự ái mà người đỡ đầu của tôi ra sức khơi dậy trong tôi lại đưa tôi đến với tính tự phụ, làm cho mọi người dưới mắt tôi càng thấp kém hơn và chỉ làm cho họ phải chịu thêm ngoài sự căm ghét còn cả sự khinh miệt.
“Không hề đấu tranh trực tiếp với thói kiêu căng này, ông ngăn cản không cho nó trở thành tính khác nghiệt của tâm hồn; và không tước bỏ lòng tụ trọng của tôi, ông làm cho lòng tự trong ấy bớt đi thói coi thường người khác. Trong khi luôn gạt đi cái bề ngoài hư ảo bằng cách vạch ra cho tôi thấy những cái xấu mà nó che đậy, ông dạy cho tôi biết tiếc nuối trước những sai sót của đồng loại, biết mủi lòng trước cảnh bần cùng của họ và biết ái ngại cho họ hơn là đố kỵ. Đầy lòng trắc ẩn đối với sự yếu đuối của con người do có ý thức sâu xa về những yếu đuối của bản thân mình, ông thấy mọi nơi đều có những người là nạn nhân của các thói xấu của chính họ và của người khác; ông đã thấy những người nghèo rên xiết dưới ách của kẻ giàu có, và những kẻ giàu có dưới cái ách của những thành kiến. Ông nói, hãy tin ở ta rằng những ảo tưởng của chúng ta không những không che giấu nổi những tai ương khổ sở của chúng ta mà còn làm cho chúng tăng thêm, bằng cách coi những gì không hề có giá trị là giá trị, và làm cho chúng ta trở nên nhạy cảm với hàng ngàn sự thiếu thốn giả tạo mà nếu không có ảo tưởng thì chúng ta sẽ chẳng cảm nhận thấy. Sự yên tĩnh trong tâm hồn là coi khinh mọi cái có thể quấy rối nó: Người nào coi trọng cuộc sống nhất là người ít biết hưởng thụ cuộc sống nhất, ai cầu mong hạnh phúc khát khao nhất bao giờ cũng là người khốn khổ nhất. “Ôi! Những cảnh tượng buồn bã làm sao! Tôi kêu lên với nỗi lòng cay đắng: Nếu như phải từ chối tất cả thì chúng ta sinh ra để làm gì? Và nếu lại phải coi khinh ngay cả hạnh phúc nữa thì ai là người biết sung sướng? Đó là tôi, một hôm giáo sĩ trả lời như vậy với một giọng làm tôi kinh ngạc. Cha ư! Cha mà sung sướng ư, quá ít may mắn, quá nghèo khó, phải sống lưu vong, bị hành hạ, cha mà sung sướng ư? Và cha đã làm gì để được sung sướng? Này con, ông nói tiếp, ta sẵn lòng nói với con điều đó.
“Thế là ông cho tôi biết rằng sau khi nhận những lời xưng tội của tôi thì ông muốn xưng tội của mình. Ta sẽ trút vào lòng con, ông nói với tôi trong lúc ôm tôi, tất cả những tình cảm của trái tim ta. Con sẽ thấy ta nếu không như ta vốn là như thế thì ít ra như ta thấy về bản thân ta vậy. Khi con đã tiếp nhận toàn bộ lời tuyên bố về tín ngưỡng của ta, khi con đã biết rõ trạng thái tâm hồn ta, con sẽ rõ vì sao ta cho rằng mình sung sướng, và, nếu con suy nghĩ giống như ta thì con sẽ rõ điều con phải làm để được sung sướng. Nhưng mà những điều thú nhận này không phải chuyện chốc lát; phải có thời gian để giãi bày với con tất cả những gì ta suy nghĩ về số phận của con người và về chân giá trị của cuộc sống: Chúng ta hãy đề ra một giờ, một nơi thuận tiện để chúng ta được yên tĩnh trong cuộc chuyện trò này.
“Tôi lộ vẻ sốt sắng muốn nghe. Cuộc hẹn không bị hoãn lại quá buổi sáng hôm sau. Đang mùa hè, chúng tôi ngủ dậy lúc rạng đông. Ông dẫn tôi ra khỏi thành phố, lên một đồi cao, dưới chân đồi là sông Pô mà ta thấy chảy qua và tưới nước cho những bãi bờ màu mỡ; ở phía xa xa dãy núi Alpes bát ngát vây quanh quang cảnh vùng này; những tia mặt trời đang lên đã quét qua khắp các bình nguyên và chiếu lên các cánh đồng bằng những bóng dài của những cây cối, những gò đống, những ngôi nhà, chúng làm phong phú thêm bằng hàng ngàn mảng nhấp nhô sang tối cho bức tranh tuyệt đẹp mà mặt của con người phải kinh ngạc. Có thể nói rằng thiên nhiên đã trải rộng ra trước mắt chúng tôi tất cả sự tuyệt mỹ của mình để tạo nên bối cảnh của cuộc trò chuyện của chúng tôi. Thêm ở đó, sau một lát lặng ngắm phong cảnh ấy, con người của sự yên bình đã nói với tôi như sau:
TUYÊN TÍN CỦA
PHÓ LINH MỤC SAVOIE
“Con ơi, đừng mong đợi ở ta những lời nói thông thái cùng những lập luận sâu sắc. Ta không phải là nhà triết học lớn và ta ít quan tâm đến việc trở thành người như vậy. Nhưng đôi khi ta có lương tri, và ta luôn luôn yêu sự thật. Ta không muốn tranh cãi lý lẽ với con cũng chẳng muốn thuyết phục con; mà ta chỉ cần giãi bày với con điều ta suy nghĩ trong sự chất phác của lòng ta. Hãy xem xét lòng mình khi con nghe ta nói; đó là tất cả những gì ta đòi hỏi ở con. Nếu ta có lầm lẫn thì cũng là vì thiện ý, điều đó là đủ để sai lầm của ta không hề đáng để quy tội cho ta: Khi con cũng lầm lẫn như thế thì điều đó cũng không phải là tệ lắm. Nếu ta suy nghĩ kỹ thì lẽ phải là chung cho chúng ta, và chúng ta có cùng một lợi ích để nghe theo nó; vậy cớ sao con lại không suy nghĩ giống ta?
“Ta sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, địa vị xã hội này của ta dành ta cho việc làm ruộng; nhưng người ta lại cho rằng sẽ hay hơn nếu ta học để kiếm sống trong nghề làm linh mục, và rồi người ta cũng tìm được cách cho ta đi học. Chắc chắn là không riêng gì cha mẹ ta mà cả ta nữa đều không nghĩ mấy đến việc tìm được ở việc học hành này cái gì đó tốt, chân thực, có ích, mà là cái cần phải biết để được phong chức. Ta đã học cái mà người ta muốn ta học, ta nói điều mà người ta muốn ta nói, ta bày tỏ thái độ như người ta muốn, và ta đã trở thành linh mục. Nhưng ta sớm cảm thấy rằng trong khi bắt buộc mình không được làm đàn ông, ta đã cam kết nhiều hơn điều ta có thể chịu đựng được.
“Người ta nói với chúng ta rằng lương tâm là sản phẩm của các tiền lệ; trong khi đó ta lại biết bằng kinh nghiệm bản thân rằng lương tâm khăng khăng bám riết lấy trật tự của thiên nhiên để chống lại một luật lệ của con người. Người ta có cấm chúng ta điều này điều nọ cũng vô ích, sự sám hối có chê trách chúng ta về điều ta được tự nhiên đã xếp đặt sẵn cho phép thì bao giờ cũng yếu ớt huống chi đó là điều mà tự nhiên đòi hỏi ở chúng ta. Ôi chàng trai tốt bụng của ta ơi, tự nhiên còn chưa nói gì vời các giác quan của con: Con hãy sống lâu trong tâm trạng vui sướng mà ở đó tiếng nói của tự nhiên là tiếng nói của sự trong trắng. Con hãy nhớ rằng người ta xúc phạm đến tự nhiên khi người ta ngăn ngừa nó còn nhiều hơn là khi người ta chống lại nó; phải bắt đầu bằng việc học chịu đựng để biết khi nào ta không thể chịu được nữa mà không đáng tội.
“Từ hồi trẻ, ta đã tôn trọng hôn nhân như một định chế đầu tiên và thánh thiện nhất của tự nhiên. Trong khi ta bị tước quyền phục tùng định chế ấy, ta quyết không làm uế tạp chút nào đến điều này; bởi vì, mặc dầu các lớp học và việc nghiên cứu của ta, do luôn sống một cuộc sống đơn điệu và giản dị, ta vẫn gìn giữ được trong tâm hồn mình trọn vẹn ánh hào quang của những luồng ánh sáng nguyên thủy: Những câu châm ngôn ở đời không hề che mờ được chúng và sự nghèo khó của ta làm ta xa rời các cám dỗ thường mách bảo những ngụy biện sai lầm.
“Quyết ý này chính là điều làm cho ta bị nguy khốn; sự tôn trọng của ta đối với hôn nhân của người khác đã để cho các lỗi lầm của ta bị phát hiện. Phải gánh chịu hậu quả của việc gây tai tiếng: Bị bắt giữ, bị cấm đoán, bị xua đuổi, ta là nạn nhân của sự băn khoăn cẩn trọng của mình nhiều hơn là nạn nhân của sự không kiềm chế được mình; và ta đã có dịp để hiểu ra trong những lời trách cứ đi kèm việc ta bị thất sủng, nhiều khi chỉ cần làm cho lỗi nặng lên là thoát được sự trừng phạt.
“Ít có những trải nghiệm tương tự dẫn được một đầu óc có suy nghĩ đi rất xa. Trong khi nhận ra rằng những lời khiển trách đáng buồn lắm đảo lộn hết những ý tưởng của ta về công bằng, về sự chính trực, và về mọi nghĩa vụ của con người, mỗi ngày ta lại mất đi một vài ý kiến mà ta đã tiếp nhận; những ý kiến còn lại ở ta không đủ sức hợp thành một thực thể có thể tự mình đứng vững, ta cảm thấy tính hiển nhiên của các nguyên tắc dần dần bị mờ đi trong đầu óc ta, và, cuối cùng bị dồn đến chỗ không còn biết nghĩ gì nữa, ta đã đi tới chính cái điểm mà con đang ở đó; với sự khác biệt là mối hoài nghi của ta, vốn là kết quả muộn mằn của một độ tuổi chín chắn hơn, đã được hình thành với nhiều đau khổ hơn, và trở nên khó khắc phục hơn. Ta đã lâm vào những khuynh hướng tương tự và ngờ vực mà Descartes đòi hòi để tìm ra chân lý. Tình trạng này không hợp để kéo dài, nó gây lo ngại và khó chịu; chỉ có lợi ích của cái xấu hoặc sự lười biếng của tâm hồn mới để chúng ta ở lại tình trạng đó. Ta không có một trái tim đủ hư hỏng để thích thú trong tình trạng này; và không có gì bảo tồn được thói quen suy nghĩ tốt hơn là thấy bằng lòng với bản than mình hơn là bằng lòng với số phận.
“Vậy nên ta cứ ngẫm nghĩ về cảnh ngộ đáng buồn của những con người đang trôi nổi bập bềnh trên biển cả dư luận của con người mà không có bánh lái không có la bàn, và phó mặc mình cho những đam mê đầy bão tố của họ, lại không có một ai dẫn đường ngoài một người hoa tiêu không có kinh nghiệm không rõ đường mình đi, và không biết anh ta từ đâu tới và anh ta sẽ đi tới đâu Ta tự nhủ: Ta yêu chân lý, ta đi tìm chân lý, và rồi chẳng nhận ra nó; người ta hãy chỉ nó cho ta và ta để mình gắn bó với nó: Tại sao chân lý cứ lẩn mình trước sự sốt sắng của một trái tim sẵn sàng tôn thờ nó?
“Cho dù ta thường cảm thấy những đau khổ lớn nhất, ta cũng chưa bao giờ từng trải qua một cuộc sống luôn luôn khó chịu đến như trong thời gian của bối rối và lo âu này, hồi ấy, không ngừng đi lan man từ hoài nghi này sang hoài nghi khác, ta chỉ mang về từ những suy ngẫm rất lâu của ta sự lưỡng lự, sự không rõ ràng, những mâu thuẫn về nguyên nhân tồn tại của mình và về quy tắc trong các nghĩa vụ của mình.
“Sao người ta lại có thể là kẻ hoài nghi cố chấp và thực tâm? Ta không sao hiểu nổi điều đó. Các nhà triết học này, hoặc họ không tồn tại, hoặc họ là những kẻ khốn khổ nhất trong những con người. Sự hoài nghi về các sự việc mà ta cần phải biết là một trạng thái quá dữ dội cho đầu óc con người: Nó không chịu đựng được lâu; dù không muốn nó cũng quyết định bằng cách này hay cách khác, và nó thích lầm lẫn hơn là không tin gì hết.
“Điều làm ta bối rối bội phần, là được sinh ra trong một Giáo hội quyết định tất cả, không cho phép có một hoài nghi nhỏ nào, chỉ một điểm bị bác bỏ làm cho ta bác bỏ hết cả phần còn lại, và việc không thể chấp nhận bao nhiêu là quyết định phi lý cũng làm cho ta xa rời cả những quyết định không phi lý. Trong khi bảo ta: Hãy tin tất cả, người ta ngăn không cho ta tin vào một cái gã và ta không còn biết dừng lại ở chỗ nào nữa.
“Ta hỏi ý kiến các nhà triết học, ta đọc lướt các sách vở của họ, ta nghiên cứu nhiều quan điểm khác nhau của họ; ta thấy tất cả đều tự phụ, quyết đoán, giáo điều, ngay cả trong cái nhận là chủ nghĩa hoài nghi của họ, cái gì cũng biết, không chứng minh được gì hết, nhạo báng lẫn nhau; và ta thấy cái điểm chung này của tất cả bọn họ là điểm duy nhất mà tất cả bọn họ đều có lý. Là những kẻ đắc thắng khi tấn công, họ lại chẳng có khí lực khi tự vê. Nếu con cân nhắc các lý lẽ, thì họ chỉ có lý lẽ để phá hủy, nếu con tính đến mỗi người trong bọn họ quy về con đường của riêng mình; họ chỉ nhất trí được với nhau là phải cãi cọ; thế thì lắng nghe họ không phải là cách để thoát ra khỏi tâm trạng tương tự của ta.
“Ta hiểu rằng sự yếu kém của đầu óc con người là nguyên nhân đầu tiên của sự khác biệt dị thường về cảm nghĩ và thói kiêu ngạo là nguyên nhân thứ hai. Chúng ta không có kích thước của cỗ máy to lớn này[214]chúng ta không thể tính được tỉ lệ; chúng ta không biết cả các quy luật đầu tiên lân nguyên nhân cuối cùng; chúng ta không hề biết gì về chính chúng ta; chúng ta không biết cả bản chất lẫn nguyên tắc hoạt động của chúng ta; hầu như chúng ta không biết liệu con người có là một sinh vật đơn giản hay lại phức tạp? Những điều huyền bí không tìm hiểu được vây quanh chúng ta từ mọi phía; chúng đều vượt lên trên vùng cảm nhận được; để chọc thủng những bí ẩn ấy chúng ta tưởng có trí thông minh, thế mà chúng ta lại chỉ có sự tưởng tượng. Mỗi người tự khai thông cho mình xuyên qua các thế giới tưởng tượng này lấy một con đường mà mình cho là tốt; chẳng có ai biết được liệu con đường của mình có dẫn đến mục đích hay không. Trong khi đó chúng ta lại muốn thông suốt tất cả, muốn biết tất cả. Điều duy nhất mà chúng ta không hề biết đó là không biết cái mà chúng ta chẳng thể biết. Chúng ta thích tự mình quyết định một cách tùy tiện, và tin vào điều chẳng tồn tại hơn là thú nhận rằng chẳng có ai trong chúng ta nhận diện được sự việc. Là bộ phận nhỏ bé của một tổng thể to lớn mà chúng ta không biết những ranh giới của nó, và tác giả của nó cứ phó mặc nó cho những cãi cọ loạn xạ của chúng ta, chúng ta thật khá là tự phụ vì cứ muốn xác định cái tổng thể này xem chính nó là cái gì và chúng ta là cái gì so với tổng thể ấy.
“Khi các nhà triết học có khả năng phát hiện ra chân lý thì kẻ nào trong bọn họ sẽ được hưởng lợi ở đó? Ai trong bọn họ cũng đều biết rằng hệ thống của mình không có căn cứ vững vàng hơn hệ thống của những người khác; nhưng ông ta bảo vệ nó vì nó là của ông ta. Trong chuyện này chẳng có một ai khi vừa mới biết cái thật cái giả lại không tán thưởng điều dối trá mà ông ta tìm ra hơn là chân lý do một người khác phát hiện ra. Đâu là nhà triết học không sẵn lòng đánh lừa loài người vì vinh quang của mình? Đâu là người mà trong thâm tâm dự định một mục tiêu khác với việc được nổi tiếng? Miễn là ông ta vượt lên trên được cái tầm thường, miễn là ông ta xóa mờ được tiếng tăm rạng rỡ của người khác là những đối thủ cạnh tranh với mình, ông ta còn đòi hỏi thêm cái gì? Căn bản là suy nghĩ một cách khác hơn so với những người khác. Ở chỗ các tín đồ thì ông ta là kẻ vô thần, ở chỗ những người vô thần thì ông ta lại là người tin đạo.
“Kết quả đầu tiên mà ta rút ra được từ những suy ngẫm này là biết cách hạn chế những tìm tòi của mình ở điều trực tiếp làm ta để ý tới, biết dừng lại trong sự không biết hoàn toàn về tất cả phần còn lại để chỉ băn khoăn, thậm chí đến nghi ngờ, về những sự việc ta cần phải biết.
“Ta lại còn hiểu rằng các nhà triết học chẳng những không giải tỏa cho ta những nghi hoặc không cần thiết, lại chỉ làm tăng thêm những điều làm ta dằn vặt băn khoăn mà chẳng giải quyết được một điều nào trong số đó. Cho nên ta phải kiếm một người hướng dẫn khác và ta tự nhủ: Ta hãy tham khảo luồng ánh sáng nội tâm, nó sẽ ít làm ta lầm lạc hơn các nhà triết học nọ, hoặc, ít ra là sai lầm của ta là của chính ta và ta tự làm cho mình còn ít bị lầm lạc khi theo đuổi những ảo tưởng riêng hơn là khi phó thác mình cho những lời dối trá của bọn họ.
“Thế là, ôn lại trong đầu óc mình các ý kiến khác nhau đã lần lượt thay nhau lôi cuốn ta từ khi sinh ra ở đời cho đến nay; ta thấy rằng không có điều nào trong số đó là đủ chắc chắn để lập tức gây được lòng tin, chúng có bề ngoài như thực ở các mức độ khác nhau mà sự tán đồng trong nội tâm thuận theo hoặc là khước từ cái bề ngoài ấy ở những mức độ khác nhau. Dựa trên nhận xét đầu tiên này trong khi so sánh tất cả các ý kiến khác biệt ấy với nhau mà bỏ qua các thành kiến, ta thấy rằng ý kiến đầu tiên và thông thường nhất cũng là ý kiến đơn giản nhất và hợp lý nhất và nó hội đủ mọi sự tán thành chỉ vì không được đề xuất sau cùng mà thôi. Con hãy tưởng tượng xem tất cả các nhà triết học cổ và hiện đại của con thoạt tiên đều vận dụng đến cạn kiệt các hệ thống kỳ cục của họ về khả năng, về vận may, về tính tất yếu, về sự cần thiết, về các nguyên tử, về thế giới sống động, về vật chất sống, về chủ nghĩa duy vật đủ kiểu và sau tất cả bọn họ, ông Clarke lỗi lạc khi soi sáng thế giới, cuối cùng báo tin về Thượng đế và người ban phát mọi vật: Hệ thống mới này chắc sẽ được đón nhận với sự ngưỡng mộ rộng khắp, với sự hoan nghênh đồng thuận biết bao nhiêu, cái hệ thống quá lớn, quá an ủi lòng người, quá cao cả, quá thích hợp để nâng cao tâm hồn, để làm cơ sở cho đức độ và đồng thời quá lạ lùng, quá sáng tỏ, quá giản dị, và theo ta hệ thống này đưa ra những điều mà đầu óc con người không sao hiểu nổi hơn là những điều phi lý trong tất cả các hệ thống khác. Ta tự nhủ: Những chống đối nan giải là nét chung cho tất cả mọi hệ thống bởi lẽ đầu óc con người là quá hạn chế để giải đáp chúng; cho nên những chống đối ấy tỏ ra không đối lập với một hệ thống nào: Nhưng các bằng chứng trực tiếp lại khác xa biết mấy! Riêng có hệ thống này là giải thích được tất cả, chẳng phải đáng được ưa chuộng hơn sao, khi nó không có khó khăn nhiều hơn những hệ thống khác? Toàn bộ triết học ta mang trong mình là tình yêu chân lý, và toàn bộ phương pháp là một quy tắc dễ dàng và đơn giản, nó miễn cho ta sự tinh vi vô bổ của các lý lẽ, dựa trên quy tắc này ta xem xét lại những kiến thức làm ta quan tâm, cương quyết chấp nhận là hiển nhiên đúng tất cả những kiến thức nào mà trong trái tim chân thành của mình ta không thể khước từ được sự tán đồng, chấp nhận là sự thật tất cả những gì mà ta cho là có liên quan với những điều đã được coi là hiển nhiên ấy, và đặt tất cả những điều khác vào vòng nghi vấn mà không loại bỏ cũng chẳng chấp nhận chúng và cũng chẳng băn khoăn đến chuyện làm cho chúng sáng tỏ khi chúng chẳng dẫn tới cái gì gọi là có ích cho thực tiễn.
“Mà ta là ai nhỉ? Ta có quyền gì mà phán xét mọi việc? Và cái gì quyết định những nhận định của ta? Nếu như những nhận định ấy của ta bị cuốn hút hay bị áp đặt bởi những ấn tượng mà ta nhận được thì ta thật nhọc lòng uổng phí trong những tìm tòi này, chúng sẽ chẳng tiến hành, hoặc là tự chúng tiến hành mà chẳng cần có ta xen vào để điêu khiến chúng. Vậy thì trước hết phải hướng sự nhìn nhận của ta về bản thân mình để biết được rằng công cụ nào ta muốn dùng là như thế nào và ta có thể tin cậy vào việc sử dụng nó đến mức nào.
“Ta tồn tại, và ta có các giác quan làm cho ta bị tác động. Đó là sự thật đầu tiên chiếu rọi vào ta và ta buộc phải đồng ý như vậy. Liệu ta có một cảm xúc đặc thù về sự tồn tại của mình hay ta lại chỉ cảm nhận được nó bằng các cảm giác của mình? Đó là sự nghi ngờ đầu tiên của ta mà cho đến tận lúc này ta vẫn không sao giải đáp được. Bởi vì liên tục chịu tác động bởi các cảm giác, hoặc trực tiếp hoặc qua ký ức, làm sao ta có thể biết được liệu cảm nghĩ về cái tôi là một cái gì đó ở bên ngoài của chính các cảm giác ấy, và liệu cảm nghĩ này có thể không phụ thuộc vào các cảm giác ấy?
“Những cảm giác của ta xảy ra trong ta chính vì chúng làm cho ta cảm nhận được sự tồn tại của mình; nhưng nguyên nhân của chúng đối với ta lại xa lạ, chính vì chúng cứ tác động vào ta dù rằng ta sở hữu chúng, mà chẳng hề phụ thuộc gì vào ta cả về mặt sản sinh, cả về mặt triệt tiêu chúng. Vậy thì ta hiểu rõ ràng cảm giác của ta là ở trong ta và nguyên nhân hay đối tượng của nó lại ở bên ngoài ta, đó là những việc khác nhau hoàn toàn.
“Như vậy không chỉ riêng mình ta tồn tại mà còn tồn tại các thực thể khác xem như là các đối tượng cho các cảm giác của ta; và khi các đối tượng này lạ chỉ là các ý tưởng thì phải chăng, luôn luôn các ý tưởng chẳng phải là ta. Thế mà, mọi cái ta cảm nhận được ở bên ngoài ta và tác động lên các giác quan của ta, ta gọi là vật chất còn tất cả các phần vật chất mà ta quan niệm hội nhập lại thành các thực thể riêng biệt, ta gọi chúng là các vật thể, vậy nên mọi tranh cãi giữa những người duy tâm và duy vật chẳng có nghĩa lý gì đối với ta; sự phân biệt của họ về sự biểu hiện và thực chất của các vật thể chỉ là những ảo tưởng.
“Thế là ta đã hoàn toàn tin chắc về sự tồn tại của vũ trụ và của ta. Tiếp đó ta suy nghĩ về những đối tượng của các cảm giác của ta; và, trong khi thấy ở mình có khả năng so sánh chúng, ta thấy mình được trang bị một khả năng hoạt động mà trước nay ta không biết là mình có.
“Nhận thấy tức là cảm nhận; so sánh tức là phán đoán; phán đoán và cảm nhận là những việc khác hẳn nhau. Bằng cảm giác, các đồ vật đến với ta đều tách biệt, riêng rẽ, hệt như chúng là thế trong tự nhiên; bằng so sánh, ta lật đi lật lại chúng, có thể nói ta chuyền chúng đi, đặt chúng chồng lên nhau để làm rõ sự khác nhau hay giống nhau của chúng, và nói chung là về mọi tương quan của chúng. Theo ý ta khả năng phân biệt của một bản thể hoạt động hay thong minh là để có thể đưa ra một nghĩa cho từ là. Ta uổng công tìm tòi ở các bản thể chỉ có cảm giác đơn thuần cái khả năng thông minh ấy, nó phủ lên mặt ngoài rồi biểu lộ ra; ta không thể thấy cái đó trong bản chất của nó. Cái thực thể thụ động này cảm nhận mỗi đối tượng một cách riêng rẽ, hoặc nó cảm nhận đối tượng tổng thể do hai cái gộp lại cũng thế; nhưng bởi nó chẳng hề có năng lực nào để mà gấp cái nọ lên cái kia, nó không bao giờ so sánh chúng và không hề phán đoán về chúng.
“Thấy hai đối tượng cùng lúc, không phải là đã thấy mối quan hệ của chúng, cũng chẳng phán đoán được sự khác biệt của chúng; nhận ra nhiều đối tượng cùng lúc cái nọ ở ngoài cái kia không phải là đếm được chúng. Ta có thể có đồng thời ý tưởng về một cây gậy lớn và một cây gậy nhỏ mà không so sánh chúng, không phán đoán xem cái này bé hơn cái kia, giống như ta có thể đồng thời thấy toàn bộ bàn tay ta mà không đếm các ngón tay[215]. Các ý tưởng so sánh lớn hơn, bé hơn cũng giống như các ý tưởng về số một, hai v.v… Chắc chắn không phải là các cảm giác, dù rằng đầu óc ta chỉ sản sinh ra nó vào dịp ta có các cảm giác.
“Người ta nói với chúng ta rằng bản thể có cảm giác phân biệt được cảm giác này với cảm giác kia bằng sự khác nhau vốn có giữa chúng với nhau: Điều này cần được giải thích. Khi các cảm giác là khác nhau, bản thể có cảm giác phân biệt chúng bằng sự khác biệt của chúng: Khi chúng giống nhau, nó phân biệt chúng bởi vì nó cảm nhận được những cái này ở ngoài những cái kia. Nếu không thì nó làm thế nào mà phân biệt được hai đối tượng bằng nhau trong một cảm giác đồng thời? Nó cần phải gộp hai đối tượng lại coi như là cùng một đối tượng, nhất là trong một hệ thống mà người ta chủ trương rằng các cảm giác biểu thị quảng tính không được mở rộng.
“Khi hai cảm giác để so sánh đã được nhận ra, chúng đã gây được ấn tượng, mỗi đối tượng đã được cảm nhận, cả hai đối tượng đều đã được cảm nhận, nhưng không phải vì thế mà mối tương quan giữa chúng được cảm nhận. Nếu sự phán đoán về mối tương quan này chỉ là một cảm giác và chỉ đến với ta bằng mỗi một con đường duy nhất là từ đối tượng thì các phán đoán của ta không bao giờ đánh lừa ta, chính vì nó không bao giờ sai ở chỗ ta cảm nhận cái mà ta cảm nhận được.
“Vậy tại sao ta lại lầm về mối tương quan của hai cây gậy ấy như thế, nhất là khi chúng không song song với nhau? Tại sao ta lại bảo, chẳng hạn cây gậy nhỏ bằng một phần ba của cây gậy lớn, trong khi nó chỉ bằng có một phân tư. Tại sao hình ảnh tức là cảm giác lại không phù hợp với vật mẫu của hình ảnh ấy, tức là đối tượng? Đó là vì ta hoạt động khi ta phán đoán, vì thao tác so sánh bị mắc lỗi, và lý trí của ta khi phán đoán về các mối tương quan lại đem trộn lẫn những cái sai của nó vào với cái chân thực của cảm giác, là cái chỉ chỉ ra các đối tượng.
“Hãy thêm vào điều đó một điều suy nghĩ mà ta chắc chắn rằng con sẽ ngạc nhiên khi con nghĩ đến nó; đó là nếu chúng ta hoàn toàn thụ động trong việc sử dụng các giác quan của mình thì giữa chúng với nhau sẽ không còn có một giao lưu nào hết, và chúng ta không thể nào biết được rằng vật thể mà chúng ta đụng chạm tới và đối tượng mà ta nhìn thấy lại chỉ là một. Hoặc là chúng ta sẽ không bao giờ cảm nhận được gì hết ngoài chúng ta, hoặc là sẽ có cho chúng ta năm thực thể nhạy cảm mà chúng ta không có cách gì để nhận ra được sự đồng nhất.
“Nếu người ta đặt ra cái tên này hay tên khác cho khả năng của đầu óc ta vốn kết hợp và so sánh các cảm giác của ta; nếu gọi nó là chú ý, trầm tư, suy nghĩ hay là cái gì mà người ta thích đi nữa; thì liệu có thật là bao giờ nó cũng là ở trong ta chứ không ở trong các đồ vật, có thật là chỉ riêng mình ta sản sinh ra nó, dù rằng ta chỉ sản sinh ra nó nhân dịp đối tượng tạo được ấn tượng với ta. Không làm chủ được việc cảm nhận hay không cảm nhận, ta làm chủ được việc xem xét nhiều hay ít cái mà ta cảm nhận.
“Vậy ta không đơn thuần là một bản thể có cảm giác và thụ động, mà là một bản thể hoạt động và thông minh và cho dù triết học có nói gì về điều này, ta cũng dám tự phụ là có vinh dự được suy nghĩ. Có điều là ta biết rằng chân lý ở trong sự vật chứ không phải trong đầu óc ta đang phán đoán về các sự vật ấy, và biết rằng ta càng ít đem cái của riêng mình vào các phán đoán mà ta đưa ra thì ta lại càng tiếp cận được chân lý chắc chắn hơn: Như vậy quy tắc của ta là phó thác cho cảm tính hơn là cho lý tính đã được chính lý tính thừa nhận.
“Có thể nói rằng khi tự chắc chắn về mình rồi ta bắt đầu nhìn ra bên ngoài bản thân mình, và ta xét kỹ mình với một thái độ như là run rẩy, bị ném vào, bị lạc trong vũ trụ mênh mông này, và như là đắm chìm trong hằng hà sa số các bản thể, chẳng hề biết chúng là cái gì, cả giữa chúng với nhau, cả trong quan hệ với ta. Ta nghiên cứu chúng, ta quan sát chúng, và đối tượng đầu tiên xuất hiện với ta để so sánh với chúng, đó chính là ta vậy.
“Tất cả những gì mà ta nhận ra bằng các giác quan đều là vật chất, và ta suy ra tất cả các đặc tính chủ yếu của vật chất từ các phẩm chất có thể cảm nhận được, chúng đã để cho ta nhận ra vật chất và chúng không thể tách rời vật chất. Ta thấy vật chất khi thì vận động khi thì đứng yên[216], từ đó ta suy ra rằng cả đứng yên lẫn vận động đều không phải là cái chủ yếu đối với vật chất; mà vận động vốn là một hoạt động, là kết quả của một nguyên nhân mà trạng thái đứng yên chỉ là không có nguyên nhân ấy. Vậy nên khi không có cái gì tác động vào vật chất, nó không hề chết đi, và, cũng chính vì điều đó mà nó dửng dưng không phân biệt sự đứng yên và sự vận động, trạng thái tự nhiên của nó là ở sự đứng yên.
“Ta nhận ra trong các vật thể có hai loại vận động là vận động được truyền đến và vận động tự phát hay chủ động. Trong vận động thứ nhất, nguyên nhân phát động nằm bên ngoài vật thể bị chuyển động, và trong vận động thứ hai nó ở bên trong chính vật thể ấy. Từ đó ta không kết luận rằng vận động của một chiếc đồng hồ chẳng hạn là một vận động tự phát; vì nếu không có cái gì bên ngoài dây cót tác động vào nó thì nó làm sao mà cuốn lại được để rồi kéo được dây chuyền. Vì cùng một lý do ấy ta không những không đồng ý các chất lỏng có tính tự phát mà còn cả với lửa cũng thế dù lửa tạo ra được tính lưu chuyển của các chất lỏng ấy[217].
“Con sẽ hỏi ta rằng liệu những vận động của các động vật có là tự phát chăng, ta sẽ bảo con rằng ta không biết gì về điều đó, nhưng sự tương tự là được xác nhận. Con sẽ hỏi ta thêm: Vậy tại sao ta biết có những vận động tự phát; ta sẽ bảo con rằng ta biết nó vì ta cảm nhận được nó. Ta muốn cử động cánh tay và ta cử động nó, mà sự vận động này không có nguyên nhân trực tiếp nào khác ngoài ý chí của ta. Thật là uổng công nếu người ta cứ muốn lập luận thủ tiêu cái cảm tưởng này ở ta, nó mạnh hơn mọi sự hiển nhiên, cũng ngang với họ muốn chứng minh ta không tồn tại vậy.
“Nếu như không hề có tính tự phát trong các hành động của con người, cả trong bất cứ cái gì được tạo thành trên trái đất, thì người ta lại chỉ càng bối rối hơn trong việc hình dung ra nguyên nhân đầu tiên của một vận động. Đối với ta, ta cảm thấy tin tưởng hoàn toàn rằng trạng thái tự nhiên của vật chất là đứng yên và tự nó chẳng hề có một lực nào để mà tác động bởi chính nó, thành thử khi thấy một vật đang vận động ta phán đoán ngay rằng hoặc đó là một vật thể sống động hoặc cái vận động ấy được truyền tới nó. Đầu óc ta khước từ mọi kiểu tán đồng với ý tưởng về vật chất không có tổ chức mà tự nó cử động được hoặc tạo ra được một vài hoạt động.
“Tuy nhiên, vũ trụ thấy được này là vật chất, vật chất tản mạn và chết[218], trong tổng thể của nó không hề có gì là thống nhất, là hữu Cơ, là cảm tưởng chung của các bộ phận của một vật thể sống, bởi chắc chắn rằng chúng ta là những bộ phận mà không cảm nhận được chút nào trong tổng thể. Chính vũ trụ này đang vận động, và các vận động của nó được điều chỉnh, đều đặn, tuân theo những quy luật không thay đổi, nó không có chút gì là cái tự do được biểu hiện ra trong các vận động tự phát của con người và động vật. Cho nên thế giới không phải là một con vật to lớn tự mình cử động; trong các vận động của thế giới phải có một số nguyên nhân ngoại lai đối với nó, mà ta không nhận thấy được, nhưng sự tin chắc trong lòng làm cho ta thấy nguyên nhân này là cảm nhận được đến mức ta không thể nhìn thấy Mặt trời lăn đi mà không tưởng tượng ra một lực đẩy nó, hoặc đến mức, nếu Trái đất quay, ta ngỡ cảm thấy có bàn tay quay nó.
“Nếu phải chấp nhận những Định luật tổng quát mà ta không hề thấy những mối tương quan bản chất của chúng với vật chất, thì tôi sẽ tiến hơn cái gì chứ? Các quy luật này không hề là các bản thể có thật, không hề là các thực thể cho nên chúng có một vài nền tảng khác mà ta không biết rõ. Kinh nghiệm và sự quan sát đã cho chúng ta biết các quy luật của vận động; các quy luật này quy định các hiệu quả mà không cho thấy rõ nguyên nhân; chúng không đủ để giải thích được hệ thống của thế giới và sự vận hành của vũ trụ. Descartes khép kín trời và đất bằng những con xúc xắc nhưng ông cũng không thể nêu ra được cú lay động đầu tiên cho những con xúc xắc này, cũng chỉ có thể khiến lực ly tâm của nó đi vào hoạt động nhờ một động tác quay tròn. Newton đã phát hiện ra lực hấp dẫn; nhưng sự hấp dẫn riêng mình nó sẽ quy ngay vũ trụ về một khối bất động: Lại phải gắn vào luật này một lực phóng để làm cho các thiên thể tạo được các đường cong. Descartes, hãy nói cho chúng tôi Định luật vật lý nào đã làm quay cuồng những cuộn xoáy lốc của ông ta đi nào, Newton hãy chỉ cho chúng tôi thấy bàn tay đã ném các hành tinh lên đường tiếp tuyến với các quỹ đạo của chúng đi nào.
“Các nguyên nhân đầu tiên của vận động không hề nằm trong vật chất, vật chất nhận được vận động và truyền nó đi, nhưng không sản sinh ra vận động ấy. Ta càng quan sát tác dụng và phản tác dụng của các lực trong tự nhiên, những lực này tác dụng lên những lực khác, ta lại càng thấy rằng từ hiệu ứng này sang hiệu ứng khác, bao giờ cũng cứ phải đi ngược lên tới một ý chí nào đó lấy làm nguyên nhân đầu tiên; bởi vì giả định một diễn tiến các nguyên nhân đến vô tận, tức là chẳng giả định gì hết. Tóm lại mọi vận động mà không sinh ra bởi một vận động khác thì chỉ có thể đến từ một tác động tự phát, có chủ ý, các vật thể không hoạt động chỉ tác động bởi vận động và không hề có hành động thực sự nào mà có ý chí. Đó là nguyên tắc đầu tiên của ta. Cho nên ta tin rằng một ý chí làm vận động vũ trụ và khuấy động tự nhiên. Đó là tín điều thứ nhất của ta hay lời nguyện tin thứ nhất của ta.
“Một ý chí sinh ra một tác động vật lý và biến hình như thế nào? Ta không hề biết, nhưng ta chiêm nghiệm thấy trong ta rằng ý chí sinh ra tác động ấy. Ta muốn tác động và ta tác động; ta muốn vận động thân thể và thân thể ta vận động; nhưng một vật thể không sống động và đứng yên lại sắp sửa tự mình vận động hoặc sản sinh ra vận động thì đó là điều không sao hiểu nổi và không thấy có ví dụ nào. Ý chí cho ta biết được thông qua các tác động của nó, chứ không phải do bản chất của nó. Ta biết ý chí đó như là nguyên nhân phát ra động lực; nhưng hiểu rằng vật chất sản sinh ra vận riêng thì rõ ràng có nghĩa là một hiệu quả mà không có nguyên nhân, thể hoàn toàn chẳng hiểu gì hết.
“Ta không thể hiểu rõ được ý chí của ta làm thế nào mà vận động được thân xác ta, cũng như không hiểu được các cảm giác của ta tác động thế nào lên tâm hồn ta. Ta cũng không biết tại sao một trong những điều huyền bí này lại có vẻ dễ giải thích hơn điều kia. Còn ta, khi thì ta thụ động, khi thì ta lại chủ động, cái cách kết hợp hai thực thể có vẻ như với ta là tuyệt đối không thể hiểu được. Thật kỳ lạ là người ta lại xuất phát từ chính điều không thể hiệu nổi này để làm lẫn lộn hai thực thể, cử như thế các thao tác của tự nhiên hết sức khác biệt nhau sẽ được giải thích rõ trong một chủ thể đơn độc hơn là trong hai chủ thể.
“Tín điều mà ta vừa lập nên là không rõ ràng, đúng thế; nhưng rốt cuộc nó cũng đưa ra được một ý nghĩa và nó không hề có gì trái ngược với lẽ phải cũng như với sự quan sát: Người ta có thể nói được chừng đó về chuyện này trong chủ nghĩa duy vật không? Chẳng phải đã rõ ràng là nếu vận động là cất yếu đối với vật chất thì nó không thể tách rời khỏi vật chất được, nó sẽ luôn luôn ở đó với cùng một mức độ, bao giờ cũng là mức độ ấy trong mỗi phần của vật chất, nó sẽ không thể truyền đi được, nó cũng không thể tăng lên mà cũng không thể giảm đi và người ta cũng không thể hiểu được vật chất trong trạng thái đứng yên? Khi người ta nói với ta rằng vận động không phải là điều chủ yếu đối với vật chất nhưng là cần cho nó, người ta muốn lừa ta bằng các từ sẽ dễ bác bỏ hơn nếu chúng có nghĩa thêm một chút. Bởi vì, hoặc là vận động của vật chất đến từ chính nó và thế thì vận động là điều chủ yếu của vật chất, hoặc là, nếu vận động đến từ một nguyên nhân bên ngoài thì vận động chỉ cần thiết cho vật chất cũng ngang với cần cái nguyên nhân tác động vào nó: Thế là chúng ta quay về với khó khăn ban đầu.
“Các ý tưởng tổng quát và trừu tượng là nguồn gốc gây ra những sai lầm lớn nhất của con người; chẳng bao giờ cái biệt ngữ siêu hình học lại giúp phát hiện được lấy một chân lý đơn lẻ nào, và nó chất đầy những phi lý vào triết học khiến người ta hổ thẹn, khi người ta vừa lột khỏi chúng những từ ngữ to tát của chúng. Này anh bạn, hãy cho ta biết, khi người ta nói với con về một sức mạnh mù quáng rải khắp tự nhiên, liệu họ có đem lại một ý tưởng thực sự nào đó cho đầu óc con chăng. Người ta cử tưởng rằng có nói lên được vài điều gì đó bằng các từ ngữ mập mờ như là lực vũ trụ, vận động cần thiết nhưng họ chẳng nói lên được gì hết. Ý tưởng về vận động chung là gì khác ngoài ý tưởng về sự chuyển dịch từ chỗ này sang chỗ kia: Không thể có vận động mà không có một hướng nào đó; bởi vì một bản thể cá biệt không thể cùng một lúc mà chuyển động theo mọi hướng. Vậy thì vật chất cần chuyển động theo hướng nào? Toàn bộ vật chất trong vật thể liệu có cùng một vận động như nhau không, hay lại là mỗi nguyên tử có một vận động của riêng nó? Theo ý tưởng đầu tiên, toàn bộ vũ trụ phải hợp thành một khối vững chắc và không chia cắt ra được; theo ý tưởng thứ hai nó chỉ tạo thành một thể lỏng tản mát, rời rạc mà không bao giờ có thể có hai nguyên tử hợp lại với nhau. Thế vận động chung của toàn bộ vật chất sẽ xảy ra theo hướng nào? Liệu có theo đường thẳng, hướng lên trên hay xuống dưới, sang phải hay sang trái? Nếu mỗi phân tử của vật chất có hướng riêng của mình thì những nguyên nhân nào gây ra các hướng ấy và tất cả sự khác biệt ấy? Nếu mỗi nguyên tử hay phân tử của vật chất chỉ quay quanh tâm điểm của riêng nó thì sẽ không bao giờ có cái gì ra khỏi chỗ của nó và sẽ không hề có vận động được truyền đi; mà cái vận động quay tròn này còn cần phải xác định theo một hướng nào đó nữa. Đem gán cho vật chất cái vận động bằng cách trừu tượng hóa tức là nói ra những từ ngữ chẳng có nghĩa gì cả; còn gán cho nó một vận động xác định tức là giả định một nguyên nhân xác định lên vận động ấy. Ta càng tăng thêm số các lực riêng biệt, ta lại càng có thêm nhiều nguyên nhân mới mẻ để giải thích, mà chẳng bao giờ tìm được một tác nhân chung nào điều khiển chúng. Không sao có thể tưởng tượng ra bất kỳ một trật tự nào trong cuộc kết hợp ngẫu nhiên của các phần tử, ta cũng chẳng thể hình dung ra được cuộc đấu tranh, và sự hỗn loạn của vũ trụ thật là khó mà quan niệm được đối với ta hơn là sự hài hòa của nó. Ta hiểu rằng cái bộ máy của thế giới có thể là không rõ ràng đối với đầu óc con người, nhưng ngay khi có ai đó muốn đòi giải thích bộ máy ấy thì họ phải nói ra những điều khiến cho người khác nghe được.
“Nếu vật chất vận động cho ta thấy một ý chí, thì vật chất vận động theo những quy luật nào đó cho ta thấy một trí thông minh: Đó là điều xác tín thứ hai của ta. Tác động, so sánh, lựa chọn đều là những thao tác của một bản thể hoạt động và có suy nghĩ: Vậy thì bản thể này tồn tại. Cha thấy bản thể này tồn tại ở đâu? Con sâu bảo ta như vậy. Không phải là chỉ ở trong bầu trời đang quay, ở trong tinh cầu đang soi sáng cho chúng ta; không chỉ ở trong chính bản thân ta, mà còn ở trong con cừu đang gặm cỏ, ở trong con chim đang bay, ở trong hòn đá đang rơi, ở trong chiếc lá bị gió cuốn đi.
“Ta phán đoán về trật tự thế giới, cho dù ta không biết đâu là chỗ tận cùng, bởi vì để phán đoán về trật tự này ta chỉ cần so sánh các bộ phận với nhau, nghiên cứu sự kết hợp giữa chúng, các tương quan của chúng để nhận ra được sự hòa hợp. Ta không rõ tại sao vũ trụ tồn tại nhưng vẫn cứ xem nó bị điều chỉnh như thế nào, vãn cứ cố nhận biết sự tương ứng nội tại mà nhờ đó các bản thể hợp thành vũ trụ giúp đỡ nương tựa lẫn nhau. Ta giống như một người lần đâu trông thấy cái đồng hồ để mở, vẫn cứ ngắm nghĩa cái công trình ấy dù không biết công dụng của cái máy này và cũng không hề nhìn thấy mặt số của đồng hồ. Anh ta bảo, tôi không hiểu toàn bộ cái này thì có ích gì; nhưng tôi thấy rằng mỗi linh kiên là được làm ra cho những linh kiện khác; tôi ngưỡng mộ người thợ qua các chi tiết của tác phẩm của anh ta, và tôi chắc chắn rằng toàn bộ hệ thống bánh xe chạy ăn khớp với nhau như thế chỉ là để nhằm mục đích chung mà tôi không thể nhận biết được.
“Chúng ta hãy so sánh các mục tiêu riêng biệt, các phương tiện, các tương quan được sắp xếp theo đủ kiểu, rồi chúng ta hãy lắng nghe cảm tưởng nội tại; có đầu óc lành mạnh nào có thể khước từ sự biểu lộ ấy? Có cặp mắt nào chưa từng được báo trước lại không thấy rằng trật tự có thể cảm nhận của vũ trụ thông báo về một trí thông minh tuyệt đỉnh? Và chồng chất biết bao nhiêu lời ngụy biện để mà chối bỏ sự hài hòa của các bản thể và sự ngẫu hợp tuyệt diệu của mỗi chi tiết để bảo tồn các chi tiết khác? Người ta cứ việc tha hồ nói với ta về kết hợp, về cơ hội; dồn cho ta phải im lặng mà không thể làm cho ta tin được thì có ích gì? Và các người làm thế nào tước được khỏi cái cảm tưởng không cố ý của tôi mà bao giờ nó cũng phản bác lại các người dù tôi không muốn thế. Nếu các cơ thể có tổ chức đã kết hợp lại một cách tùy tiện bằng hàng ngàn cách trước khi có những dạng hằng định, nếu nó lại được hình thành thoạt tiên là những cái dạ dày không có miệng, những cái chân không có đầu, những bàn tay không có cánh tay, những cơ quan không hoàn chỉnh đủ kiểu đều bị chết vì không có khả năng tự duy trì được, thế tại sao chúng ta lại chưa từng thấy có một cái gì giống như những vật dị hình không hoàn chỉnh này? Tại sao tự nhiên cuối cùng lại định ra cho mình các quy luật mà lúc đầu nó phải phục tùng? Ta không phải ngạc nhiên chút nào về một sự việc đến khi nó khả dĩ, và khó khăn của sự kiện được đền bù bằng nhiều lần phóng ra; ta đồng ý như vậy. Tuy nhiên nếu người ta lại bảo ta rằng các con chữ ở nhà in được phóng ra ngẫu nhiên lại làm thành trường ca Énéide đã sắp chữ hoàn chỉnh thì ta sẽ chẳng thèm bước thêm một bước để đi mà thẩm tra lời dối trá. Người ta bảo ta rằng, ông quên rồi sao, phải nhiều lần phóng. Nhưng ta phải giả định những lần phóng này đến bao nhiêu mới đủ làm thành một kết hợp có thể là có thực? Với ta thì chỉ thấy có một, ta lấy số vô hạn đánh cá với một rằng sản phẩm của nó không phải là hiệu quả của ngẫu nhiên. Hãy nói thêm rằng những kết hợp và cơ may bao giờ cũng chỉ sẽ đem lại các sản phẩm có cùng bản chất với các thành phần tham gia kết hợp, rằng trạng thái hữu Cơ và sự sống không hề là kết quả sinh ra từ một tia phóng các nguyên tử và một nhà hóa học khi kết hợp các hợp chất không hề làm cho chúng cảm nhận và suy nghĩ được trong chén nung của ông ta[219].
“Ta đã đọc Nieuwentit với sự ngạc nhiên và gần như kinh dị. Sao ông này lại có thể muốn làm một cuốn sách về những kỳ quan của thiên nhiên, tỏ rõ sự hiền minh của tác giả? Cuốn sách của ông ta có lớn bằng cả thế giới này thì ông vẫn chưa khai thác cạn kiệt đề tài của ông; và ngay lúc người ta muốn đi vào chi tiết thì điều kỳ diệu lớn nhất bị tuột mất, đó là sự hài hòa và ăn nhịp của tổng thể. Chỉ riêng sự hình thành các cơ thể sống và hữu Cơ đã là vực thẳm của đầu óc con người, cái rào ngăn không vượt qua được mà tự nhiên đã đặt giữa các loài khác nhau để cho chúng khỏi lẫn lộn vào nhau cho thấy các ý đồ của tự nhiên và sự rõ ràng đến thế là cùng. Tự nhiên không tự mình bằng lòng ở chỗ lập nên trật tự mà còn dùng những biện pháp chắc chắn để cho không gì có thể làm rối loạn trật tự ấy.
“Không có một bản thể nào trong vũ trụ mà người ta không thể, xét theo một phương diện nào đó, coi như là trung tâm chung cho mọi bản thể khác, tất thảy đều được sắp xếp quanh nó, sao cho chúng lần lượt là mục đích và phương tiện qua lại giữa các bản thể này so với các bản thể khác. Trí óc lẫn lộn và lạc lối trong vô hạn các mối quan hệ ấy, nhưng không có một mối quan hệ nào là lẫn lộn hoặc lạc lối trong quần thể. Có biết bao nhiêu là giả thiết vô lý để suy ra sự hài hòa ấy từ bộ máy mù quáng của vật chất đang chuyển động một cách ngẫu nhiên. Những ai phủ nhận tính thống nhất về ý định biểu hiện trong các mối quan hệ ở khắp một bộ phận của tổng thể lớn lao này dù có che đậy các lời lẽ hồ đồ lúng túng của họ bằng những sự trừu tượng, những sự phối hợp, những nguyên tắc chung, những thuật ngữ biểu trưng thì cũng là vô ích; cho dù họ có làm gì thì ta cũng không thể nào hiểu nổi một hệ thống các bản thể được xếp đặt hằng định đến thế mà lại không hiểu rằng có một trí thong minh bày đặt nên. Việc tin rằng vật chất thụ động và chết đã có thể sản sinh ra các bản thể sống và biết cảm nhận, rằng định mệnh mù quáng đã có thể tạo ra những sinh vật thông minh, rằng cái không hề suy nghĩ lại sinh ra những sinh vật biết suy nghĩ, niềm tin ấy không tùy thuộc vào ta.
“Cho nên ta cho rằng thế giới được điều hành bởi một ý chí mạnh mẽ và khôn khéo; ta thấy điều đó, hoặc đúng hơn là ta cảm nhận được điều đó, biết điều đó với ta là rất hệ trọng. Nhưng thế giới này là vĩnh hằng hay là được tạo ra? Liệu có một nguyên phát duy nhất cho mọi sự vật? Hay lại là hai hay nhiều? Và bản chất của chúng là gì? Ta không hề biết, và cũng chẳng cần biết. Chừng nào những hiểu biết này trở nên hấp dẫn với ta, ta sẽ cố gắng để đạt được sự hiểu biết ấy, cho đến lúc ấy ta từ bỏ những vấn đề tào lao vô bổ có thể khuấy động lòng tự ái của ta, nhưng các vấn đề này là vô ích cho cách cư xử của ta và vượt lên trên lý trí của ta.
“Con hãy luôn luôn nhớ rằng ta không hề rao giảng cảm nghĩ của ta mà ta chỉ bày tỏ nó. Cho rằng vật chất là vĩnh hằng hay được tạo ra, cho rằng có hay không có một nguyên phát thụ động thì bao giờ cũng chắc chắn rằng tổng thể là đơn nhất và bộc lộ một trí thông minh duy nhất, bởi vì ta không hề thấy có gì là không được sắp đặt vào cùng một hệ thống ấy, và cùng hợp lý cho cùng một mục đích, tức là duy trì cái tổng thể trong trật tự đã được thiết lập. Bản thể này muốn và có khả năng, bản thể này tự mình hoạt động, rốt cuộc bản thể này có là gì đi nữa thì vẫn làm chuyển vận vũ trụ và chi phối mọi việc, ta gọi là Thượng đế. Ta gắn vào tên gọi này các ý tưởng về sự thông minh, về sức mạnh, về ý chí mà ta đã thu thập được và cả ý tưởng về lòng nhân từ là một hệ quả cần thiết của những điều trên; nhưng ta lại không vì thế mà biết rõ hơn về bản thể mà ta đã gán cho tên gọi ấy; Người tránh né ta vừa ở cảm giác vừa ở lý trí của ta; ta càng nghĩ đến lại càng bối rối; ta biết chắc chắn là người tồn tại và Người tự mình tồn tại: Ta biết rằng sự tồn tại của ta tùy thuộc vào sự tồn tại của Người, và ta biết rằng mọi sự việc mà ta đã từng biết đến đều nhất định phải ở cùng một trường hợp như vậy. Ta nhận ra Thượng đế ở khắp mọi nơi trong các công trình của Người; ta cảm thấy Người ở trong ta, ta thấy Người ở khắp mọi nơi quanh ta; nhưng ngay khi ta muốn chiêm ngưỡng được chính Người, ngay khi mà ta muốn tìm ra Người đang ở đâu, Người là ai, thực thể của Người là như thế nào thì Người lại thoát khỏi ta và đầu óc bối rối của ta không còn thấy gì nữa. Thấm thía sự bất lực của mình, ta không bao giờ còn luận giải về bản chất của Thượng đế nữa, trừ khi ta buộc phải làm điều đó bởi cảm tưởng về mối quan hệ của Người với ta. Những lập luận này bao giờ cũng là liều lĩnh táo bạo, một người đứng đắn chỉ có thể hoang mang lo sợ khi buông mình vào đó và chắc chắn răng ông ta không đủ sức để đi sâu vào những chuyện này, bởi vì điều bất kính nhất đối với Thượng đế không phải là không nghĩ đến mà là nghĩ sai về Người.
“Sau khi phát hiện ra một số trong những biểu hiện của Người mà qua đó ta hiểu sự tồn tại của mình, ta quay về với bản thân mình, và ta tìm xem ta đang ở thứ hạng nào trong trật tự các sự vật mà Người chi phối và ta có thể xem xét được. Hiển nhiên là ta đứng ở hàng đầu do giống loài của ta, bởi vì bằng ý chí của mình và bằng những công cụ mà ta có quyền sử dụng, ta có nhiều khả năng hơn để tác động vào mọi vật thể quanh ta, thuận tình chịu hành động của chúng hoặc lẩn tránh hành động của chúng tùy theo ý thích của ta, mà tuyệt nhiên không vật thể nào tác động được đến ta chỉ bằng xung động thể lực, và trái với ý ta; và, bằng trí thông minh của ta, ta là kẻ độc nhất kiểm tra được tất cả. Ở trần gian này có sinh vật nào ngoài con người mà biết quan sát tất cả mọi cái khác, đo đạc, tính toán, tiên đoán sự vận động của chúng, các hiệu quả của chúng, và gắn kết, có thể nói như vậy, cái cảm tưởng về sự tồn tại của cộng đồng với cái cảm tưởng về sự tồn tại cá biệt của riêng mình? Có gì đáng nực ười đến thế đâu khi nghĩ rằng mọi sự được tạo thành là để dành cho ta, nếu như ta là kẻ độc nhất biết được rằng tất cả đều quy về Người.
“Vậy đúng là con người là vua của Trái đất mà hắn cư ngụ; bởi vì không những hắn thuần hóa mọi loài vật, không những hắn sử dụng các nguyên tố bằng kỹ nghệ của mình, mà trên Trái đất chỉ có riêng mình hắn biết tùy ý sử dụng chúng, và hắn lại còn chiếm ngay cả các tinh tú mà hắn không sao đến gần được bằng sự lặng ngắm của mình. Người ta cử chỉ cho ta một động vật khác trên Trái đất này biết dùng lửa đi, biết nhìn ngắm Mặt trời đi. Sao! Ta có thể quan sát, hiểu biết về các sinh vật và các quan hệ? Ta có thể cảm nhận được cái gì gọi là trật tự, sắc đẹp, đức độ; ta có thể ngắm nhìn vũ trụ, vươn lên bàn tay đang chi phối nó; ta có thể yêu điều thiện, làm điều thiện; thế mà ta lại so sánh mình với các loài súc vật! Hỡi linh hồn ti tiện, đó là cái triết lý đáng buồn của ngươi làm cho ngươi giống như những con vật: Hay đúng hơn là ngươi muốn làm giảm giá trị của mình một cách uổng công, tài năng của ngươi làm chứng chống lại các nguyên tắc của ngươi, trái tim từ thiện của ngươi phủ nhận luận thuyết của ngươi, và sự lạm dụng ngay cả các khả năng của chính ngươi cũng chứng tỏ tính ưu tú của các khả năng ấy cho dù ngươi không muốn.
“Đối với ta, kẻ chẳng có hệ thống nào để mà ủng hộ, ta, một con người giản dị và chân thật, mà sự cuồng nhiệt của bất cứ phe phái nào cũng không lôi cuốn được và là kẻ chẳng hề có hứng thú gì với vinh dự làm người đứng đầu một phái, ta bằng lòng với vị trí mà Thượng đế đã xếp đặt cho ta, sau Người thì ta chẳng thấy có gì tốt đẹp hơn giống loài của ta; và nếu ta có phải lựa chọn vị trí của mình trong trật tự của các bản thể thì ta có thể chọn được cái gì hơn là làm con người?
“Suy nghĩ này làm cho ta xúc động nhiều hơn là làm cho ta kiêu hãnh; bởi lẽ tình trạng ấy chẳng hề là sự lựa chọn của ta mà cũng chẳng phải là do công lao của một bản thể hãy còn chưa tồn tại. Có thể nào ta lại thấy mình được coi trọng như vậy mà lại không mừng cho mình giữ được cái địa vị vẻ vang ấy, và lại không chúc tụng cho bàn tay đã đặt ta vào đó? Từ lần đầu quay trở về với chính mình thì trong lòng ta nảy sinh một tình cảm của sự biết ơn và cầu phúc lành cho tác giả của giống loài ta và từ tình cảm này nảy sinh sự tỏ bày đầu tiên lòng kính trọng Thượng đế lòng lành của ta. Ta tôn thờ quyền lực tối thượng và ta cảm kích vì phúc lành Người ban. Ta không cần đến ai dạy ta tín ngưỡng này, đó là do tự nhiên đã tự mình định ra cho ta. Đó chẳng phải là kết quả tự nhiên của tình yêu đối với bản thân mình hay sao, khi tôn vinh Người hằng che chở cho chúng ta và yêu kính Người hằng mong muốn cho chúng ta hưởng phúc lành?
“Nhưng khi để biết thêm về vị trí của mình trong giống loài, ta xem xét các thứ bậc khác nhau và những ai là người ở các thứ bậc ấy, thì ta sẽ ra sao? Một tấn trò nực cười biết mấy! Cái trật tự trong tổng thể mà ta đã quan sát được nay biến đi đâu? Khung cảnh tự nhiên chỉ cho ta thấy có sự hài hòa và tương xứng còn bức tranh của loài người thì ta chỉ thấy có sự mập mờ và lộn xộn! Sự hiệp đồng ngự trị giữa các nguyên tố còn những con người thì trong trạng thái hỗn loạn! Các loài vật đều sung sướng, riêng đức vua của chúng ta là khốn khổ! Ôi đại hiền minh, các lề luật của người đâu rồi? Ôi Thượng đế, người quản lý thế gian như thế này ư! Người vốn lòng lành, quyền lực của người đã ra sao rồi? Con trông thấy điều ác trên Trái đất này.
“Anh bạn tốt của ta ơi, liệu anh có tin rằng từ những suy nghĩ đáng buồn này và những mâu thuẫn biểu hiện rõ rệt ấy, hình thành trong đầu óc ta những ý tưởng cao cả của tâm hồn, mà cho đến lúc ấy chẳng rút ra được từ những tìm tòi của ta? Bằng cách suy ngẫm về bản chất con người, ta tin rằng ở đó bộc lộ ra hai tôn chỉ khác biệt mà tôn chỉ thứ nhất nâng con người đến học hỏi các chân lý vĩnh hằng, đến tình yêu công lý và tinh thần cao đẹp, đến các miền của thế giới tinh thần mà sự trầm tư mặc tường tạo nên lạc thú cho người hiền minh, còn tôn chỉ thứ hai lại đem hạ thấp con người trong bản thân nó, bắt nó phải phục tùng quyền lực của nhục cảm, phải phục tùng các đam mê là trợ thủ của chúng và phản bác mọi điều gợi cho nó cảm nghĩ về tôn chỉ thứ nhất. Vì cảm thấy bị lôi cuốn và bị công kích bởi hai động thái trái ngược này, ta tự nhủ rằng: Không, con người không phải là đơn nhất: Ta muốn và ta không muốn, ta nhận ra mình vừa là nô lệ vừa được tự do; ta biết điều thiện, ta yêu nó, thế mà ta lại làm điều ác; ta chủ động khi ta nghe theo lý trí, thụ động khi bị đam mê lôi cuốn; và nỗi thống khổ tệ hại nhất lúc ta bị khuất phục là cảm thấy rằng mình đáng lẽ đã có thể kháng cự được.
“Chàng trai hỡi, hãy nghe và tin ta đi, ta bao giờ cũng vẫn có thiện ý. Nếu ý thức là sản phẩm của các thành kiến thì rõ ràng là ta lầm, và không có đạo đức nào được chứng tỏ; nhưng nếu như tự coi mình hơn tất cả là khuynh hướng tự nhiên của con người, và nếu tuy vậy mà tình cảm đầu tiên về công lý là bẩm sinh đã có trong trái tim con người thì cái mà làm cho con người thành một bản thể chân chất tháo gỡ những mâu thuẫn ấy, và ta chỉ còn thừa nhận một thực thể.
“Con hãy để ý rằng về cái từ thực thể này, ta hiểu nói chung đó là một bản thể mang một số phẩm chất nguyên thủy nào đó, và không kể những điều chỉnh đặc biệt hoặc thứ yếu. Vậy nếu tất cả các phẩm chất nguyên thủy mà chúng ta biết được có thể tập hợp vào cùng một bản thể, thì người ta chỉ được chấp nhận một thực thể; nhưng nếu trong đó có những phẩm chất nguyên thủy loại trừ lẫn nhau thì lại có bằng ấy các thực thể khác nhau mà người ta có thể loại trừ như vậy. Con hãy ngẫm nghĩ về điều này, đối với ta thì dù cho Locke đã có nói gì đi nữa, ta không cần thiết phải biết vật chất là quảng tính và chia cắt ra được để được đảm bảo rằng nó không thể suy nghĩ được; và khi một nhà triết học nói với ta rằng cây cối cảm nhận được và những tảng đá suy nghĩ được[220], thì ông ta có muốn làm ta bối rối bằng những lý lẽ tinh vi của mình cũng là vô hiệu, ta chỉ có thể thấy ở ông ta một kẻ ngụy biện có tà ý, thích gán cảm nghĩ cho các tảng đá hơn là thừa nhận linh hồn con người.
“Giả sử có một người điếc lại phủ nhận sự tồn tại của các âm thanh, vì lẽ chúng không hề động chạm đến tai anh ta. Ta đặt trước mắt anh ta một chiếc đàn dây mà tôi làm cho hòa âm vang lên bằng một công cụ được giấu kín: người điếc trông thấy dây đàn rung lên rồi ta bảo anh ta: Đó là âm thanh làm rung dây đàn. Anh ta trả lời: Làm gì có đâu, nguyên nhân làm rung dây đàn là ở chính dây đàn; đó là phạm tính chung cho một vật thể rung như vậy. Ta nói tiếp: Vậy hãy chỉ cho tôi hiện tượng rung như thế ở các thử nghiệm khác xem sao, hoặc ít nhất là cái nguyên nhân làm rung ở sợi dây đàn này. Người điếc cãi lại rằng: Tôi không thể trả lời được nhưng vì tôi không hiểu cái dây rung như thế nào thì tại sao tôi lại phải giải thích điều đó bằng các âm thanh của ông mà tôi chẳng có lấy một chút ý niệm gì về chúng? Thật là giải thích một sự việc không rõ bằng một nguyên nhân lại còn tối tăm hơn. Hoặc là hãy làm cho tôi nghe được những âm thanh của ông hoặc là tôi nói rằng chúng không tồn tại.
“Ta càng ngẫm nghĩ về sự suy nghĩ và về bản chất con người thì ta lại càng thấy rằng lập luận của các nhà duy vật giống như lập luận của người điếc này. Thật vậy, họ đều điếc với tiếng nói nội tại gào lên với họ bằng một âm thanh khó mà không nhận ra được: một cái máy thì không suy nghĩ gì hết, chẳng có cả chuyển động lẫn hình ảnh tạo nên sai suy nghĩ: Có cái gì đó trong ngươi tìm cách phá vỡ những ràng buộc dồn nén âm thanh ấy; không gian không phải là giới hạn của ngươi, toàn bộ vũ trụ cũng chưa đủ lớn cho ngươi: Những cảm tình của ngươi, những ham muốn của ngươi, nỗi lo âu của ngươi, ngay cả lòng kiêu hãnh của ngươi nữa, đều có một căn nguyên khác với cái vật thể chật hẹp mà ngươi cảm thấy bị giam hãm trong đó.
“Chẳng hề có một bản thể vật chất nào là tự mình hoạt động được và chính ta cũng thế. Người ta uổng công tranh luận với ta về điều này, ta cảm nhận được điều này và cảm tưởng này nói với ta còn mạnh hơn lý lẽ chống lại nó. Ta có một thân xác bị các thân xác khác tác động vào và nó lại tác động lên chúng; sự tác động qua lại này không phải là không rõ; nhưng ý chí của ta lại độc lập với các giác quan của ta; ta thuận theo hay ta chống lại, ta quy phục hay ta thắng thế, và ta cảm thấy hoàn toàn là chính mình khi ta làm điều ta muốn làm hoặc khi ta chỉ làm cái việc chịu thua những đam mê của mình. Ta bao giờ cũng có quyền mong muốn chứ không có khả năng thực hiện. Khi ta buông mình theo các cám dỗ là ta hành động theo các kích thích từ các đối tượng ở bên ngoài. Khi ta tự trách mình về sự yếu mềm này, ta chỉ nghe theo ý chí của mình; ta là nô lệ bởi các thói xấu của mình và tự do khi mình hối lỗi; ý thức về tự do của ta chỉ mờ nhạt đi khi ta hư hỏng và khi ta cản trở tiếng nói của tâm hồn nổi lên chống lại luật thân xác.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.