Émile Hay Là Về Giáo Dục

QUYỂN NĂM P5



Sau khi đã nhận ra rằng chính quyền lỏng lẻo hơn chừng nào số trưởng

quan tăng lên, và rằng dân chúng càng đông, thì quyền lực áp chế của chính

quyền cũng phải tăng lên, chúng ta kết luận rằng mối quan hệ của các trưởng

quan với chính quyền phải là nghịch đảo của quan hệ của thần dân với quyền

lực tối cao; nghĩa là nhà nước càng lớn lên, chính quyền lại càng phải thu hẹp

lại, giống y như là số thủ lĩnh giảm đi theo sự tăng lên của dân số.

Đề tiếp tục xác định sự đa dạng này bằng những tên gọi cho chính xác

hơn, chúng ta sẽ nhận thấy đầu tiên quyền lực có thể giao phó sự ủy thác

chính quyền cho toàn thể nhân dân hay cho bộ phận lớn nhất của nhân dân,

sao cho có nhiều công dân trưởng quan hơn các thường dân với tư cách tư

nhân. Người ta gán cho hình thức chính quyền này cái tên là nên dân chủ.

Hoặc là có thể thu hẹp chính quyền vào tay của một số ít hơn sao cho có

nhiều thường dân hơn các trưởng quan; và hình thức này mang tên chê độ

quý tộc

Cuối cùng, có thể tập trung toàn bộ chính quyền vào tay một trưởng quan

duy nhất. Hình thức thứ ba này là phổ biến nhất, và được gọi là nền quân chủ

hay chính quyền của nhà vua.

Chúng ta sẽ nhận xét rằng tất cả các hình thức ấy, hay ít ra là hai hình

thức đầu, đều có thể thêm lên hay bớt đi, và cùng có một quyền tự do khá lớn.

Bởi vì nền dân chủ có thể bao trùm toàn bộ dân chúng hay thu hẹp đến một

nửa. Chế độ quý tộc lại có thể từ một nửa dân chúng thu hẹp không chúng đến

tận một số nhỏ nhất. Nên quân chủ lại đôi khi chấp nhận một sự chia sẻ quyền

lực, hoặc người cha và con, hoặc giữa hai anh em, hoặc khác nữa. Đã từng luôn

luôn có hai vua ở Sparte, và người ta đã thấy đế quốc La Mã có tới tám ông

vua cùng trị vì, mà không thể bảo rằng đế chế bị chia sẻ quyền lực. Có một

điểm mà mỗi hình thức chính quyền trùng hợp với hình thức tiếp sau đó; và

dưới ba tên gọi riêng biệt, chính quyền trong thục tế có thể tồn tại bấy nhiêu

dạng như nhà nước có chừng ấy công dân.

Thêm vào đó, mỗi kiều trong những chính quyền này có thể chia ra, xét về

một phương diện nào đó, thành nhiều phần khác nhau, bộ phận này cai trị

theo một cách, bộ phận kia cai trị theo cách khác, ba hình thức ấy kết hợp lại

với nhau có thể tạo nên vô số những hình thức chung đụng, mà mỗi một hình

thức chung đụng ấy lại có thể nhân ra bởi tất cả các hình thức đơn giản.

Lúc nào thì người ta cũng vẫn cứ bàn cãi về hình thức chỉnh quyền tốt

nhất, mà chúng để ý rằng mỏi hình thức là tốt nhất trong một số trường hợp

nào đó, và là tệ nhất trong những trường hợp khác. Đối với chúng ta, nếu như

trong các nhà nước khác nhau, số lượng các trưởng quan[315] phải tỷ lệ nghịch

với số công dân, chúng ta sẽ đi đến kết luận rộng nói chung thì chính quyền

dân chủ phù hợp với các nhà nước nhỏ, chính quyền quý tộc hợp với những

nhà nước tầm trung, và chính quyền quân chủ với các nhà nước lớn.

Do đường lối nghiên cứu này mà chúng ta mới biết được người công dân

Có những nghĩa vụ và quyền lợi gì, và liêu có thể tách rời cái nọ với cái kia

hay không, tồ quốc là gì, tồ quốc được hợp thành từ những yếu tố cụ thề nào,

và căn cứ vào đâu mà mỗi người biết được là mình có một tồ quốc hay không

hề có.

Sau khi đã xét kỹ như vậy về từng loại xã hội dân sự trong cơ cấu của

chính nó, chúng ta hãy so sánh chúng với nhau đề từ đó nhận xét về những

mối quan hệ khác nhau: Những nước lớn, nước nhỏ; nước này mạnh, nước

kia yếu; tấn công nhau, chống lại nhau, tiêu diệt nhau; và trong sự tác động

và phản ứng liên tục này, tạo ra nhiều kẻ khốn khổ và lấy đi mạng sống của

nhiều người hơn là nếu tất cả họ vẫn duy trì quyền tự do đầu tiên của họ.

Chúng ta hãy thử xét xem liệu có phải người ta đã làm quá nhiều hay quá ít

trong thiết chế xã hội; liệu các cá nhân có phải tuân phục luật pháp và phục

tùng con người, trong khi các xã hội thì cứ giữ tính độc lập của tự nhiên giữa

chúng, có phải hứng chịu những lợi lộc của hai nhà nước ấy, và phải chăng..

nếu trên đời này không hề có một xã hội dân sự nào lại tốt hơn là có quá

nhiều. Phải chăng, cái nhà nước lẫn lộn này lại tham gia vào cả hai kiều và

chẳng đảm bảo cả kiều này lẫn kiểu kia, per quem neutrum licet, nec

tanquam in bello paratum esse, nec tanquam in pace securum?[316] phải

chăng sự kết hợp từng phần và không hoàn hảo ấy sản sinh ra sự chuyên chế

và chiến tranh? Và phải chăng chuyên chế và chiến tranh lại không phải là

gánh nặng nhất cho nhân loại?

Cuối cùng chúng ta xem xét loại phương thuốc nào mà người ta đã tìm ra

để chữa những tật bênh khó chịu này qua các liên minh và các khối liên kết, là

những khối, vẫn để cho mỗi nhà nước có một nguyên thủ đối nội, nhưng vã

trang cho việc đối ngoại để chống lại mọi kẻ xâm lược bất chính. Chúng ta sẽ

tìm hiểu xem làm thế nào ta thiết lập được một liên kết có tính chất liên bang

hẳn hơi, có thể làm cho sự liên minh này được lâu bền, và cho tới thời điểm

nào thì người ta có thể mở rộng quyền của liên bang mà không phương hại gì

tới quyền của nhà nước độc lập.

Tu viện trưởng Sang Pierre đã đề xuất một liên minh tất cả các nhà nước

châu Âu để gìn giữ một nền hòa bình vĩnh cửu giữa các nước đó. Liên minh

này liệu có khả thi không Và giả sử rằng nó đã được lập nên thì nó bền vững

lâu dài không?[317] Những nghiên cứu này dẫn thằng chúng tôi tới mọi vấn đ về

công pháp điều có thể làm rõ những vấn đề về pháp tri.

Cuối cùng chúng tôi sẽ đề cập đến những nguyên tắc thục của pháp luật về

chiến tranh, và chúng tôi sẽ xét xem vì sao Grotius và những người khác lại chỉ

nêu ra những nguyên tắc sai lầm.

Tôi sẽ không lấy làm lạ rằng giữa lúc chúng tôi đang lý luận, chàng thanh

niên của tôi, vốn có lương tri, lại ngại lời tôi và nói với tôi rằng: Cứ như thể

chúng ta xây dựng công trình của mình với gỗ, chứ không phải với những con

người, chính là vì chúng ta sửa mỗi bộ phận cho chính xác theo cái thuộc!

Đúng vậy, anh bạn của ta; nhưng con hãy nghĩ xem luật pháp không hề chiu

uốn theo những đam mê của con người, và hãy nghĩ rằng vấn để giữa chúng ta

là thiết lập những nguyên tắc thực sự về công pháp. Giờ đây khi những nền

tảng của chúng ta đã được lập nên, thì hãy xem xét cái mà mọi người đã xây

dựng lên trên nền tảng ấy, và con sẽ thấy nhiêu chuyện hay!

Lúc đó tôi bảo anh ta đọc Télémaque và tiếp ác cuộc hành trình của

mình; chúng tôi tìm xem cô Salente may mắn và cậu Idoménée tốt bụng đã

phải khổ cực đến bao nhiêu mới trở nên khôn ngoan. Dọc đường chúng tôi

gặp bao nhiêu là Protésilas, mà không thấy một Philoclès nào. Adraste, nhà

vua của những người Danieus cũng không phải là không tìm ra được. Nhưng

hãy để cho các độc giả tưởng tượng ra các cuộc hành trình của chúng tôi, hoặc

đề hộ du hành thay chúng tôi trong tay cầm một cuốn Télémaque, và hãy đừng

Có gợi ý cho họ noi theo những việc gây đau khổ mà chính tác giả cố tránh

hoặc làm một cách bất đắc dĩ.

Vả chăng Émile chẳng phải là vua, tôi cũng chẳng là thần thánh, chúng tôi

chẳng hề băn khoăn vì không thể bắt chước Télémaque và Mentor khi họ làm

điều thiện cho con người: Không ai biết Ớ vị trí của mình hơn chúng tôi. Chúng

tôi biết rằng mọi người đều được trao cùng một nhiệm vụ ấy; và biết rằng ai

hết lòng yêu điều thiện, lại dốc hết sức mình làm việc thiện là đã làm tròn

nhiệm l. Chúng tôi biết rằng Télémaque và Mentor đều là những ảo tưởng.

Émile không phải là kẻ vô công rồi nghề đi au lịch và làm được nhiều việc

thiện hơn nếu anh ta lại là một ông hoàng. Nếu chúng tôi là vua chúa và có

thiện tâm, thì chúng tôi sẽ làm nhiều điều ác thực sự mà không hay biết gì đế

Có một việc tốt bề ngoài mà chúng tôi cứ tướng mình làm được. Nếu chúng tôi

là vua chúa và khôn ngoan, việc thiện đầu tiên mà chúng tôi muốn làm cho

chính mình và cho những người khác sẽ là từ bỏ ngôi vua và quay trở về với

địa vị cũ của mình.

Tôi đã nói về điều làm cho các cuộc du lịch thành ra không có kết quả gì

cho mà người. Điều làm cho các cuộc du lịch này lại còn vô ích hơn cho thanh

niên, đó là cái cách mà người ta bảo họ làm. Nhưng người sư phó, đề ý nhịều

đến sự vui chơi của chúng hơn là việc học hỏi của chúng, đan thanh niên đi từ

thành phố này sang thành phố khác, từ lâu đài này sang lâu đài khác, tử câu

lạc bộ này sang câu lạc bộ khác; hoặc là, nếu họ là các nhà thông thái hay

những nhà văn, thì họ lại bắt thanh niên để thì giờ vào việc đi thư viện, thăm

các bảo tàng cố vật, sục sạo trong các lâu đài cổ kính, sao chép lại các bản khác

chữ cổ. Ở mỗi nước, hệ quan tâm đến một thời đại khác; cứ như hệ quan tâm

đến một nước khác vậy; đến nỗi sau khi phải chi phí nhiều lắm để đi khắp.’

châu Âu, vì lao vào những chuyện tầm phào hay vào sự chán chường, chúng.

trở về mà chẳng thấy có gì có thể gây hứng thú cho mình, chẳng học hỏi được.’

gì có ích cho mình.

Mọi thủ đô đều giống nhau, mọi dân tộc trà trộn vào nhau ở đó, mà

phong tục lẫn lộn vào nhau ở đó; đó không phải là nơi phải đến để mà nghiên

cứu về các dân tộc. Paris và London dưới một tôi chỉ là cùng một thành phố

mà thôi. Dân chúng của các thành phố này có vài thành kiến khác nhau, song

những người nọ cũng như những người kia đều có thành kiến, và mọi châm

ngôn thực tế của họ đều là như nhau cả. Người ta biết những loại người nào N

họp trong các triều đình. Người ta biết tình trạng dồn tụ chồng chất của dân

chúng và sự bất bình đẳng về tài sản át sản sinh ra ở khắp nơi những phong

tục nào. Người ta vừa mới nói với tôi về một thành phố có hai trầm nghìn dân

thì tôi đã biết trước dân ở đó sống ra sao. Điều mà tôi có thể sẽ biết thêm về

các địa điểm chàng đáng để phải đến đó mà học hỏi.

Chính ở những tỉnh lẻ hẻo lánh, nơi ít có những hoạt động, ít có thương

mại, nơi mà ít có người ngoại quốc đến du lịch, dân chúng ít khi dịch

chuyền, ít thay đổi số phận và tình cảnh của họ, là nơi phải đến nghiên cứu

tài năng và phong tục của một dân tộc. Hãy nhìn hết qua thủ đô, những hãy

đi sâu quan sát vùng xa xôi của đất nước. Người Pháp không phải ở Paris,

mà là ở Touraine; người Anh có tính cách Anh nhiêu hơn ở Mereie so với

London và người Tây Ban Nha lại mang tính chất Tây Ban Nha ở Galice hơn

là ở Madrid. Chỉnh ở những khoảng cách lớn ấy mà một dân tộc bộc lộ rõ

tính cách và biểu hiện ra nguyên vẹn như nó chưa bị Pha trộn; chính Ớ đó mà

những hiệu quả tốt và xấu của việc cai trị được cảm nhận rõ hơn, giống như

Ờ đầu nút của một bán kính lớn nhất thì việc đánh giá một cánh cung là

chính xác hơn.

Những mối quan hệ tất yếu của các phong tục với chính quyền đã được

trình bày rõ trong cuốn sách về tinh thần của luật pháp cho nên không gì tốt

hơn là sử dụng công trình này đề nghịên cứu các mối quan hệ này. Nhưng nói

chung là có hai quy tắc dễ dàng và đơn giản để xét đoán lòng tốt tương đối của

các chính quyền. Quy tắc thứ nhất là ở dân chúng. Ở mọi đất nước mà số dân

thưa thớt đi, thì nhà nước tiến dần đến sự sụp đổ; và nước nào có cư dân đông

. nhất, dù là nghèo nhất, thì nhất thiết là đất nước được cai trị tốt hơn.[318]

Nhưng muốn thế thì số dân này phải là một hiệu quả tự nhiên của chính

quyền và các phong tục; bởi vì, nếu dân số đó được tạo nên bởi các thuộc địa,

hay do những con đường ngẫu nhiên và nhất thời khác, lúc đó những con

đường ấy sẽ chứng tỏ cái xấu bơi phải sửa lại. Khi Auguste ban hành các đạo

luật chống lại người sống độc thân, những luật lệ này đã chỉ ra sự suy tàn của

đế chế La Mã. Phải làm sao mà lòng tốt của chính quyền đưa người công dân

đến chỗ lập gia đình, và không phải là luật pháp bắt buộc họ phải kết hôn;

không nên quan sát những gì thực hiện bằng quyền lực, bởi luật pháp chống

lại hiến pháp thì tránh né khéo léo và trở nên vô ích, mà nên quan sát những

gì tự nó thành tựu được do ảnh hưởng của phong tục và do khuynh hướng tự

nhiên của chính quyền; bởi vì chỉ riêng các phương tiện này là có hiệu quả

vững bền. Đó là chính sách của Tu viện trưởng Sang Pierre từ tâm lúc nào

cũng muốn tìm ra một phương thuốc nhỏ dành cho mỗi bệnh tật riêng, thay vì

đi ngược lên tận nguồn gốc chung của những bênh tật đó, và để thấy rằng

người ta chỉ có thể chữa trị chúng một lần cho dúi. Đừng có chữa trị tách biệt

từng Ố loét xuất hiện trên thân thể bệnh nhân, mà phải làm sạch cả khối lượng

máu đã gây ra tất cả Dhững vết loét ấy. Người ta bảo ở Anh đã có giải thưởng

cho nông nghiệp; tôi không mong gì hơn thế. Điều đó làm cho tôi chắc rằng

nền nông nghiệp sẽ chẳng nổi bật được bao lâu.

Biểu hiện thứ hai của thiện chí tương đối của chính niivpn và các đạo luật

cũng được rứt ra từ dân chúng, nhưng theo một cách khác, nghĩa là từ sự phân

bố dân cư, chứ không phải từ số dân. Hai quốc gia ngang nhau về độ lớn và số

dân có thể quá chênh lệch về sức mạnh: Và nước mạnh hơn luôn luôn là nước

nào mà dân số rải đều hơn trên khắp lãnh thổ của mình; nước nào không có

những thành phố quá lớn và do đó mà kém nổi bật hơn thì bao giờ cũng thắng

trước kia. Chính các thành phố lớn làm kiệt quệ cả nhà nước và làm suy yếu

nó; của cải mà các thành phố lớn sản xuất ra là một thứ của em hào nhoáng bề

ngoài và hão huyền; tức là tốn nhiều tiền và ít hiệu quả. Người ta bảo rằng

thành phố Paris đáng là một tỉnh lẻ cho vua nước Pháp; nhưng tôi cho rằng

thành phố này đối với nhà vua còn đặt giá hơn nhiều; vì trên một vài phương

diện thì các tỉnh lẻ phải nuôi sống Paris, và vì phần lớn thu nhập của các tỉnh

lẻ bị rót vào thành phố này và nằm lại đó, chẳng bao giờ trở về với dân chúng

cũng chẳng bao giờ trở về với nhà vua nữa. Thật không sao hiểu nổi trong thời

đại của những người giỏi tính toán này mà lại chẳng có lấy một ai biết được

rằng nước Pháp sẽ giàu mạnh hơn nhiều nếu như Paris không còn nữa. Không

chỉ dân chúng phân bố không đều là không có lợi gì cho quốc gia, mà việc đó

lại còn tổn hại nhiều hơn là chính sự giảm số dân vốn chỉ tạo nên một sản

phẩm bằng không, còn sự tiêu dùng sai lầm lại cho một sản phẩm là số âm.

Khi tôi nghe nói rằng một người Pháp và một người Anh, cả hai tự hào về thủ

đô lớn của họ, lại cãi lộn với nhau về chuyện thành phố nào trong Paris và

Londre chứa được nhiều dân chúng hơn, thì đối với riêng tôi cũng giống như

là họ tranh cãi với nhau về chuyện dân tộc nào trong hai dân tộc đó có vinh dự

được cai trị kém nhất.

Hãy nghiên cứu một dân tộc Ớ bên ngoài các thành phố của họ, chỉ làm

thế thì quý vị mới hiểu biết được họ. Chẳng có gì để mà xem xét cái hình

thức bề ngoài của chính quyền, được tô son điềm phấn bởi bộ máy cai trị và

bởi các biệt ngữ của quan lại, nếu người ta lại không chịu nghiên cứu bản

chất thông qua những hiệu quả mà nó gây ra cho dân chúng và ở tất cả mọi

cấp đợ của việc cai trị. Do sự khác biệt của hình thức và nội dung được chia

sẻ giữa tất cả các cấp độ ấy, nên chỉ có bao quát tất cả thì người ta mới biết

được sự khác biệt này. Ở nước này chính là thông qua việc thao túng của

những kẻ được ủy quyền mà người ta mới bắt đầu cảm thấy tinh thần của

nội các; ở nước khác phải xem bầu nghị sỹ Quốc hội mới xét đoán được liệu

dân tộc này có thực sự được tự do hay không; dù ở nước nào đi nữa, người

nào chỉ mới nhìn thấy các thành phố thì không thể hiểu biết chính quyền, vì

rằng không bao giờ tinh thần của chính quyền lại như nhau giữa thành phố

và nông thôn. Thế mà chính là nông thôn mới làm nên đất nước, và chính là

dân chúng ở nông thôn mới làm nên dân tộc.

Cuộc nghiên cứu về các dân tộc khác nhau này ở những tỉnh lẻ hẻo lánh,

và trong tính giản dị của bản sắc nguyên sơ của dân tộc ấy, đưa ra một nhận

định tổng quát rất thuận tình với lời đề từ của tôi và khéo an ủi cho lòng

người; đó là mọi dân tộc đã được khảo sát như thế, tỏ ra đáng giá hơn thế

nhiều; các dân tộc đó càng gần gũi với tự nhiên, thì lòng tốt càng chi phối tính

cách của họ nhiều hơn; chỉ có giam mình trong các thành phố, chỉ ngày càng

biến chất đi vì nền văn hóa, thì các dân tộc nới đồi bại đi, và mới biến đổi một

vài sai lầm có phần thô bạo hơn là tiếc ác thành những thói hư tật xấu dễ

thương mà độc hại.

Từ nhận xét này dẫn đến một lợi thế mới cho cách đi du lịch mà tôi đề

xuất: Các thanh niên, ít lưu lại trong các thành phố lớn là nơi đầy rẫy những

hủ bại kinh khủng, nên ít có cơ hội bị lây nhiễm, và gìn giữ được sự phán đoán

chính xác hơn, một thị hiếu lành mạnh hơn, những tâm tính lương thiện hơn

khi sống chung với những con người giản dị hơn và trong những xã hội kém

đông đúc hơn. Nhưng, vả chăng, sự lây nhiễm này đối với Émile thì chẳng cần

gì mà phải ca ngợi; anh ta đã có ma phẩm chất để tránh được điều đó. Trong

mọi cách phòng ngừa mà tôi đã thực hiện vì chuyện này thì tôi coi trọng rất

nhiễu sự quyến luyến mà anh ta đã có được trong lòng.

Người ta không biết tình yêu chân chính có thể tác động như thế nào lên

khuynh hướng của thanh niên, bởi vì, chẳng hiểu về tình yêu này rõ hơn hai

nên những người hướng dẫn họ lại cứ khuyên họ đừng yêu. Dù sao thì một

thanh niên cũng phải yêu hoặc là anh ta phải bị rủ rê chơi bời hư hỏng. Thật

dễ dàng đánh lừa người ta bằng vẻ bề ngoài. Người ta kẽ ra cho tôi về hàng

ngàn thanh niên mà người ta bảo rằng họ sống một cách trong sạch không

tình yêu; nhưng xin người ta hãy nêu ra cho tôi một người đàn ông trưởng

thành, một người đàn ông chân chính bảo rằng mình đã sống trong sạch

không yêu đương như thế suốt thời trai trẻ, và ông ta nói thực lòng. Trong mọi

đức hạnh, trong mọi bổn phận người ta chi tìm kiếm sự biểu hiện bề ngoài; tôi

thì tôi tìm kiếm sự thực, và tôi đã râm nếu như có những cách khác đề đạt tới

đó ngoài các cách mà tôi đã nêu ra.:

Ý tưởng về việc làm cho Émile biết yêu trước khi đi du lịch không phải là

sáng kiến của tôi. Đây là câu chuyện đặc sắc đã gợi ý cho tôi điều đó.

Tôi đã ở Venise thăm một người sư phó của một thanh niên Anh. Hồi đó

đang mùa đông, chúng tôi ngồi quanh lò sưởi. Người sư phó nhận các bức thư

qua bưu điện. Ông ta đọc thư, rồi đọc lại thật to một bức thư cho học trò của

ông nghe. Bức thư viết bằng tiếng Anh: Tôi không hiểu trong đó viết gì; nhưng

trong khi đọc, tôi thấy chàng thanh niên xé toạc những tay áo giả móc bằng

kim rất đẹp của anh ta, rồi ném từng chiếc một vào lửa một cách nhẹ nhàng

nhất mà anh có thể, để cho mọi người không nhận ra việc đó. Ngạc nhiên về

sự bất thường đó, tôi nhìn mặt anh, tôi cho là anh có vẻ xúc động nhưng

những dấu hiệu bề ngoài của dục vọng, dù cho là khá giống nhau ở những

người đàn ông, lại có những khác biệt tùy theo dân tộc mà ta dễ bị râm. Các

dân tộc có những cách biểu hiện khác nhau trên vẻ mặt, cũng y như là qua

ngôn ngữ nói. Tôi đợi cho đọc xong rồi chỉ cho ông sư phó những eo tay trần

của học trò ông, mà anh ta cố giấu giếm, và tôi nói với ông: Liệu có thể biết

việc này có nghĩa gì không?

Người sư phó, nhìn thấy điều đó xảy ra, bèn cười và ôm lấy người học trò

của mình với thái độ hài lòng; và sau khi được anh ta tán thành, ông giải thích

cho tôi điều mà tôi mong đợi.

Những tay áo giả, ông nói với tôi, mà anh John vừa mới xé rách là một

món quà tặng mà một bà trong thành phố này làm cho anh ta mới đây không

lâu Mà ông biết đấy, John đã hứa hôn với một thiếu nữ trong nước và anh rất

yêu cô ta, và cô thì lại còn đáng được yêu nhiều hơn nữa. Bức thư này là của bà

mẹ của cô người yêu, và tôi dịch ngay cho ông nghe chỗ đã gây ra sự tồn thất

vừa rồi:

“Lucy không rời được những tay áo giả của ngài John, cô Betty

Roldham hôm qua lại vừa mới ngồi cùng Lucy suốt buổi chiều, và cứ

nhất định muốn cùng làm. Vì biết hôm nay Lucy dậy sớm hơn mọi

ngày, ta muốllthaý nó đã làm được những gì, và ta đã bắt gặp nó đang

bận rộn tháo bỏ những gì mà cô Betty dã làm hôm qua. Nó không

muốn rằng trong món quà tặng của mình lại có một mũi kim do bàn

tay người khác móc chứ không phải bàn tay của nó”.

John ra ngoài một lát sau để đeo những tay áo giả khác, và tôi nói với sư

phó của anh: Ông có một người học trò có bản chất tuyệt vời; nhưng xin nói

thật với tôi, có phải bức thư của bà mẹ Lucy là không hề bị thu xếp trước eh

ĐÓ không phải là một mánh khóe riêng của ông để chống lại người đàn bà

muốn dây dưa đến các tay áo giả kia cha ông ta bảo tôi, không đâu, sự việc là

Có thục. Tôi không dùng tiều xảo như vậy trong việc chăm sóc học trò mình:

tôi chỉ dùng đến sự bình dị, lòng nhiệt tâm, và Chúa đã ban phước cho công.

việc của tôi.

Câu chuyện của chàng trai này không hề rời khỏi ký ức của tôi, câu chuyện

ấy không hẳn là không tạo ra một điều gì đó tronf. Đầu óc một con người mơ

mộng như tôi.

Đã đến lúc để kết thúc, chúng ta hãy đưa ngài John về cho cô Lucy, nghĩa

là đưa Émile về cho Sophte. Anh đem về cho cô một tinh thần sáng suốt hơn

cùng với một trái tim không kém tim mến hơn lúc ra đi, và anh đem về nước

mình cái lợi thế đã được thấy chính quyền qua mọi tật xấu của chúng, và các

dân tộc qua mọi đức hạnh của họ. Tôi còn chăm lo đe anh ta liên lạc với một

vài người có giá trị ở mỗi nước do lòng hiếu khách theo kiểu cứ nhân, và tôi sẽ

vui lòng thấy anh ta trau dồi kiến thức cho mình qua trao đổi thư từ. Ngoài

việc có thể là hữu ích và bao giờ cũng thật dễ chịu khi có sự trao đổi thư từ với

những xứ sở xa xôi, thì đó là cách phòng ngừa tuyệt vời chống lại thế lực của

các thành kiến của dân tộc, chúng tấn công ta suốt đời, sớm muộn gì cũng đôi

ran bám chặt vào chúng ta. Chẳng có gì thích hợp hơn để vứt bỏ sự đeo bám ấy

ngoài việc trao đổi vô tư với nhưng người biết lẽ phải mà ta coi trọng, những

người này, chẳng hề có những thành kiến ấy và lại dùng những thành kiến của

họ đề chống lại chúng, họ cho ta những phương sách để không ngừng đối lập

những thành kiến này với những thành kiến kia và như thế mà tránh cho ta

khỏi sa vào tất cả những thành kiến ấy. Điều đó không giống chút nào với việc

giao thiệp với người nước ngoài ở nước ta hay Ớ nước họ. Trong trường hợp

đầu tiên, họ bao giờ cũng có một sự tục vì đất nước mà mình đang sống khiến

họ ngụy trang điều mình suy nghĩ về đất nước ấy, hoặc khiến cho mình suy

nghĩ tốt đẹp về nó trong khi họ đang ở đó; lúc về nước, ha hạ thấp đất nước

kia, và họ chỉ công bằng mà thôi. Tôi rất thích một người ngoại quốc mà tôi

tham khảo ý kiến đã từng thấy nước tôi, nhưng tôi chỉ hỏi ý kiến của họ khi họ

đã về nước.

Sau khi đã dùng gần hai năm để đi khắp một số nước lớn ở châu Âu, và

rất nhiều nước nhỏ; sau khi đã học được hai hay ba thứ ngôn ngữ chính; sau

khi đã thấy ở đó cái gì thật là hấp dẫn, hoặc về lịch sử tự nhiên, hoặc về chính

quyền, hoặc về nghệ thuật, hoặc về con người, Émile bị sự sốt ruột vò xé, nhắc

nhờ tôi rằng thời hạn đang đến gần. Lúc đó tôi bảo anh ta: Này, anh bạn của

tôi ơi con hãy nhớ lại mục tiêu chuyến đi của chúng ta; con đã xem, con đã

quan sát: Cuối cùng thì kết quả của những quan sát của con là gì? Con kiên in

giữ cho mình cái gì? Hoặc ta đã cam trong phương pháp của mình, hoặc phải

trả lời ta gần như thế này:

“Con giữ lại cho mình cái gì u > Phải vãn còn như là thầy đã đào tạo con

như thế, và không tự ý thêm vào bất kỳ một ràng buộc nào khác với cái

mà tự nhiên và pháp luật đã quàng vào con. Con càng xét kỹ thành tựu

của con người trong các thể chế của họ, con càng thấy người ta mong

muốn ráo riết được sống độc lập cho bằng được, hệ tự biến mình thành

nô lệ, và càng thấy họ dùng chính tự do của mình trong những nỗ lực

vô ích để giữ vững tự do ấy. Để cho khỏi bị cuốn theo dòng thác sự việc,

họ tự tạo hàng ngàn mối ràn bở buộc; thế rồi cứ vừa mới muốn tiến lên

một bước, họ lại không sao bước được, và ngạc nhiên rằng đang bi

dính chặt vào tất cả những thứ đó. Con cho răng muốn được tự do,

người ta chẳng phải làm gì hết, chỉ cần đừng có muốn thôi không sống

tự do nữa. ổi, thầy giáo của con, chính thầy đã làm cho con được tự do,

bằng cách dạy con không cưỡng lại cái tất yếu. Cứ để cho sự tất yếu đến

lúc nào thì đến, con cứ để cho nó lôi cuốn đi thật thoải mái, và vì rằng

con không muốn chống cự lại nên con chúng tự ràng buộc vào cái gì để

mà thi lại. Con đã tìm kiếm trong các chuyến du lịch của chúng ta xem

Có nơi nào đó trên Trái đất mà ở đó con có thể hoàn toàn là chính

mình; nhưng có nơi nào sống giữa mọi người mà người ta lại chẳng

phụ thuộc gì vào dục vọng của mình eh Mọi việc đã được xem xét kỹ,

và con thấy rằng mong muốn của con thật mâu thuẫn, bởi vì dù con có

thế coi mà chuyện như không, ít ra con van cứ sẽ phải gắn bó với Trái

đất này, nơi con đã bị em chặt vào; cuộc đời con sẽ bị gần chặt vào Trái

đất như các thần nữ của rừng xanh bị gần chặt cuộc đời họ vào cây cối

con đã thấy rằng quyền thế và tự do là hai từ ki nhau, con chỉ có thể là

chủ của một ngôi nhà tranh bằng cách thôi đừng có làm chủ bản thân

mình nữa.

Hoc erat in rotis: modus ảgi non ita magnus[319].

“con nhớ lại rằng tài sản của con là lý do của những cuộc nghiên cứu

của chúng ta. Thầy đã chứng minh chắc chắn rằng con không thể cùng

một lúc gìn giữ cả tài sản của mình lẫn tự do của mình; nhưng nếu thầy

lại muốn rằng con đồng thời vừa được tự do lại vừa chẳng có nhu cầu

gì, thì thầy đã mong muốn hai việc trái ngược nhau, bởi lẽ còn chỉ biết

tự mình thoát khỏi sự phụ thuộc vào mọi người khi quay về phụ thuộc

vào tự nhiên. Vậy con sẽ làm gì với tài sản mà cha mẹ con đã để lại?

Con sẽ khởi đầu bằng việc đừng có lệ thuộc gì vào đó; con sẽ gỡ bỏ mọi

mối dây ràng buộc con vào đó. Nếu người ta để cho con tài sản, nó sẽ

còn thuộc về con; nếu người ta tước đoạt tài sản đó của con, người ta sẽ

không lôi cuốn con đi theo tài sản của mình. Con sẽ chẳng hề dằn vặt

lo nghĩ gì để giữ lại tài sản của mình, những con sẽ bình tâm Ớ lại vị trí

của mình. Giàu hay nghèo thì con cũng sẽ được tự do. Con sẽ không

phải chỉ được như thế ở một nước nào đó, ở một vùng nào đó, mà là sẽ

N do ở mọi nơi trên Trái đất. Đối với con mọi xiềng xích của dư luận

đều đã bị đập tan; con chỉ biết có những xiềng xích của điều tất yếu!

Con đã học mang các xiềng xích ấy từ lúc sinh ra Ớ đời, và con sẽ mang

chúng cho tới lúc chết, bởi vì con là con người; và tại sao con lại không

biết mang những xiềng xích của sự tất yếu khi là người tự do bội làm

nô lệ thì sẽ vẫn còn phải mang xiềng xích này, và xiềng xích của sự nô

lệ thêm vào đó nữa?

“Hoàn cảnh của con trên Trái đất này thì có can hệ gì đối với con?

Khắp nơi nào mà có con người, thì con ở đó như ở nhà anh em mình;

mọi nơi nào mà không có một ai thì tức là con Ớ nhà mình. Hề con có

thế sống độc lập và giàu có, con có của để đủ sống và con sẽ sống. Khi

của cải của con làm cho con phải lệ thuộc vào Dó con sẽ bỏ nó không

nuối tiếc, con có cánh tay để lao động, và con sẽ sống. Nếu con không

còn tay nữa, con sẽ sống nếu người ta nuôi con, con sẽ chết nếu người

ta bỏ mặc con; con cũng sẽ chết ngay cả khi hệ không bỏ mặc con; bởi

vì cái chết không phải là một tội của nghèo khó mà là một quy luật của

tự nhiên. Lúc cái chết đang gần kề, con chẳng sợ nó, nó sẽ không bao

giờ xảy đến bất ngờ với con khi con đang chuẩn bị để sống; nó sẽ

không bao giờ cản trở được con đã từng sống.

“Thế đấy, thưa cha, con đã tự mình quyết định như vậy. Nếu con không

Có đam mê, con sẽ sống trong trạng thái làm người của mình, sống độc

lập như Chúa vậy, bởi vì chỉ muốn có điều đang tồn tại nên con sẽ

chẳng bao giờ phải chống lại số mệnh. Chí ít thì con chỉ có mỗi một

xìêng xích, đó là xiềng xích duy nhất mà con mang nó mãi mãi, và con

Có thể lấy làm vinh dự về nó. Vậy thì trở về đi, xin thầy trao Sophie cho

con, và con được tự do”.

. Émile thân mến, ta rất vui mừng được nghe những lời nói về con

người thốt ra từ miệng con, và qua đó thấy được những tình cảm trong

lòng con. Ở độ tuổi của con, sự vô tư bất vụ lợi này không làm ta khó

chịu. Nó sẽ giảm đi khi con có con cái, và lúc đó con sẽ phải đúng như

điều cần phải thế của một người cha tốt trong gia đình và một người

đàn ông khôn ngoan. Trước khi con đi du lịch ta đã biết rằng nó sẽ gây

ra hiệu quả gì, ta đã biết bằng cách nhìn tận mắt các thể chế của chúng

ta, con sẽ không dễ lấy Ớ đó niềm tin mà các thẽ chế này chẳng xứng

đáng. Thật là hão huyền khi người ta hy vọng được hưởng tự do dưới

sự che chở của pháp luật. Các đạo luật! Chúng có ở những đâu? Và

chúng được tôn trọng ở những nơi nào? Khắp nơi con đã chỉ thấy có

lợi ích riêng và dục vọng của con người ngự trị trong cái danh xưng

luật pháp ấy. Nhưng các quy luật vĩnh cửu của tự nhiên và của trật tự

cứ tồn tại. Chúng đóng vai luật xác thực cho người hiền minh, chúng

ghi vào đáy lòng họ nhờ lương tâm và lý trí, đó là những luật mà người

hiền minh phải phục tùng đê được tự do; và chì có kè nào làm ác thì

mới là nô lệ, bởi vì bao giờ họ cũng bất đắc dĩ mà làm thế. Tự do không

Có trong bất kỳ một hình thức cai trị nào, nó ở trong lòng con người tự

do; anh ta mang tự do trong mình ở khắp mọi nơi. Con người hèn hạ

thì Ớ đâu cũng mang thân phận nô lệ. Kẻ này từng là nô lệ ở Genève, và

kẻ kia tự do ở Paris.

, Nếu ta nói với con về các bổn phận của người công dân, có thể là con

sẽ hỏi ta rằng đâu là tổ quốc, và con sẽ tin rằng con đã làm ta lúng

túng; tuy nhiên con vãn lầm rồi, Émile thân yêu, bởi vì ai không có tồ

quốc thì ít ra cũng có một quê hương. Bao giờ cũng có một chính

quyền và những ảo ảnh của pháp luật mà anh ta sống yên bình trong

đó Cho rằng khế ước xã hội không hề được tuân thủ thì có hề gì, nếu

như lợi ích riêng đã bảo hộ nó như ý chí chung đã từng bảo hộ, nếu

như bạo lực của công chúng tránh được cho nó khỏi những bao lực cá

nhân, nếu như điều ác mà anh từng thấy xảy ra lại làm cho anh ta yêu

điều thiện, và nếu như chính các thể chế của chúng ta đã làm cho anh

ta biết và căm ghét những hành vi bất công của chính những thể chế

ấy? Ô Émile, có ở nơi nào mà một người có thiện tâm lại không mang

ơn quê hương mình? Dù là người thế nào chăng nữa, anh cũng mang

ơn quê hương mình về những gì quý giá nhất đối với con người, đó là

tính đạo đức trong hành động và lòng yêu đức hạnh. Sinh ra ở một

góc rừng, có lẽ anh ta sống hạnh phúc hơn và tự do hơn; nhưng vì

chúng có gì phải phấn đấu đề theo đuổi những ham muốn của mình,

anh ta sẽ sống có thiện tâm mà chẳng cần công trạng gì, anh ta sẽ

không hề được coi là có đạo đức, còn bây giờ anh biết sống có đức độ

bất chấp những đam mê của mình. Chỉ riêng có bề ngoài của trật tự

làm cho anh ta biết điều đó, làm cho anh ta yêu thích điều đó. Lợi ích

chung, đối với những người khác chi được dùng làm cái cớ, còn đối

với riêng anh thì đó là một động cơ thực sự. Anh học được đấu tranh

với chính mình, chiến thắng chính mình, hy sinh lợi ích riêng cho lợi

ích chung. Thật là không đúng nếu bảo rằng anh ta không được

hưởng lợi chút nào từ pháp luật; nó trao cho anh lòng dũng cảm để

sống công chính, ngay cả khi sống với những kẻ ác. Cũng thật không

đúng khi nói rằng pháp luật không làm cho anh trở nên tự do. Pháp

luật đã dạy cho anh tự chế ngự mình.

‘ Vậy nên con đừng nói rằng con ở đâu thì có hề gì đâu? Con cần phải

sống ở nơi nào mà con có thể hoàn thành mọi bổn phận của mình; và

một trong những bổn phận ấy là sự quyến luyến với nơi mà con đã sinh

ra. Đồng bào con đã che chở cho con lúc bé dại, con phải yêu mến họ

khi con thành người lớn. Con phải sống giữa họ, hay ít ra là ở nơi nào

mà con có thể có ích cho họ, chừng nào con có thể làm được điều đó, và

Ờ nơi nào họ có thể tìm gặp con khi hệ cần đến con. Có một tình huống

nào đó mà một người có thể có ích hơn cho đồng bào mình khi anh ta

sống xa tổ quốc hơn là anh ta sống ở trong nước. Lúc đó anh ta chỉ nên

nghe theo bầu nhiệt huyết của mình và chịu đựng sự lưu đày không hề

than vãn; ngay cả sự lưu đày ấy cũng là một trong những bổn phận của

anh ta. Mà con này, Émile tốt bụng, con không phải chịu những hy

sinh đau đớn ấy, con là người không phải gánh nhiệm vụ đáng buồn là

nói rõ sự thật cho mọi người, con hãy đến sống giữa một người, hãy

vun trồng tình hữu ái của họ trong một cuộc giao tiếp dịu đàng, con

hãy là ân nhân của họ, làm tấm gương cho họ noi theo: Tấm gương của

con có ích cho họ hơn tất cả mọi cuốn sách của chúng ta, và việc thiên

mà họ thấy con làm sẽ làm họ xúc động hơn tất cả những lời nói hão

huyền của chúng ta.

“Vì điều đó mà ta không khuyến khích con đến sống ở những thành

phố lớn: Trái lại, một trong những tấm gương mà người tốt phải nêu ra

cho những người khác là tấm gương của cuộc sống thuần phác và Ờ

đồng quê, cuộc sống đầu đời của một người đàn ông, yên bình nhất, tự

nhiên nhất và êm đềm nhất đối với những ai không có trái tim hư đốn.

Anh bạn trẻ của ta, hạnh phúc thay, quê hương là nơi ta chẳng cần

phải đi tìm sự yên bình trong sa mạci Nhưng quê hương ấy ở đâu? Một

người có thiện tâm ít thỏa mãn được khuynh hướng của mình trong

các thành phố, ở đó họ chỉ gần như là thi thố được nhiệt tình của mình

cho bọn người lắm mánh khóe hay cho bọn bất lương. Ở đó, việc nbơươl

ta tiếp nhóm những kẻ lười biếng đến tìm vận may chỉ làm hoang vắng

thêm cho xứ sở, mà trái lại cần phải làm đông đảo lại cư dân bằng cách

di dân ra khỏi các thành phố. Tất cả những người rút khỏi xã hội dông

đảo thật là có ích chính vì họ rút ra khỏi đó, bởi mọi thói xấu của xã hội

ấy là do quá đông người. Còn là hữu ích nữa khi họ có thể đem trở lại

văn hóa và tình yêu của những ngày lâu đời cho những nơi hoang vâng

của cuộc sống. Tôi cảm động khi nghĩ rằng từ nơi ấn cư giản dị của họ,

Émile và Sophie có thể phân phát bao nhiêu là việc tốt xung quanh hệ,

hề có thể làm cho làng mạc sinh động thêm và khuấy động, làm tăng

thêm nhiệt tình đã tắt của người dân quê nghèo lên biết bao nhiêu. Tôi

ngỡ như nhìn thấy số dân tăng lên, đồng ruộng màu mỡ thêm, đất đai

khoác một bộ cánh mới, sự đông đảo và sung túc biến lao động thành

hội hè, những tiếng hò reo vì vui sướng và những lời chúc tụng vang

lên nơi những trò chơi thôn dã xung quanh đôi lứa đáng yêu đã khuấy

động hè. Người ta coi thời hoàng kim chân chất là ảo tưởng và bao giờ

điều đó cũng sẽ là một ảo tưởng đối với kẻ nào có trái tim và thị hiếu

hư hỏng. Thật cũng chẳng đúng khi người ta tiếc nuối nó, bởi lẽ những

nuối tiếc ấy bao giờ cũng chẳng ích gì. Vậy phải làm sao đây cho thời

đại chân chất tái sinh? Chỉ cần mỗi một điều thôi nhưng lại không thể

được, đó là yêu nó.

‘ Thời hoàng kim chân chất có vẻ đã tái sinh xung quanh ngôi nhà của

Sophie; các con sẽ chỉ cùng nhau làm nốt tất cả những gì mà cha mẹ

đáng kính của cô đã khóc đâu. Nhưng Émile thân yêu, phải làm sao cho

một cuộc sống quá êm đềm như thế không làm con chán ghét những

nghĩa vụ nặng nề, nếu có ngày những nhiệm vụ đó được đặt ra với con:

con hãy nhớ đến những người La Mã đã chuyển từ cái cày sang chức

quan chấp chính. Nếu vương quyền hay Nhà nước gợi con đi phục vụ

tồ quốc, con hãy từ bỏ tất cả đề đi làm tròn chức trách vinh quang của

người công dân ở vị trí mà người ta chỉ định cho con. Nếu chức trách

này là nặng nề cho con, thì có một cách lương thiện và chắc chắn đế

giải thoát cho mình khỏi chức trách đó, chính là hoàn thành chức trách

đó đủ liêm khiết đó người ta không đề con gánh vác lâu dài. Vả chăng

đừng mấy lo ngại phải lúng túng vì một gánh nặng như vậy; chừng nào

Có những con người của thời này thì người ta sẽ chẳng tìm đến con để

phục vụ Nhà nước đâu’.

Giá mà tôi được mô tả cuộc trở về của Émile đến bên Sophie và kết cục

mối tình của họ, hay đúng hơn là sự khởi đầu tình yêu vợ chồng sẽ kết phối họ

với nhau t Tình yêu được xây đựng trên sự tôn trọng lẫn nhau lâu bền như cuộc

đời, dựa trên đức hạnh thì không hề phai tàn cùng với sắc đẹp, dựa trên sự

tương hợp về tính cách thì làm cho việc trò chuyện với nhau dễ thương hơn và

niềm vui sướng của sự chung sống lần để u kéo dài mãi đến tuổi già. Nhưng tất

cả những chi tiết này sẽ có thể làm đẹp lòng mà không ích lợi; và cho đến tận

bây giờ tôi mới chỉ dám nói đến những tình tiết thú vị mà tôi thấy rõ là có ích.

Tôi sẽ từ bỏ quy tắc này ở phần cuối của công việc chăng? Không, tôi cũng cảm

thấy đúng là ngòi bút của tôi đã mệt mỏi. Không đủ sức cho những công trình

dài hơi đến thế, tôi sẽ bỏ công trình này nếu nó tiến triển ít hơn; để khỏi bỏ nó

dê dang, đã đến lúc tôi hoàn tất.

Cuối cùng tôi thấy xuất hiện ngày đẹp đẽ nhất trong đời của Émile, và là

ngày sung sướng nhất đời tôi; tôi thấy những chăm sóc của tôi được hoàn

thành, và tôi bắt đầu được nếm những quả ngọt của nó. Đôi lứa xứng đáng

phối kết với nhau bằng một mối liên hệ không thể nào tan rã được, miệng hệ

thốt ra và lòng họ xác nhận những lời thề ước sẽ không có chút hão huyền

nào: Họ là một đôi vợ chồng. Khi ra khỏi thánh đường, họ để người ta dẫn đi,

họ không biết là mình đang ở đâu, đang đi đâu, không biết người ta làm gì

xung quanh mình… Họ không nghe thấy gì, họ chỉ trả lời bằng những lời lẫn

lộn không đâu vào đâu, những cặp mắt bối rối của họ chẳng nhìn thấy gì nữa.

ôi còn mê sảng! Ôi sự mềm yếu của con nguồn Sự cảm nhận hạnh phúc làm

con người choáng ngợp, con người không đủ mạnh để chịu đựng nổi cảm

nhận ấy.

Thật chẳng có mấy ai biết được trong ngày cưới phải nói một giọng thích

hợp với đôi vợ chồng son. Sự đoan trang trầm mặc của những người này và

những câu nói vui vẻ của những người kia theo tôi đều không đúng chỗ như

nhau. Tôi sẽ ưng ý hơn nếu người ta cứ đề mặc những trái tim non trẻ này

cuốn vào nơi sâu lắng của lòng mình, và lao vào một nhịp đập không thiếu

niềm vui sướng, so với việc người ta cứ cản trở họ một cách quá độc ác để làm

rầu lòng họ bằng những phép lịch sự giả tạo, hoặc là làm cho họ bối rối vì

những lời nói đùa tục tĩu, có thể là làm họ vui thích vào mọi lúc khác, nhưng

với họ lại hoàn toàn bị quấy rầy trong một ngày như thế.

Tôi thấy hai bạn trẻ của tôi luống cuống trong mơ mộng êm đềm, chẳng

nghe rõ được một lời nào người ta nói với họ. Tôi là người mong cho người ta

hưởng thụ không sót ngày nào trong đời, liệu tôi có để cho họ bỏ phí một ngày

quý báu nhường ấy không? Không, tôi muốn họ thưởng thức nó, muốn họ tận

hưởng nó, muốn nó dành cho họ khoái cảm. Tôi tách hệ ra khỏi đám đông vô

tình quấn lấy họ, và dẫn hệ đi cách xa đám đông, tôi làm cho họ nhớ lại về

chính mình, bằng cách nói về họ. Không phải là tôi chi muốn nói với đôi tai

của họ mà muốn nói với trái tim của họ, và tôi biết chủ đề nào là duy nhất làm

cho họ có thể quan tâm trong ngày hôm ấy.

“Các con ạ, tôi bảo họ trong khi nắm tay cả hai người, cách đây ba năm

ta đã thấy bốc lên ngọn lửa mãnh liệt và trong sáng làm nên hạnh phúc

của các con hôm nay. Ngọn lừa này đã chỉ không ngừng tăng thêm; ta

thấy trong cặp mắt các con ngọn lửa đó đang ở độ mãnh liệt nhất của

nó, nó chỉ còn có thể suy giảm mà thôi”. Thưa các độc giả, quý vị có

thấy chăng những rung cảm, những sốt sắng, những thê ước của Émile,

thái độ xem thường mà Sophie rút tay cô ra khỏi bàn tay tôi, và những

cam kết âu yếm trong ánh mắt họ trao cho nhau răng sẽ tôn thờ nhau

cho đến hơi thở cuối cùng? Tôi cứ mặc họ, và sau đó tôi nói tiếp.

“Ta thường nghĩ rằng nếu như người ta có thể kéo dài hạnh phúc của

tình yêu trong hôn nhân, người ta sẽ có thiên đường trên mặt đất. Cho

đến nay điều đó là chưa từng thấy. Nhưng nếu sự việc không phải là

hoàn toàn không thể, thì các con thật xứng đáng cả đôi cùng nêu lên

một tấm gương mà các con chưa từng nhận được ở một ai, và ít có cặp

vợ chồng nào biết bắt chước đề noi theo. Các con của ta ơi, liệu các con

Có muốn ta mách bảo cho các con một cách mà ta tưởng tượng ra cho

việc này, và ta cho rằng đó là cách duy nhất có thể thực hiện không? “

HỌ nhìn nhau cười và giễu cợt sự ngây thơ của tôi. Émile thẳng thắn cám

ơn phương pháp của tôi và bảo tôi rằng anh ta cho rằng Sophie có một phương

pháp hay hơn thế, và đối với anh, chừng ấy là đủ. Sophie thừa nhận điều đó,

và tỏ ra cũng hoàn toàn tin như vậy. Tuy nhiên qua thái để có vẻ đùa ca của

cô, tôi tin rằng có pha lân đôi chút tò mò. Tôi nhìn kỹ Émile, cặp mắt anh ta

như ngấu nghiến những duyên sắc của vợ mình; đó là điều duy nhất mà anh ta

tỏ ra chăm chú đến và mũ lời lẽ của tôi chẳng làm anh lúng túng mấy nỗi. Còn

tôi thì cười và tự nhủ: Ta sẽ biết làm cho con tờ nên chú ý hơn ngay bây giờ.

Sự khác biệt hầu như không nhận ra được trong các cử chỉ kín đáo này chỉ

rõ một đặc tính riêng của hai người, và thật là trái ngược với những định kiến

đã có; đó là đàn ông thì nói chung là kém kiên trì hơn đàn bà, và chóng chán

tình yêu hạnh phúc hơn đàn bà. Người đàn bà lo xa về sự thiếu kiên định của

người đàn ông và băn khoăn về điều đó[320]; điều đó làm cho họ càng hay ghen

tuồng. Khi người đàn ông bắt đầu nhạt thì các bà vợ để giữ anh ta, buộc phải

thực hiện lại với chồng mọi sự chăm sóc mà trước kia anh ta đã làm đề chiêu ý

vợ và thế là các bà khóc lóc, các bà tự giày vò mình, đến lượt các bà nhún mình

tự hạ, và ít khi đạt được điều mong muốn. Sự quyến luyến và săn sóc chinh

phục các trái tim nhưng không sao thu hồi được các trái tim.

Tôi trở lại nói về phương pháp của tôi chống lại sự nhạt tình trong hôn

nhân. Tôi nói tiếp:

“Mẹo này đơn giản và dễ dàng; đó là tiếp tục làm người yêu khi ta đã

thành vợ thành chồng”. Émile, chẳng coi bí quyết này vào đâu và bảo:

Quả thực, mẹo ấy chẳng làm chúng con buồn lòng đâu. “Có lẽ buồn

lòng cho con hơn là con nghĩ. Xin con hãy dành thời gian để nghe ta

nói cho rõ.

“Những ràng buộc mà người ta muốn thắt quá chặt chẽ sẽ đứt. Đấy là

điều xảy đến cho hôn nhân khi người ta muốn trao cho nó nhiều sức

mạnh mà nó không đáng có. Sự chung thủy mà hôn nhân đòi hỏi đôi

vợ chồng là điều thiệng liêng nhất trong các quyền của hai người;

nhưng quyền lực mà nó trao cho mỏi người áp đặt lên người kia lại quá

đáng. Sự câu thúc và tình yêu khó mà song hành, và niềm hoan lạc thì

lại không chỉ huy được. Con đừng ngượng, Ồ Sophie! Và đừng có mà

định bỏ chạy. Ta không hề có ý muốn xúc phạm tính khiêm nhường

của con! Nhưng đây là đinh mệnh của đời con. Vì một việc lớn đến thế,

con hãy chịu đựng những lời nói, giữa một người chồng và một người

cha, mà con sẽ không chịu nổi ở nơi khác.

“Chẳng phải sự chiếm hữu mà là sự phục tùng lệ thuộc làm cho chán,

và người ta duy trì đối với một cô gái bao mối quyến luyến thật lâu bền

hơn đối với một người vợ. Làm sao mà người ta có thể làm cho những

vuốt ve êm dịu nhất thành một bổn phận và làm cho những bằng

chứng dịu dàng nhất của tình yêu thành một cái quyền? Chính là sự

ham muốn lẫn nhau làm nên quyền, tự nhiên không biết đến quyền

nào khác. Luật lệ có thể thu hẹp quyền này, nhưng nó không thể mở

rộng quyền đó. Khoái cảm tự nó là quá dịu ngọn Vậy sao lại cứ phải

chuộc lấy sức mạnh từ những điều phiền phức đáng buồn mà sức mạnh

ấy vẫn cứ rút ra được từ những hấp dẫn riêng chỉ khoái cảm mới có

được? Không, các con ạ, trong hôn nhân thì những trái tim ràng buộc

với nhau còn thân thể không hề bị nô lệ hóa. Các con phải chung thủy

với nhau, chứ không phải dễ dãi chiều lòng nhau. Mỗi người trong đôi

lứa chỉ có thể là của người kia, nhưng chẳng có ai trong đôi lứa muốn

người kia thuộc về mình một cách tuỳ ý và vô chừng mực.

“Vậy thì, Émile thân yêu, nếu đúng là con muốn làm người yêu của vợ

mình, còn cô ta luôn luôn là nhân tình của con và là chủ bản thân; con

hãy làm người tình hạnh phúc, nhưng đây kính trọng, con hãy nhận tất

cả từ tình yêu mà đừng có đòi hỏi một điều gì từ nghĩa vụ, và sao cho

những chiều chuộng nhỏ nhặt nhất không bao giờ được coi là do quyền

con được hưởng, mà là những ân sủng. Ta biết rằng sự e lệ tránh

những thú nhận công khai và đòi hỏi được khắc phục; nhưng với sự tế

nhi và tình yêu chân chính, thì người yêu sao mà lầm lẫn được ý muốn

ngầm không nói ra? Anh ta có không biết gì khi trái tim và ánh mắt

đều thỏa thuận về một điều mà ngoài miệng thì giả vờ từ chối?

‘Sao cho mỗi người trong đôi lứa, luôn luôn làm chủ được con người

mình và những chiều chuộng của mình và chỉ trao cho người kia do ý

muốn của chính mình. Con hãy luôn luôn nhớ rằng, ngay cả trong

hôn nhân, khoái cảm chỉ chính đáng khi ham muốn được chia sẻ. Các

con của ta, đừng e ngại rằng luật lệ này làm cho các con xa nhau; trái

lại nó làm cho cả hai càng quan tâm hơn đến việc làm vừa lòng nhau

và sẽ phòng ngừa được sự chán ngấy. Chỉ hạn chế duy nhất người nọ

vào người kia, tự nhiên và tình yêu sẽ đủ để làm cho các con gần gũi

nhau.

Nhân lời nói này và những lời khác tương tự, Émile phật ý, lại la lối;

Sophie thì ngượng ngùng, lấy quạt che mặt, và không nói một lời. Kẻ không

bằng lòng nhất trong hai người, lại có thể không phải là kẻ phàn nàn nhiều

nhất. Tôi nài ép không thương tiếc: Tôi làm cho Émile phải ngượng đỏ mặt vì

sự thiếu tế nhị của anh ta; về Sophie tôi bảo đảm là cô ta chấp nhận sự thỏa

hiệp về phía mình. Tôi yêu cầu cô nói ra; người ta ngại rằng cô không dám bác

lại tôi Émile, băn khoăn, dò hỏi cặp mắt của người vợ trẻ; anh ta thấy chúng,

trong cơn bối rối của mình chất chứa đầy những rung động khoái lạc làm cho

anh ta yên tâm đối với nguy cơ của sự tin cậy. Anh ta phủ phục xuống chân cô,

hôn thâm thiết lên bàn tay mà cô đưa ra cho anh, và thề rằng, ngoài lòng trung

thành đã hứa hẹn, anh từ bỏ mọi quyền khác đối với cô. Anh bảo cô, em yêu

dấu, em hãy làm trọng tài cho những thú vui vợ chông của anh, như em là

trọng tài cho suốt đời anh, cho cả số phận của anh. Dù có phải trả giá cả cuộc

đời vì tính khắt khe của em, ta vẫn trao cho em những quyền mà ta quý nhất.

Ta không muốn mắc nợ chút nào về sự chiều chuộng của em, anh muốn tất cả

đều giống như tấm lòng em.

Émile nhân hậu, con hãy yên tâm: Bản thân Sophie quá cao thượng nên

chẳng để con chết vì lòng hào hiệp của con đâu.

Đến chiều, lúc sắp từ biệt hạ tôi nói với họ bằng một giọng nghiêm nghi

nhất có thể: Cả hai con hãy nhớ rằng các con tự do, và đây không phải là vấn

đề nghĩa vụ vợ chồng; các con hãy tin ở ta, đừng có giả tôn kính. Émile, con có

muốn đến chỗ ta không? Sophie đồng ý đấy. Émile nối khùng, muốn đánh tôi.

Và con, Sophie, con nói sao về chuyện này? Ta có phải dẫn anh ấy theo không?

CÔ bé dối trá, đỏ ửng mặt và nói rằng có. Lời nói dối thú vị và dê nghe, còn

đáng giá hơn sự thật!

Ngày hôm sau… Hình ảnh về hạnh phúc lớn lao không còn khiến con

người vui thích nữa: Sự đồi bại của những thói xấu đã làm sở thích của họ hư

hỏng chẳng kém tấm lòng họ. Họ không còn biết cảm nhận cái gì là đáng cảm

động và cũng không nhìn thấy cái gì là đáng yêu. Để mô tả sự khoái lạc, thì

bao giờ quý vị cũng chỉ nên tưởng tượng ra đôi người yêu hạnh phúc đang bơi

trong niềm vui thú, mà những bức tranh của quý vị vẫn còn là không hoàn

hảo! Quý vị mới chỉ miêu tả được cái phần thô thiển nhất mà thôi; những nét

hấp dẫn nhất của khoái lạc chẳng hề bộc lộ ra ở đó. ờ, có ai trong các quý vị

chưa từng thấy đôi trẻ mới kết hôn được hưởng nhiều may mắn nhất, vừa ra

khỏi chiếc giường tân hôn, và cùng mang trong ánh mắt lờ đờ và trinh bạch

của mình cơn say của những khoái cảm êm đềm mà họ vừa mới hưởng, cái

đảm bảo đáng yêu của sự trinh bạch, và do đó mà cả niềm tin chắc thật thú vị

vào sự chung sống những ngày còn lại của đời mình? Đây là đối tượng làm say

lòng người nhất có thể cống hiến cho trái tim con người; đấy là bức tranh thực

của khoái lạc: Quý vị có thể từng nhìn thấy hàng trăm lần mà không nhận ra

nó; những trái tim khô cứng của quý vị không còn sẵn sàng để ưa thích nó.

Sophie, sung sướng và hiền hòa, suốt ngày nằm trong vòng tay của bà mẹ âu

yếm; đó là một cuộc nghỉ ngơi thật êm đềm sau khi qua đêm trong vòng tay

một người chồng.

Ngày hôm sau nữa, tôi nhận ra cảnh tượng có vài thay đổi. Émile muốn tỏ

ra đôi chút không hài lòng; nhưng qua biểu hiện này, tôi nhận xét thấy có một

số sốt sắng ân cần thật đằm thầm, và ngay cả rất nhiều sư vâng lời nữa, mà

qua đó tôi không dự đoán thấy điều gì là khó chịu. Đối với Sophie, cô vui vẻ

hơn hôm trước, tôi thấy lấp lánh trong cặp mắt cô một thái độ thỏa mãn; cô ta

thật là dễ thương với Émile, cô làm bộ nũng niu gần như diệc ghẹo mà anh ta

chẳng bục tức nữa.

Những thay đổi này ít rõ ràng nhưng chúng không lợt khỏi mất tôi: Tôi băn

khoăn về chuyện này, tôi hỏi riêng Émile, tôi được biết rằng tuy anh ta rất tiếc

đấy, và không kế đến mọi ý khấn nài của anh, anh đã phải ngù riêng thường

trong đêm qua. Cô vợ hống hách đã vội hấp tấp sử dụng quyền của mình. Thế

là sáng tỏ: Émile phàn nàn một cách cấy đằng, Sophie thì đùa cả pha trò;

nhưng rồi cuối cùng, thấy anh sắp sửa thực sự giận dữ, cô đưa mắt nhìn anh

đầy dịu dàng và yêu thương, và, trong khí nắm lấy tay tôi, cô chỉ thốt ra có mới

một lời, nhưng với một giọng nhe như gió thoảng: Kẻ phụ bạc! Émile thì quá

ngố nên chẳng hiểu gì chuyện này. Tôi thì tôi hiếu; tôi rời Émile và đến lượt

Sophie gặp riêng tôi.

Tôi bảo cô rằng tôi biết lý do của sự thất thường này. Người ta không thể

tế nhị hơn cũng không thể sử dụng sự tế nhị ấy kém đúng lúc hơn. Sophie

thân mến, con hãy yên tâm; đó là một người đàn ông ta đã trao cho con, đừng

ngại nhận anh ta như anh vốn thế. Con đã được hưởng hoa trái đầu mùa của

tuổi trẻ của anh ta; anh ta chưa vung phí nó cho bất kỳ ai, anh ta sẽ gìn giữ nó

lâu dài cho con.

‘Cô con gái yêu quý của ta, ta phải giải thích rõ những quan niệm của

ta trong cuộc trò chuyện tay ba của chúng ta hôm kia. Có thể là trong

câu chuyện này con chỉ nhận thấy một nghệ thuật để điều chỉnh những

lạc thú của các con để làm cho chúng được lâu bền. Ôi Sophie, con có

một đối tượng khác còn đáng cho ta chăm sóc hơn. Khi trở thành

chồng con thì Emile thành người chủ của con; chính con phải vâng lời,

tự nhiên đã mong muốn điêu đỏ. Khi người vợ giống như Sophie thì tốt

hơn vẫn là người chồng được cô ta hướng dẫn; đó cũng là luật tự

nhiên; và chính là vì đề trao lại cho con bao nhiêu quyền uy đối với trái

tim anh ta ngang với bấy nhiêu quyền uy mà giới tính các anh ta trao

cho anh ta đối với con người con, mà ta làm cho con thành trọng tài

cho những lạc thú của anh ta. Điều đó làm con phải chịu những thiếu

thốn nặng nề; nhưng con sẽ khơn chế được anh ta nếu con tự biết

khống chế bản thân mình; và điều đã xảy ra cho ta thấy rằng nghệ

thuật này tuy khó đến thế nhưng không vượt quá dũng khí của con.

Con sẽ khống chế lâu dài được bằng tình yêu, nếu con làm cho những

ân sủng của con trở nên hiếm hoi và quý giá, nếu con biết cách làm cho

chúng có giá trị. Con có muốn thấy chồng con luôn luôn quỳ gối dưới

chân con không, hãy giữ anh ta luôn luôn ở một khoảng cách nào đó so

với con người con. Nhưng trong tính nghiêm khắc của con, hãy đưa vào

đó sự khiêm nhường chứ không phải là ý thích thất thường; sao cho

anh ta thấy con là biết giữ gìn ý tứ chứ không phải là kỳ cục; hãy gìn giữ

sao cho trong khi điều chỉnh tình yêu của anh ta con không làm cho

anh ta phải nghi ngờ tình yêu của con. Hãy làm cho con được yêu dấu

bằng những ân sủng của con và làm cho con được tôn trọng bằng sự từ

chối của con; sao cho anh ta ca ngợi sự trong trắng của vợ mình mà

không phàn nàn về sự lãnh đạm của vợ.

“Con gái của ta, có như thế thì anh ta mời trao cho con lòng tin của anh

ta, anh ta mới nghe ý kiến của con, anh ta mới hỏi ý con về công việc

của mình và sẽ không giải quyết việc gì mà không bàn bạc với con. Có

thế thì con mới có thể đưa anh ta trở lại với sự khôn ngoan khi bị ram

lạc, dắt dẫn anh ta bằng sự thuyết phục dịu đàng, con làm cho con trở

nên đáng yêu để trở nên có ích, hãy dùng việc đỏng đảnh làm dáng vì

lợi ích của đức hạnh, và dùng tình yêu vì lợi ích của lý trí.

“Con đừng Tưởng rằng chừng ấy là đủ cho nghệ thuật này có thể phục

vụ cho con được mãi. Dù người ta có thể thận trọng thế nào, thì sự

hưởng thụ vẫn làm phai nhạt ham muốn, và làm phai nhạt tình yêu

trước hết mà thứ. Nhưng khi tình yêu đã tồn tại lâu ngày, thì một thói

quen dịu đàng lấp được khoảng trống cho nó, và sự hấp dẫn của lòng

tin cậy thẽ chỗ cho mối rung cảm của nhục dục. Những đứa con tạo ra

giữa những người sinh ra chúng một mối ràng buộc không kém êm

đềm và thường là mạnh hơn cả chính tình yêu nữa. Từ khi con thôi

không là người tình của Émile nữa, con sẽ là vợ và là bạn của anh ta,

con sẽ là mẹ của các con anh ta. Lúc đó thay cho sự giữ gìn ý tứ lúc đầu,

con hãy thiết lập giữa hai vợ chồng sự thân mật riêng tư lớn hơn;

không còn ngủ riêng, không còn phải từ chối, không còn phải tính khí

thất thường. Con hãy trở thành một nửa của anh ta như thế sao cho

anh ta không thể nào bỏ qua được con, và sao cho, vừa mới xa con một

lúc’ anh ta đã cảm thấy xa chính mình.

“Con là người đã khiến cho niềm vui của cuộc sống gia đình ngự trị

trong nhà cha mẹ, con hãy làm cho những niềm vui ấy ngự trị như thế

trong nhà mình. Bất kỳ người đàn ông nào mà được hài lòng trong ngôi

nhà của mình đều yêu quý vợ. Con hãy nhớ rằng nếu chồng con sống

hạnh phúc ở nhà mình, con sẽ là một người vợ hạnh phúc.

“Còn bây giờ thì, đừng có nghiêm khắc quá với người tình của con, anh

ta đáng được chiều chuộng hơn, anh ta sẽ tức giận về những nỗi lo âu

của con; đừng gìn giữ sức khoẻ của anh ta quá chặt chẽ làm ảnh hướng

đến hmh phúc của anh ta, và con hãy hưởng hạnh phúc của mình.

Đừng nên chờ đợi sự chán mà cũng đừng cự tuyệt sút thèm muốn;

không được từ chối để mà từ chối, mà là để làm cho điều đã thỏa thuận

thành ra có giá trị”.

Sau đó tập hợp hai người lại, tôi nói với anh chồng trẻ trước mặt cô ta:

Phải biết chịu đựng cái ách tự mình quàng vào cố mình. Hãy xứng đáng đề nó

trở nên nhẹ nhõm đối với con. Nhất là con hãy ăn nói, cư xử cho phong nhã,

và đừng có tưởng rằng mình lại trở nên đáng yêu hơn vì hờn dỗi. Có khó gì

đâu mà không hòa hợp được và mỗi người đều dễ dàng liệu được các điều

kiện. Bản thỏa ước được ký bằng một nụ hôn. Sau đó tôi nói với người học trò

của mình: Émile thân mến, một người đàn ông cần đến lời khuyên và sự

hướng dẫn suốt đời mình. Ta đã cố hết sức mình để cho đến bây giờ làm tròn

bổn phận này với con; đến đây kết thúc công việc lâu dài của ta và khởi đầu

công việc của một người khác. Hôm nay ta trút bỏ quyền uy mà con đã trao

cho ta, và đây là người sư phó của con từ nay về sau.

Đần dò rồi sự cuồng nhiệt ban (rau cũng dịu đi, để cho họ yên ổn thường

thức các thú vui của tình cảnh mới mẻ của họ. Những người tình hạnh phúci

Cặp vợ chồng xứng đôi vừa lứa! Muốn đề cao đức hạnh của họ, muốn mô tả

hạnh phúc lớn lao của họ, cần phải viết cả tiểu sử cuộc đời họ. Đã bao lần tôi

ngắm nghía tác phẩm của mình trong con người họ, tôi cảm thấy một niềm

hứng khởi xiết chặt lấy mình làm cho trái tim tôi đập rộn ràng! Đã bao lần tôi

nối bàn tay hệ trong tay tôi trong lời cau chúc sáng danh Thượng đế và buông

những tiếng thở dài não nuột! Biết bao nhiêu nụ hôn tôi đã đặt lên đôi bàn tay

ấy đang xiết chặt lấy nham Biết bao dòng lệ mừng vui họ đã làm tôi cảm nhận

được chúng đã tuôn trào! Rồi đến phiên họ cảm động khi chia sẻ những rung

cảm của tôi. Những bậc cha mẹ đáng kính của họ còn thưởng thức được tuổi

trẻ của mình một lần nữa trong tuổi thanh xuân của con cái họ; có thể nói họ

lại bắt đầu sống trong con cái, hoặc nói đúng hơn là họ biết được lần đâu thế

nào là giá trị của cuộc đời: Họ nguyền rủa sự giàu có ngày xưa đã cản trở họ

cũng ở độ tuổi ấy mà không thưởng thức được một số phận đẹp đẽ đến vậy.

Nếu như có hạnh phúc trên Trái đất này thì phải tìm nó Ớ chốn ấn dạt tại đó

chúng tôi đang sống.

Vài tháng sau, một buổi sáng Émile bước vào phòng tôi, và vừa nói vừa

ôm hôn tôi: Thầy ơi, xin hãy ban khen con của thầy; anh ta hy vọng rằng sắp

Có vinh dự được làm cha. Ôi! Bao nhiêu là lo lắng sẽ bắt nhiệt tình của chúng

con phải gánh chịu, và chúng con vẫn sẽ còn cần đến thầy! Con không có ý nói

rằng con để thầy lại còn phải giáo dục đứa con trai sau khi đã giáo dục bố nó

nên người. Con cũng không cỏ ý nói rằng có bao giờ một ai khác ngoài con ra

lại hoàn thành được một bổn phận thiêng liêng và dịu ngọt đến thế, có lẽ con

cũng phải lựa chọn cẩn thận cho con trai con cũng như người ta đã từng lứa

chén cho bản thân com Nhưng xin hãy cứ làm thầy của những người thầy trẻ

tuổi Xin hãy khuyên bảo chúng con, hãy chăm sóc và hướng dẫn chúng con,

chúng con sẽ dễ bảo: Chừng nào con còn sống, con sẽ còn cần đến thầy. Con

cần đến điều đó hơn bao giờ hết, giờ đây khi những chức năng làm người của

con đã bắt đầu. Thây đã hoàn tất chức năng của mình; xin hãy hướng dẫn cho

con bắt chước thầy; và xin thầy hãy nghỉ ngơi, đã đến lúc rồi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.