Émile Hay Là Về Giáo Dục

QUẠ VÀ CÁO



Ngụ ngôn

Quạ tiên sinh, trên cây vắt vẻo,

Tiên sinh! Từ này tự nó có nghĩa gì? Đứng trước một danh từ riêng, nó có nghĩa gì? Trong trường hợp này, nó có ý nghĩa gì?

Một con quạ là gì?

Trên cây vắt vẻo là gì? Người ta không nói trên cây vắt vẻo, người ta nói vắt vẻo trên cây. Do đó, phải nói về phép nghịch đảo của thi ca; phải nói thế nào là văn xuôi và thế nào là thơ.

Mỏ ngậm miếng phô mai.

Phô mai nào nhỉ? Phô mai của Thụy Sỹ, của miền Bắc, hay của Hà Lan? Nếu đứa trẻ chưa từng nhìn thấy quạ, thì các vị được gì khi nói với nó về quạ chứ nếu nó đã từng thấy quạ, thì nó sẽ quan niệm như thế nào về những con quạ ngậm phô mai trong mỏ? Ta hãy luôn tạo dựng các hình ảnh theo mẫu có thực.

Cáo tiên sinh, do mùi rủ quến,

Lại một tiên sinh nữa! Nhưng với con này thì gọi thế chính đáng: Nó được coi là bậc thầy về các ngón nghề của nó. Cần phải nói cáo là gì, và phân biệt bản tính thật của cáo với tính cách ước lệ của nó trong các bài ngụ ngôn.

Rủ quến. Từ này không thông dụng. Phải giải thích từ đó; phải nói rằng người ta chỉ còn dùng nó trong thơ. Đứa trẻ sẽ hỏi tại sao trong thơ người ta lại nói khác với trong văn xuôi. Các vị sẽ trả lời nó thế nào đây?

Do mùi phô mai rủ quến! Miếng phô mai này, do một con quạ vắt vẻo trên cây ngậm, hẳn phải có mùi rất đậm để con cáo trong rừng thưa hay trong hang của nó ngửi thấy! Có phải như thế là các vị luyện tập cho học trò óc phê phán đúng đắn chỉ thừa nhận khi có chứng cớ chắc chắn, và biết phân biệt sự thực với lời dối trá trong điều người khác thuật lại đấy ư?

Nót với quạ bằng giọng lưỡi đại để như sau:

Giọng lưỡi! Vậy cáo biết nói ư? Vậy cáo nói cùng một ngôn ngữ với quạ ư? Hỡi ông thầy khôn ngoan, hãy coi chừng; hãy cân nhắc kỹ câu trả lời của mình trước khi trả lời; câu đó quan trọng hơn ông từng nghĩ đấy.

Kìa! Xin kính chào ngài quạ!

Ngài! Danh hiệu mà đứa trẻ thấy bị chế nhạo, trước cả khi biết được rằng

đó là một danh hiệu vinh dự. Những ai nói Đức ngài quạ sẽ có nhiều vấn đề khác nữa trước khi giải thích cái từ đức ngài này.

Sao ngài tinh thế? Sao tôi thấy ngài đẹp quá!

Câu đệm, lời rườm rà vô ích. Đứa trẻ, vì thấy lặp lại cùng một điều bằng những từ ngữ khác, sẽ tập nói năng một cách thiếu chặt chẽ. Nếu các vị bảo rằng sự rườm rà này là một nghệ thuật của tác giả, rằng nó tham gia dụng ý của cáo muốn tăng gấp bội điều tán tụng nhờ lời lẽ, thì sự bào chữa ấy sẽ hợp với tôi, chứ không hợp với học trò tôi.

Chẳng nói dối, nêu tiếng hót của ngài đây

Chẳng nói dối ư? Vậy đôi khi người ta nói dối sao? Đứa trẻ sẽ hiểu thế nào nếu các vị dạy nó rằng cáo chỉ bảo chúng nói dối vì nó nói dối?

Xứng vớt bộ lông này,

Xứng! Từ này nghĩa là gì? Hãy dạy trẻ em so sánh những tính chất khác biệt nhau như tiếng hót và bộ lông; các vị sẽ thấy nó hiểu các vị như thế nào.

Ngài sẽ là phượng hoàng của các khách trọ trong rừng.

Phượng hoàng! Chim phượng hoàng là gì? Thế là chúng ta đột nhiên bị ném vào thời cổ đại giả dối, gần như vào huyền thoại.

Các khách trọ trong rừng! Lời lẽ bóng bảy làm sao! Kẻ nịnh hót làm cho giọng lưỡi của mình thành cao nhã và thêm vẻ trang nghiêm để trở nên quyến rũ hơn. Một đứa trẻ có hiểu được sự tinh vi đó không? Nó có biết, có thể biết thế nào là một văn thể cao nhã và một văn thể thấp hèn hay không?

Nghe nói thế, quạ khôn xiết vui mừng,

Phải đã trải những đam mê thật mãnh liệt rồi mới hiểu được câu nói đã thành ngạn ngữ này.

Và, để phô giọng véo von,

Xin đừng quên rằng, để hiểu câu thơ trên và toàn bài ngụ ngôn, đứa trẻ phải biết thế nào là giọng véo von của quạ.

Há ngoác mỏ, để rơi miếng mối ngon.

Câu thơ này tuyệt vời, chỉ riêng hòa âm cũng tạo nên hình ảnh. Tôi nhìn thấy một cái mỏ to tướng xấu xí há ra; tôi nghe thấy miếng phô mai rơi xuyên qua các cành cây: Nhưng những cái đẹp loại ấy trẻ em không thấy được.

Cáo đớp lấy và bảo: Ngài tốt bụng của tôi ơi,

Thế là lòng tốt bị biến thành sự ngu dại. Chắc chắn người ta không mất thì giờ để dạy dỗ trẻ em.

Hãy biết rằng mọi kẻ nịnh hót trên đời

Châm ngôn khái quát; chúng ta không còn hiểu được nữa.

Sống bám vào kẻ nào nghe họ đấy.

Không bao giờ một đứa trẻ lên mười hiểu được câu thơ ấy.

Bài học này đáng giá miếng phô mai, hẳn vậy.

Điều này hiểu được, và ý tưởng rất hay. Tuy nhiên, lại sẽ rất ít trẻ em biết so sánh một bài học với một miếng phô mai, và không thích phô mai hơn bài học. Vậy cần phải làm cho chúng hiểu rằng câu nói này chỉ là một lời chế nhạo. Biết bao điều tinh vi đối với trẻ em!

Quạ, thẹn thùng và xấu hổ,

Lại một sự trùng phức nữa; nhưng sự trùng phức này không thể dung thứ được

Thề, nhưng hơi muộn, rằng người ta sẽ không còn lừa được nó.

Thề! Ông thầy ngu dại nào dám giải thích cho đứa trẻ thế nào là một lời thề? Thật là nhiều chi tiết, tuy nhiên hãy còn rất ít so với sự cần thiết để phân tích tất cả các ý tưởng của bài ngụ ngôn này, và quy thành những ý tưởng đơn giản và sơ lược mà mỗi ý tưởng trên bao gồm. Nhưng ai là người cho rằng cần có sự phân tích ấy để làm cho các thiếu niên hiểu mình? Chẳng ai trong chúng ta đủ chất triết gia[73] để biết tự đặt mình vào địa vị một đứa trẻ. Bây giờ chúng ta chuyển sang phần luân lý.

Tôi xin hỏi, liệu có nên dạy cho trẻ lên mười biết rằng có những người nịnh hót và nói dối để mưu lợi cho họ hay không? Nhiều lắm thì người ta có thể dạy cho chúng biết rằng có những kẻ nhạo báng, họ châm biếm các chú bé và ngầm chế giễu sự hợm mình ngu xuẩn của các chú; nhưng miếng phô mai làm hỏng mọi sự; ta dạy chúng đừng để phô mai rơi khỏi mỏ mình ít hơn là dạy chúng làm phô mai rơi khỏi mỏ một người khác. Đây là ý kiến ngược đời thứ hai của tôi, và không phải là ý kém quan trọng nhất.

Xin hãy theo dõi trẻ em trong việc học các bài ngụ ngôn của chúng, và các vị sẽ thấy rằng, khi chúng có thể ứng dụng các bài đó, thì hầu như bao giờ chúng cũng ứng dụng ngược với dòng ý của tác giả, và thay vì giữ gìn trước tật xấu mà người ta muốn chữa khỏi hay phòng ngừa cho chúng, chúng lại thiên về ưa tật xấu nhờ đó người ta lợi dụng khuyết điểm của những người khác.

Trong bài ngụ ngôn trên đây, trẻ con chế nhạo quạ, nhưng tất cả đều thích cáo; trong bài ngụ ngôn tiếp theo, các vị tưởng đưa con ve ra làm gương cho chúng; nhưng không hề như vậy, chính con kiến sẽ được chúng chọn. Người ta không hề thích hạ mình: Trẻ sẽ luôn nhận vai trò tốt đẹp; đó là sự lựa chọn của lòng tự ái, đó là một sự lựa chọn rất tự nhiên. Song, thật là một bài học gớm guốc biết bao đối với tuổi thơ! Con quái vật khả ố nhất trong mọi quái vật có lẽ là một đứa trẻ bủn xỉn và tàn nhẫn, biết rõ những gì người ta yêu cầu nó và những gì nó từ chối. Con kiến còn làm hơn thế nữa, nó dạy đứa trẻ nhạo bang trong khi từ chối.

Ở mọi bài ngụ ngôn mà sư tử là một trong các nhân vật, bởi thông thường đó là nhân vật xuất sắc nhất, nên đứa trẻ thế nào cũng làm sư tử; và khi nó chủ trì một cuộc chia phần, thì, do đã hiểu biết rõ nhờ nhân vật mẫu của mình, nó cẩn thận chiếm lấy tất cả. Nhưng, khi con mòng nhỏ quật ngã sư tử, thì lại là chuyện khác; lúc đó đứa trẻ không là sư tử nữa, nó là mòng. Nó học giết, một ngày nào đó, bằng cách chích nọc những kẻ mà nó không dám đứng vững mà tấn công..

Trong bài ngụ ngôn về chó sói gầy và chó nhà béo, thay vì bài học tiết độ mà người ta định dạy nó, đứa trẻ lại tiếp nhận một bài học về sự phóng túng. Tôi sẽ không bao giờ quên là đã thấy một cô bé khóc rất nhiều, người ta làm em sầu não vì bài ngụ ngôn ấy trong khi vẫn luôn răn dạy em phải ngoan ngoãn dễ bảo. Người ta phải khó khăn mới biết được nguyên nhân khóc lóc của em; cuối cùng người ta biết được. Cô bé tội nghiệp buồn bực vì bị xích, em cảm thấy cố mình trụi lông; em khóc vì không được là chó sói.

Như vậy ngụ ý luân lý của bài ngụ ngôn thứ nhất được dẫn, đối với đứa trẻ, là một bài học về sự nịnh hót thấp hèn nhất; ngụ ý của bài thứ hai là một bài học về sự vô nhân đạo; ngụ ý của bài thứ ba là một bài học về sự bất công.; ngụ ý của bài thứ tư là một bài học về sự châm biếm; ngụ ý của bài thứ năm là một bài học về sự độc lập[74]. Bài học cuối cùng này, thật là thừa với học trò của tôi cũng không thích hợp hơn với học trò các vị. Khi các vị dạy chúng những điều giáo huấn mâu thuẫn nhau, các vị hy vọng công lao chăm sóc của mình được kết quả gì chứ? Nhưng có lẽ, trừ điều đó ra, toàn bộ thứ luân lý mà tôi dùng để phản bác các bài ngụ ngôn lại cung cấp chừng ấy lý do để duy trì chúng. Phải có một thứ luân lý bằng lời nói và một luân lý bằng hành động trong xã hội, và hai thứ luân lý này không hề giống nhau. Luân lý thứ nhất ở trong sách giáo lý cương yếu, người ta để nó ở yên đó; luân lý kia ở trong các bài ngụ ngôn của La Fontaine cho trẻ em, và trong các truyện kể của ông cho các bà mẹ. Cùng một tác giả đủ cho tất cả.

Chúng ta hãy thỏa hiệp, thưa ông de La Fontaine. Về phần tôi, thì tôi xin hứa là học sách của ông có lựa chọn, yêu mến ông, học hỏi trong các bài ngụ ngôn của ông; vì tôi mong mình không nhầm lẫn về mục tiêu của các bài ấy; nhưng còn học trò của tôi, thì xin ông cho phép tôi không để nó học một bài nào cho đến khi ông chứng mình được với tôi rằng học những điều mà nó không hiểu lấy một phần tư là tốt cho nó; rằng, trong những điều mà nó có thể hiểu được, nó sẽ không bao giờ bị lừa, và thay vì tự sửa mình trước tấm gương của kẻ bị lừa, nó sẽ không tự đào tạo theo gương kẻ lường gạt.

Trong khi cất bỏ mọi nghĩa vụ của trẻ em như vậy, tôi cất bỏ những phương tiện gây nên nỗi khôn khố lớn nhất của chúng, đó là sách vở. Đèn sách là tai ương của tuổi thơ, và gần như là công việc duy nhất người ta biết cho chúng làm. Ở tuổi mười hai Émile sẽ chỉ hơi hơi biết thế nào là một cuốn sách. Nhưng ít ra nó cũng phải biết đọc, người ta sẽ bảo như vậy. Tôi đồng ý như thế: Nó phải biết đọc khi việc đọc hữu ích cho nó; cho đến lúc ấy thì việc đọc sẽ chỉ làm nó buồn chán.

Nếu người ta không nên đòi hỏi ở trẻ em một điều gì do phục tùng, thì việc này dẫn tới chỗ chúng không thể học một điều gì mà không cảm thấy mối lợi thực tế và hiện tại, hoặc lợi về hứng thú, hoặc lợi về tính hữu ích; nếu không thì động cơ gì khiến chúng học điều ấy? Nghệ thuật nói với những người không có mặt và nghe họ, nghệ thuật truyền đạt cho họ từ xa không qua môi giới các cảm nghĩ của chúng ta, các ý muốn, các nguyện vọng của chúng ta, là một nghệ thuật mà tính hữu ích có thể cảm nhận được ở mà lứa tuổi. Vì điều dị thường nào mà nghệ thuật hết sức hữu ích và hết sức để chịu này lại trở thành một nỗi khổ đối với tuổi thơ? Vì người ta ép buộc tuổi thơ phải chuyên tâm vào nghệ thuật ấy dù nó không muốn, vì người ta sử dụng nghệ thuật ấy theo những cách mà nó không hiểu gì hết. Một đứa trẻ chẳng ham hoàn thiện phương tiện người ta dùng để làm khổ nó; nhưng các vị cứ làm cho phương tiện ấy phục vụ các thú vui của nó đi, lập tức nó chuyên tâm vào đó bất kể ý muốn của các vị.

Người ta coi việc tìm các phương pháp tốt nhất để dạy đọc là một vấn đề quan trọng; người ta phát minh ra các bàn giấy, các tấm thẻ; người ta biến căn phòng của một đứa trẻ thành một xưởng in. Locke muốn đứa trẻ tập đọc với những hình khối như quân xúc xắc. Chẳng phải là một sáng kiến hay đó sao? Thật tội nghiệp! Một phương sách chắc chắn hơn tất cả những thứ đó, phương sách mà người ta luôn luôn quên mất, là ham muốn học tập. Các vị hãy đem lại cho đứa trẻ ham muốn ấy, rồi hãy bỏ lại đó nào bàn giấy nào quân xúc xắc của các vị, phương pháp nào cũng sẽ tốt với đứa trẻ hết.

Lợi ích hiện tại, đó là động lực quan trọng, động lực duy nhất dẫn đi xa và chắc chắn. Thỉnh thoảng, Émile nhận được của cha em, mẹ em, của họ hàng, bè bạn, những giấy mời dự ăn tối, dạo chơi, đi thuyền, xem một lễ hội công cộng nào đó. Những giấy mời này ngắn gọn, rõ ràng, rành mạch, viết hay. Phải tìm được người nào đọc giúp nó các tờ giấy này; cái người ấy hoặc không phải bao giờ cũng có mặt đúng lúc, hoặc trả lại đứa trẻ thái độ kém ân cần nó đã có với họ hôm trước. Thế là cơ hội, là thời điểm trôi qua. Cuối cùng, người ta đọc giúp nó giấy mời, nhưng không còn kịp nữa. Nó giá như tự mình đọc lấy được! Người ta nhận được những giấy mời khác: Chúng rất ngắn! Đề tài rất thú vị! Người ta muốn thử dò đọc; lúc thì người ta được giúp đỡ, lúc lại bị từ chối. Người ta ráng sức, cuối cùng người ta dò đọc được một nửa tờ giấy mời: Chuyện là ngày mai đi ăn kem… không biết ở đâu và với ai… Người ta cố gắng biết mấy để đọc nốt phần còn lại! Tôi chẳng nghĩ là Émile cần bàn giấy. Giờ đây tôi sẽ nói về việc tập viết chăng? Không, tôi sẽ hổ thẹn nếu đùa với những trò ngớ ngần này trong một khảo luận về giáo dục.

Tôi chỉ nói thêm một lời để làm một châm ngôn quan trọng: Đó là, thường thường, ta đạt được rất chắc chắn và rất nhanh điều ta không vội vã đạt. Tôi gần như chắc chắn rằng Émile sẽ biết học biết viết một cách hoàn hảo trước mười tuổi, chính vì việc nó biết học biết viết trước tuổi mười lăm rất ít quan trọng đối với tôi; nhưng tôi thích thà nó không bao giờ biết đọc còn hơn là phải mua lấy kỹ năng đó với giá của tất cả những gì có thể khiến kỹ năng ấy thành hữu ích: Việc biết học sẽ giúp gì cho nó khi người ta đã làm nó mãi mãi chán ghét sự học? Id in primis cavere oportebit, ne studia, qui amare nondum potest, odent, et amantudinem semel perceptam etiam ultra rudes annos reformidet.[75]

Càng nhấn mạnh phương pháp không làm gì hết của mình, tôi càng cảm thấy những sự phản bác thêm mạnh mẽ. Nếu học trò của ông chẳng học gì ở ông cả, thì nó sẽ học ở những người khác. Nếu ông không phòng ngừa sai lầm bằng chân lý, nó sẽ học những điều dối trá; các thành kiến mà ông sợ đem lại cho nó, thì nó sẽ tiếp nhận ở tất cả những gì xung quanh nó, những thành kiến ấy sẽ thâm nhập qua mọi giác quan của nó; hoặc chúng sẽ làm hư hỏng lý trí của nó, trước cả khi lý trí hình thành, hoặc trí óc nó, bị tê liệt vì trạng thái không hoạt động kéo dài, sẽ tự hấp thu vào vật chất. Trạng thái không quen suy nghĩ trong thời thơ ấu làm mất khả năng suy nghĩ suốt phần đời còn lại. Tôi thấy hình như mình có thể dễ dàng trả lời những điều đó; nhưng sao lại cứ luôn luôn trả lời? Nếu bản thân phương pháp của tôi trả lời cho điều phản bác, thì phương pháp đó là tốt; nếu nó không trả lời được, thì nó chẳng có giá trị gì. Tôi tiếp tục.

Nếu như, theo kế hoạch mà tôi đã bắt đầu vạch ra, các vị theo những quy tắc ngược hẳn lại với các quy tắc đã được xác lập; nếu như, thay vì đưa trí óc của học trò mình ra xa; nếu như, thay vì để nó không ngừng vơ vẩn tại những nơi chốn khác, những khí hậu khác, những thế kỷ khác, ở tận cùng Trái đất, cho đến mãi bầu trời, các vị chuyên tâm giữ cho nó luôn luôn ở trong bản thân nó và chú ý tới những gì đụng chạm trực tiếp đến nó, thì khi ấy các vị sẽ thấy nó có khả năng tri giác, ghi nhớ, thậm chí suy luận; đó là trật tự của tự nhiên. Dần dà sinh thể có cảm giác càng trở nên hoạt động, nó càng có được một khả năng phân biệt tương xứng với sức lực của nó; và chỉ với sức lực dư thừa vượt quá sức lực nó cần để tự bảo tồn, mới phát triển ở nó năng lực tư biện để sử dụng sức lực thái quá này vào những việc khác. Vậy nếu các vị muốn vun trồng trí tuệ của học trò mình; xin hãy vun trồng các sức lực mà trí tuệ ấy phải chỉ huy. Hãy rèn luyện liên tục thân thể nó; hãy làm cho nó thành cường tráng và lành mạnh, để làm cho nó thành khôn ngoan và biết lẽ phải; nó hãy làm việc, nó hãy hành động, hãy chạy, hãy la hét, hãy luôn luôn hoạt động; nó hãy là người lớn nhờ sự cường tráng, rồi chẳng bao lâu nó sẽ là người lớn nhờ lý trí.

Quả thực là với phương pháp này các vị sẽ khiến nó thành u mê đần độn, nếu các vị luôn luôn chỉ huy nó, luôn luôn bảo nó: Đi đi, đến đây, ở lại đó, làm cái này, đừng làm cái kia. Nếu đầu của các vị luôn luôn dẫn dắt các cánh tay của nó, thì đầu của nó thành ra vô dụng với nó. Nhưng xin hãy nhớ các quy ước của chúng ta: Nếu các vị chỉ là một ông thầy lên mặt mô phạm, thì đừng đọc tôi cho mất công..

Thật là một sai lầm rất đáng thương nếu tưởng rằng việc tập luyện than thể có hại cho các hoạt động của trí óc; cứ như thể hai hoạt động ấy không phải hiệp đồng tiến hành, và hoạt động nọ không phải luôn luôn chỉ huy hoạt động kia.

Có hai loại người mà thân thể ở trạng thái luyện tập liên tục, và chắc chắn cả những người này cũng như những người kia đều ít nghĩ đến việc vun trồng tâm hồn, đó là những người thôn quê và những người hoang dã. Người thôn quê thì cục mịch, thô lỗ, vụng về; người hoang dã, nổi tiếng vì cảm quan nhạy bén, còn nổi tiếng vì trí óc linh lợi minh mẫn; nói chung không có gì nặng nề trì độn hơn một người thôn quê, cũng không có gì tinh vi hơn một người hoang dã. Sự khác biệt này từ đâu mà ra? Đó là vì người thôn quê, luôn làm những gì người ta sai bảo anh ta, hoặc những gì anh ta từng thấy cha mình làm, hoặc những gì bản thân anh ta đã làm từ thời niên thiếu, bao giờ cũng chỉ theo đường mòn lối cũ; và, trong cuộc sống gần như người máy, không ngừng làm những công việc giống nhau, thói quen và sự phục tùng thay thế cho lý trí ở anh ta.

Với người hoang dã lại khác: Không gắn bó với một nơi chốn nào, không hề có nhiệm vụ nào bị sai khiến, không phục tùng ai hết, không có luật lệ nào khác ngoài ý muốn của mình, anh ta buộc phải suy luận trước mỗi hành động trong đời; anh ta chẳng làm một động tác, chẳng đi một bước chân, mà không xem xét trước các hậu quả. Như vậy, thân thể anh ta càng luyện tập bao nhiêu, thì trí óc càng minh mẫn bấy nhiêu; sức lực và lý trí của anh ta tăng trưởng đồng thời và cái nọ khuếch trương nhờ cái kia.

Hỡi ông thầy uyên bác, ta hãy xem ai trong các học trò của chúng ta giống người hoang dã, và ai giống người thôn quê. Trong tất cả mọi điều đều phục tùng một uy quyền luôn luôn giáo huấn, học trò của các vị làm gì cũng chỉ vì tin lời; nó không dám ăn khi nó đói, cũng chẳng dám cười khi vui, chẳng dám khóc khi buồn, chẳng dám chìa bàn tay nọ thay cho bàn tay kia, chỉ dám động chân như người ta chỉ định; chẳng bao lâu nó sẽ chỉ dám thở theo những quytắc của các vị. Các vị muốn nó nghĩ gì chứ, khi các vị nghĩ tất cả hộ nó? Tin chắc ở sự lo xa tính trước của các vị, nó cần gì phải lo xa tính trước? Thấy các vị đảm trách việc bảo tôn nó, đảm trách sự an lạc của nó, nó cảm thấy được giải thoát khỏi mối chăm lo ấy; sự xét đoán của nó dựa trên sự xét đoán của các vị; tất cả những gì các vị không cấm nó, là nó làm mà không suy nghĩ, vì biết rõ rằng mình làm mà không nguy hiểm. Nó cần gì học cách đoán trước trời sẽ mưa? Nó biết rằng các vị nhìn lên trời hộ nó. Nó cần gì điều chỉnh cuộc dạo chơi? Nó chẳng sợ các vị để lỡ giờ ăn tối. Chừng nào các vị chưa cấm nó ăn, thì nó ăn; khi nào các vị cấm, thì nó không ăn nữa; nó không nghe ý kiến của dạ dày nó nữa, mà nghe ý kiến của các vị. Các vị tha hồ làm cho cơ thể nó mềm nhão đi trong trạng thái không hoạt động, các vị chẳng vì thế mà khiến trí năng nó thành uyển chuyển hơn. Ngược hẳn lại, các vị làm lý trí mất tín nhiệm hoàn toàn trong đầu óc nó, khi cho nó sử dụng chút lý trí ít ỏi có được vào những điều có vẻ như vô dụng nhất. Vì chẳng bao giờ thấy lý trí dùng được vào việc gì, cuối cùng nó cho rằng lý trí chẳng được việc gì hết. Điều tệ nhất có thể xảy đến với nó khi suy luận dở là bị trách mắng, và nó bị trách mắng thường xuyên quá thành thử nó chẳng mấy nghĩ đến chuyện này; một nguy cơ thông thường đến thế không làm nó sợ nữa.

Tuy nhiên các vị vẫn thấy nó có tài trí; và nó có tài trí để bẻo lẻo với phụ nữ, theo cái giọng mà tôi đã từng nói tới; nhưng nếu nó ở vào trường hợp phải liều thân, phải quyết một bề trong một dịp khó khăn nào đó, các vị sẽ thấy nó xuẩn ngốc và ngu đần hơn đứa con của người dân quê thô lỗ nhất. Còn học trò của tôi, hay nói đúng hơn là học trò của thiên nhiên, do sớm được rèn luyện tự lo cho bản thân hết mức có thể, nên nó không hề quen cầu viện không ngừng người khác, càng không quen phô trương với họ kiến thức rộng lớn của mình. Bù lại, nó xét đoán, nó thấy trước, nó suy luận, về tất cả những gì liên quan trực tiếp đến mình. Nó không nói huyên thuyên, nó hành động; nó chẳng biết tí gì về những điều thực hiện trong giới giao tế, nhưng nó rất biết thực hiện những gì thích hợp với nó. Vì nó không ngừng hoạt động, nên nó buộc phải quan sát rất nhiều sự vật, buộc phải biết rất nhiều tác động, nó sớm thu được một kinh nghiệm rộng lớn: Nó tiếp nhận các bài học của nó từ thiên nhiên chứ không phải từ các con người; nó càng học tập được tốt hơn bởi nó chẳng thấy ý định dạy dỗ nó ở đâu hết. Như vậy thân thể và trí óc nó tập luyện đồng thời. Luôn hành động theo ý mình nghĩ, chứ không theo ý nghĩ của một người khác, nó liên tục kết hợp hai hoạt động; càng làm cho mình thành mạnh mẽ và cường tráng, nó càng trở nên biết lẽ phải và giỏi phán đoán. Đó là phương sách để một ngày kia có được điều người ta tưởng là bất tương dung, điều mà hầu như tất cả các vị nhân đều hòa hợp được, sức mạnh của thân thể và sức mạnh của tâm hồn, lý trí của một hiện nhân và sự cường tráng của một lực sĩ.

Hỡi ông thầy trẻ, tôi đang khuyên ông một nghệ thuật khó khăn, đó là dạy dỗ mà không có những lời giáo huấn, và làm tất cả bằng cách không làm gì. Tôi thừa nhận rằng nghệ thuật này không hợp với tuổi ông; nó không thích hợp để làm tài năng của ông nổi bật lên trước hết, cũng không thích hợp để tôn giá trị của ông trước các ông bố: Nhưng đó là nghệ thuật duy nhất thích hợp để thành công.. Các vị sẽ không bao giờ tạo nên được các hiền nhân nếu trước tiên không tạo ra các thằng ranh tinh nghịch; đó là cách giáo dục của những người Sparte: Thay vì để trẻ em bám lấy sách vở, người ta bắt đầu bằng việc dạy cho chúng lấy trộm bữa ăn của chúng. Những người Sparte có vì thế mà thô lỗ khi trưởng thành hay không? Ai chẳng biết sức mạnh của họ và ý vị của những lời họ ứng đối? Luôn được tạo ra để chiến thắng, họ đè bẹp kẻ đích ở mà loại chiến tranh, và những người Athènes bẻo lẻo sợ lời lẽ của họ ngang với sợ những miếng đòn của họ.

Trong những nền giáo dục cẩn thận chu đáo nhất, ông thầy ra lệnh và tưởng mình điều khiển: Thực ra chính đứa trẻ điều khiển. Nó sử dụng điều các vị đòi hỏi ở nó để đạt được ở các vị điều nó thích, và bao giờ nó cũng biết làm các vị trả một giờ siêng năng của nó bằng tám ngày chiều chuộng. Cứ mỗi lúc lại phải điều đình với nó.

Các hiệp ước này, mà các vị đề xuất theo kiểu của các vị, còn nó thi hành theo kiểu của nó, bao giờ cũng xoay sang có lợi cho những ý ngông của nó, nhất là khi ta vụng về đặt ra làm điều kiện có lợi cho nó điều mà nó chắc chắn đạt được, dù nó có thực hiện hay không thực hiện điều kiện áp đặt để đổi lại. Thường thường, đứa trẻ đoán biết được tâm trí ông thầy hơn là ông thầy đoán biết được lòng đứa trẻ. Và điều này ắt phải như vậy: Vì toàn bộ sự minh mẫn mà lẽ ra đứa trẻ tự lo lấy thân sẽ sử dụng để bảo tồn con người mình, thì nó sử dụng để cứu sự tự do thiên phú của nó khỏi những xiềng xích của nhà chuyên chế, trong khi người này, chẳng có một lợi ích nào cấp bách đến như thế để phải thấu suốt kẻ lừa, đôi khi được lợi hơn nếu cứ để cho hắn lười nhác hoặc tự phụ.

Xin các vị hãy đi một con đường ngược lại với con đường của học trò mình; sao cho nó tưởng nó luôn làm chủ, song thực ra chính các vị luôn làm chủ. Không có sự chế ngự nào hoàn hảo bằng sự chế ngự vẫn duy trì vẻ ngoài tự do như thế người ta nắm giữ được ngay cả ý chí. Đứa trẻ tội nghiệp không biết gì hết, không làm được gì hết, không hiểu gì hết, nó chẳng phải phó mặc cho các vị đấy sao? Các vị chẳng tùy ý sử dụng đối với nó mọi thứ xung quanh nó hay sao? Các vị chẳng làm chủ trong việc huy động nó theo ý thích của các vị hay sao? Các việc làm của nó, các trò chơi của nó, các thú vui, các nỗi buồn khổ của nó, tất cả chúng ở trong tay các vị mà nó không biết hay sao? Hẳn nó chỉ phải làm những gì nó muốn mà thôi; nhưng nó ắt chỉ muốn những gì các vị muốn nó làm mà thôi; nó ắt không nhấc một bước chân mà các vị chẳng từng đoán trước, nó ắt không mở miệng mà các vị chẳng biết nó sắp nói gì. Chính khi ấy nó sẽ có thể chuyên vào việc tập luyện thân thể theo nhu cầu của lứa tuổi nó mà không khiến trí óc đần độn đi, chính khi ấy, thay vì mài sắc mưu mẹo để né tránh một quyền lực khó chịu, các vị sẽ thấy nó chỉ bận tâm duy nhất vào việc khai thác từ tất cả những gì xung quanh điều có lợi nhất cho sự an lạc hiện thời của nó; chính khi ấy các vị sẽ ngạc nhiên vì tính tinh vi trong những sáng kiến của nó để chiếm hữu mọi vật nó có thể với tới, và để thực sự hưởng thụ mọi điều mà chẳng cần nhờ đến dư luận.

Do đó nó làm chủ ý muốn của nó như vậy, các vị sẽ không hề khiêu khích những sự trái tính trái nết của nó. Do bao giờ cũng chỉ làm điều thích hợp với mình, chẳng bao lâu nó sẽ chỉ làm điều nó nên làm; và, dù thân thể nó liên tục hoạt động, song chừng nào có vấn đề liên quan đến lợi ích hiện tại và rõ rệt của nó, các vị sẽ thấy toàn bộ lý trí mà nó có thể có được, phát triển tốt hơn rất nhiều và phát triển theo cách thích hợp với nó hơn rất nhiều, so với sự phát triển nhờ việc học hành thuần túy tư biện.

Như vậy, thấy các vị không hề chuyên tâm làm trái ý nó, không hề nghi ngờ các vị, chẳng có gì cần giấu các vị, nó sẽ không hề lừa các vị, nó sẽ không hề nói dối các vị; nó sẽ tự phô bày như nó vốn thế chẳng sợ sệt; các vị có thể tha hồ quan sát nó, và bố trí khảo xung quanh nó những bài học các vị muốn dạy nó, mà nó không bao giờ nghĩ rằng nó nhận lĩnh một bài học nào hết. Nó cũng sẽ không hề rình rập phẩm hạnh của các vị với niềm ghen tị tò mò, và sẽ không hề thích thú ngầm khi bắt được các vị đang mắc lỗi. Điều bất tiện mà chúng ta phòng ngừa trước này rất to lớn. Một trong những điều trẻ chú ý, như tôi đã nói, là khám phá nhược điểm của những ai chỉ huy chúng. Khuynh hướng này dẫn đến sự độc ác, nhưng nó không xuất phát từ sự độc ác: Nó xuất phát từ nhu cầu né tránh một uy quyền làm rầy chúng. Mang quá nặng cái ách bị người ta áp đặt, chúng tìm cách lay chuyển để thoát ách; và các khuyết điểm tìm thấy ở thầy giáo cung cấp cho chúng những phương tiện tốt để làm việc đó. Tuy nhiên sẽ hình thành thói quen xem xét người khác qua những khuyết điểm của họ, và thích thú khi tìm ra ở họ khuyết điểm. Rõ rang đây lại là một nguồn thói hư tật xấu nữa được lấp kín trong lòng Émile; vì chẳng hề có một lợi ích nào để tìm ra khuyết điểm ở tôi, nên Émile sẽ không kiếm tìm chúng, và cũng ít định tìm kiếm khuyết điểm ở những người khác. Tất cả những sự thực hành này có vẻ khó, vì người ta không nghĩ ra chúng; nhưng kỳ thục chúng phải không hề khó. Người ta có quyền giả định ở các vị những sự sáng suốt cần thiết để thực thi nghề nghiệp đã chọn; người ta phải phỏng đoán rằng các vị hiểu sự vận hành tự nhiên của lòng người, rằng các vị biết nghiên cứu con người và cá thể, rằng các vị biết trước được ý chí của học trò mình sẽ khuất phục điều gì nhân dịp các vị cho diễu qua trước mặt nó tất cả những đối tượng thú vị đối với lứa tuổi nó. Mà, có được các công cụ, lại biết rõ cách sử dụng chúng, chẳng phải là làm chủ hoạt động hay sao? Các vị sẽ viện ra những sự trái tính trái nết của đứa trẻ để phản bác. Sự trái tính trái nết của trẻ em không bao giờ do tự nhiên, mà do một khuôn phép dở: Đó là vì chúng đã vâng theo hoặc đã ra lệnh; và tôi đã nói hàng trăm lần rằng điều này cũng như điều kia đều không nên. Vậy học trò các vị sẽ chỉ có những sự trái tính trái nết do các vị đem lại cho nó mà thôi: Các vị chịu hình phạt vì lỗi lầm của mình là đúng. Nhưng các vị sẽ bảo làm thế nào để sửa chữa điều ấy? Hãy còn có thể được, với một cách xử sự đúng hơn và với rất nhiều kiên nhẫn.

Tôi từng đảm trách trong vài tuần một đứa trẻ không những quen làm theo ý nó mà còn quen bắt tất cả mọi người làm theo ý nó, do đó mà mang đầy những tính ngông. Ngay ngày đầu tiên, để thử thách sự dễ dãi chiều lòng của tôi, nó muốn dậy vào nửa đêm. Giữa lúc tôi đang ngủ say nhất, nó nhảy khỏi giường, lấy tấm áo choàng trong nhà và gọi tôi. Tôi dậy, tôi thắp nến; nó không muốn gì hơn nữa; mười lăm phút sau nó buồn ngủ, và đi nằm trở lại, hài lòng về sự thử thách của nó. Hai ngày sau, nó lặp lại thử thách ấy và cũng thành công như vậy, còn về phía tôi không có một dấu hiệu sốt ruột nhỏ nào. Khi nó vừa ôm hôn tôi vừa đi nằm trở lại, tôi bảo nó rất từ tốn: Em ạ, được lắm, nhưng đừng làm thế nữa. Câu nói ấy kích thích trí tò mò của nó, và ngay hôm sau, muốn xem thử một chút tôi dám không nghe lời nó ra sao, nó không quên dậy đúng vào giờ ấy và gọi tôi. Tôi hỏi nó muốn gì. Nó bảo rằng nó không ngủ được. Kệ thôi, tôi lại nói và nằm yên. Nó yêu cầu tôi thắp nén. Để làm gì? Và tôi nằm yên. Giọng vắn tắt ấy bắt đầu khiến nó lúng túng. Nó lần mò đi tìm đá lửa và giả vờ đánh lửa, còn tôi không nhịn được cười khi nghe nó đánh phải các ngón tay. Cuối cùng, tin chắc mình không làm được, nó đem bật lửa đến bên giường tôi; tôi bảo nó rằng tôi chẳng cần gì bật lửa, rồi quay người sang phía khác. Thế là nó bắt đầu chạy lung tung khán phòng, reo, hát, làm ồn rất nhiều, vấp vào bàn vào ghế những va đập mà nó hết sức cẩn thận giảm nhẹ đi, song ván kêu la thật to, hy vọng làm tôi lo lắng. Tất cả những điều ấy chẳng ăn thua gì, và tôi thấy rằng, vì trông đợi những lời khuyến cáo hay ho hoặc sự giận dữ, nó đã chẳng hề chuẩn bị cho thái độ bình tĩnh này. Tuy nhiên, quyết thắng lòng kiên nhẫn của tôi bằng sự khăng khăng ngoan cố nó tiếp tục làm ầm ỹ lên đến mức rốt cuộc tôi phát cáu; và, dự cảm rằng mình sắp làm hỏng tất cả vì một cơn giận không đúng lúc, tôi quyết định theo một cách khác. Tôi ngồi dậy không nói năng gì, tôi đi đến chỗ cái bật lửa song không tìm thấy; tôi hỏi nó, nó đưa cho tôi, mừng hớn hở vì cuối cùng đã thắng được tôi. Tôi bật lửa, thắp nến, cầm lấy tay chú bé, bình thản dẫn nó vào một căn phòng kề bên mà các cửa sổ đều đóng rất kín, và ở đấy chẳng có gì để làm gãy vỡ: Tôi để nó lại đó không đèn nến; rồi đóng cửa và khóa lại, tôi quay về ngủ tiếp không hề nói với nó một tiếng nào. Chẳng cần hỏi xem thoạt tiên có om xòm không, tôi đã chờ đợi điều ấy: Tôi chẳng hề xúc động. Cuối cùng tiếng ồn dịu đi; tôi lắng tai, tôi nghe thấy nó tự thu xếp, tôi yên lòng. Hôm sau, tôi vào phòng khi trời sáng; tôi thấy thằng bé bướng bình của tôi nằm trên một chiếc giường nghỉ, đang ngủ một giấc say sưa mà sau bao nhọc mệt như thế, ắt nó phải cần lắm.

Câu chuyện không kết thúc ở đây. Bà mẹ biết tin thằng bé đã không ở trong thương của nó suốt hai phần ba đêm. Lập tức mọi sự hỏng hết, đó là một thằng bé khác nào đã chết. Thấy có cơ hội tốt để trả thù, nó giả ốm mà không đoán trước được rằng làm thế nó sẽ chẳng được gì hết. Thầy thuốc được gọi đến. Không may cho bà mẹ, thầy thuốc là người ưa khôi hài, và để trêu đùa những nỗi hoảng sợ của bà, chú tâm làm chúng tăng thêm. Trong khi ấy ông nói thầm vào tai tôi: Ông cứ để tôi làm, tôi hứa với ông là thằng bé sẽ được chữa khỏi một thời gian cái ý ngông làm người ốm. Quả thực, thầy thuốc chỉ định phải ăn kiêng và không ra khỏi phòng, và thằng bé được gù gằm cho ông dược sĩ. Tôi thở dài thấy bà mẹ tội nghiệp bị hết thảy xung quanh lừa bịp trừ một mình tôi, mà bà oán ghét, chính vì tôi không lường gạt bà.

Sau những lời trách móc khá khắc nghiệt, bà bảo tôi rằng con trai bà yếu ớt, rằng nó là người thừa kế duy nhất của dòng họ, rằng phải bảo tồn nó với bất cứ giá nào, và bà không muốn nó bị trái ý. Vì điều này tôi rất đồng tình với bà; nhưng bà lại hiểu làm nó trái ý tức là không nhất nhất nghe lời nó. Tôi thấy phải dùng với bà mẹ cùng một giọng như với đứa con. Thưa bà, tôi bảo bà một cách khá lạnh lùng, tôi không hề biết người ta nuôi dạy một người thừa kế như thế nào, và ngoài ra, tôi không muốn học điều đó; bà có thể tự thu xếp lấy việc này. Người ta hãy còn cần tôi một thời gian nữa: Ông bố dẹp êm mọi chuyện; bà mẹ viết thư cho gia sư giục ông ta mau trở về; còn đứa trẻ, thấy phá rối giấc ngủ của tôi chẳng được cái gì mà ốm cũng chẳng được gì, rốt cuộc quyết định tự mình ngủ yên và khỏe mạnh.

Không thể tưởng tượng được tay bạo chúa tí hon đã bắt thầy giáo bất hạnh của nó phục tùng bao nhiêu sự trái tính trái nết tương tự; vì việc giáo dục diễn ra dưới mắt bà mẹ, bà ta chẳng chịu để người thừa kế không được vâng theo trong bất cứ điều gì. Bất kỳ giờ nào nó muốn ra ngoài, là phải sẵn sàng để dẫn nó đi, hay nói đúng hơn là để đi theo nó, và nó luôn hết sức chú ý chọn lúc thấy thầy giáo mình đang bận rộn nhất. Nó muốn sử dụng cũng uy lục đó với tôi, và trả thù vào ban ngày cho sự nghỉ ngơi mà nó buộc phải để yên cho tôi vào ban đêm. Tôi vui lòng đáp ứng hết thảy, và tôi bắt đầu bằng việc chứng minh rõ trước mắt nó niềm thích thú của tôi khi chiều lòng nó; sau đó, khi vấn đề là chữa cho nó khỏi ý ngông, tôi thực hiện theo cách khác.

Trước hết cần phải làm thế nào cho phần trái thuộc về nó, và điều này không khó. Biết rằng trẻ em bao giờ cũng chỉ nghĩ đến hiện tại, tôi sử dụng lợi thế dễ dàng của sự lo xa tính trước; tôi chú ý tạo cho nó một trò vui tại nhà mà tôi biết là cực kỳ hợp với sở thích của nó; và đang lúc thấy nó say mê nhất, tôi đến rủ nó đi dạo một vòng, nó gạt phăng tôi đi; tôi nài, nó không nghe; tôi phải đầu hàng, và nó ghi nhận trong lòng một cách quý báu dấu hiệu phục tùng này.

Hôm sau đến lượt tôi. Nó buồn chán, tôi đã chuẩn bị cho sự buồn chán ấy tôi thì trái lại, tôi có vẻ hết sức bận rộn. Chẳng cần nhiều đến vậy mới khiến nó quyết tâm. Nó không quên đến kéo tôi ra khỏi công việc để dẫn nó đi dạo ngay lập tức. Tôi từ chối; nó khăng khăng. Tôi bảo nó: Không đâu, khi em làm theo ý của em, em đã dạy thầy làm theo ý của thầy; thầy không muốn ra ngoài. Thế thì, nó hăng hái đáp, em sẽ đi một mình. Tùy em thôi. Và tôi lại tiếp tục công việc.

Nó mặc quần áo, hơi lo lắng vì thấy tôi cứ để nó làm và không bắt chước nó. Đã sẵn sàng để ra ngoài, nó đến chào tôi; tôi chào nó; nó cố làm tôi hoảng sợ bằng cách kể về những hành trình nó sắp thực hiện; cứ nghe nó, thì người ta ngỡ nó đi đến tận cùng thế giới. Chẳng xúc động, tôi chúc nó thượng lộ bình an. Nỗi bối rối của nó tăng thêm. Tuy thế nó tỏ thái độ vững vàng, và, sẵn sàng để ra ngoài, nó bảo người hầu đi theo nó. Người này, đã được báo trước, trả lời rằng anh ta không có thì giờ, và đang bận rộn vì các mệnh lệnh của tôi, anh ta phải vâng theo tôi hơn là vâng theo nó. Lần này, thằng bé không hiểu ra sao nữa. Làm thế nào quan niệm được người ta lại để nó ra ngoài một mình, nó, kẻ tự coi mình là con người quan trọng với tất cả những người khác, và nghĩ rằng bầu trời mặt đất đều quan tâm đến việc bảo tồn mình? Tuy nhiên nó bắt đầu cảm thấy sự yếu đuối của mình; nó hiểu rằng mình sẽ đơn độc giữa những người không quen biết mình; nó nhìn thấy trước các nguy hiểm sẽ gặp; chỉ riêng sự ngoan cố hãy còn nâng đỡ nó; nó chậm chạp xuống cầu thang và hết sức sững sờ. Cuối cùng nó ra phố, tự an ủi đôi chút về điều xấu có thể xảy ra với mình bằng niềm hy vọng mọi người sẽ khiến tôi phải chịu trách nhiệm về chuyện đó.

Chính ở chỗ đó tôi dự liệu sẵn cho nó. Tất cả đều được chuẩn bị trước; và bởi đây là một loại màn kịch công khai, nên tôi đã được sự đồng ý của ông bố. Vừa đi được vài bước, nó liền nghe bên phải bên trái những lời lẽ khác nhau về mình. Ông láng giềng này, cậu công tử xinh đẹp kìa! Cậu ta đi đâu một mình thế nhỉ? Cậu ta sẽ lạc mất; tôi muốn mời cậu ta vào nhà. Bà láng giềng ơi, chớ làm thế nhé. Bà không thấy đó là một thằng bé phóng đãng bị đuổi khỏi nhà cha mình vì chẳng muốn mình có một giá trị gì sao? Không nên cứu các kẻ phóng đãng; mặc hắn muốn đi đâu thì đi. Vậy thì này! Xin Chúa dẫn dắt cậu ta! Tôi sẽ phiền lòng nếu cậu ta gặp điều không hay. Xa hơn một chút, nó gặp những thằng ranh trạc lứa tuổi nó, chúng trêu ghẹo và chế nhạo nó. Càng tiến bước, nó càng gặp nhiều trắc trở. Đơn độc và không ai che chở, nó thấy mình là trò chơi cho tất cả một người, và hết sức ngạc nhiên cảm thấy dải băng thắt trên vai áo và đường trang trí kim tuyến chẳng khiến mình được tôn trọng hơn.

Trong khi đó một người bạn của tôi, mà nó không hề quen biết, và được tôi giao trông nom nó, đi theo nó từng bước mà nó không để ý, và tiến lại bên nó khi đến lúc. Vai trò này, giống vai trò của Sbrigani trong vở Pourceaugnac[76], đòi hỏi một người tài trí, và được thực hiện hoàn hảo. Không làm cho trẻ thành nhút nhát và sợ sệt bằng cách khiến nó quá hoảng sợ, ông làm nó cảm nhận thật rõ tính dại dột khinh xuất trong sự manh động của nó, thành thử sau nửa giờ, ông dẫn nó về với tôi, nhu mì, thẹn thùng, và không dám ngước mắt lên.

Để hoàn tất thất bại của cuộc viễn du, đúng lúc nó về, thì ông bố xuống nhà để ra phố, và gặp nó ở cầu thang. Phải nói xem nó từ đâu về và tại sao tôi không đi cùng nó[77]. Thằng bé tội nghiệp những muốn chui thật sâu xuống đất. Chẳng đùa bỡn bằng cách quở mắng dài dòng, ông bố nói với nó sẵng hơn là tôi chờ đợi: Nếu anh muốn ra ngoài một mình, anh cứ việc; nhưng, vì ta không hề muốn trong nhà của ta có một tên vô lại, nên khi chuyện đó xảy ra với anh, hãy chú ý đừng trở về nhà nữa.

Còn tôi, thì tôi đón nó không trách cứ không chế nhạo, nhưng hơi nghiêm trang; và sợ nó ngờ rằng tất cả những gì đã xảy ra chỉ là một trò chơi, nên tôi không hề muốn dẫn nó đi dạo trong cùng ngày hôm ấy. Hôm sau, tôi rất vui thích thấy nó đi cùng tôi với vẻ đắc thắng qua trước mặt cũng những người đã chế giễu nó hôm trước vì thấy nó đơn độc một mình. Ta hiểu rõ là nó không còn dọa tôi là đi ra ngoài mà không có tôi nữa.

Chính nhờ những phương kế đó và những phương kế khác tương tự mà trong thời gian ít ỏi sống cùng nó, tôi khiến được nó làm tất cả những gì tôi muốn mà không chỉ định cho nó một điều gì hết, không cấm đoán nó gì hết, không thuyết giáo, không khuyến cáo, không làm nó chán ngán bằng những bài học vô ích. Cho nên, chừng nào tôi nói, thì nó hài lòng; nhưng sự thinh lặng của tôi lại khiến nó sợ; nó hiểu là có cái gì đó không ổn, và bài học bao giờ cũng đến với nó từ chính sự vật. Nhưng chúng ta hãy quay trở lại.

Những sự luyện tập liên tục ấy, phó thác cho sự chỉ huy duy nhất của tự nhiên, chẳng những không làm đần độn trí óc trong khi làm cường tráng than thể; mà ngược lại còn tạo nên trong chúng ta loại lý trí duy nhất có thể có được ở tuổi ấu niên, và là loại lý trí cần thiết hơn cả cho bất kỳ lứa tuổi nào. Những sự luyện tập ấy dạy cho chúng ta biết rõ cách sử dụng sức lực của chúng ta, các quan hệ của thân thể chúng ta với các vật thể xung quanh, cách sử dụng các phương tiện tự nhiên ở vừa tầm chúng ta và phù hợp với các khí quan của chúng ta. Có sự ngu xuẩn nào tương tự sự ngu xuẩn của một đứa trẻ luôn được nuôi dạy trong phòng và dưới mắt bà mẹ, cái đứa trẻ, do không biết thế nào là sức nặng và sức đề kháng, muốn nhổ bật một cây to hay nhấc lên một khối đá? Lần đầu tiên ra khỏi Genève, tôi muốn chạy theo một con ngựa đang phi nhanh, tôi ném đá vào ngọn núi Salève cách xa tôi hai dặm; là trò chơi cho tất cả trẻ con trong làng, tôi là một thằng ngốc thực sự đối với chúng. Mười tám tuổi, người ta học ở môn triết thế nào là đòn bẩy: Chẳng một thằng bé thôn quê mười hai tuổi nào không biết sử dụng một chiếc đòn bẩy thạo hơn nhà cơ khí hàng đầu của Viện Đại học. Các bài học mà bọn học trò học lẫn nhau ở sân trường có ích cho chúng gấp trăm lần những gì người ta nói với chúng trong lớp.

Các vị hãy xem một con mèo lần đầu tiên vào một gian phòng; nó thăm thú, nó nhìn, nó đánh hơi, nó không nghỉ ngơi một lúc nào, nó không tin cậy vào cái gì hết trước khi xem xét tất cả, biết tất cả. Một đứa trẻ bắt đầu bước đi, và có thể nói là lần đầu tiên đi vào không gian của thế giới, cũng làm như vậy. Toàn bộ sự khác biệt là thị giác, chung cho đứa trẻ và con mèo, được đứa trẻ kết hợp, để quan sát, với các bàn tay mà thiên nhiên ban cho nó, còn mèo thì kết hợp với khứu giác tinh vi mà thiên nhiên phú cho nó. Khuynh hướng này, được vun trồng tốt hoặc đó là điều khiến cho trẻ em thành khéo léo hay vụng về nặng nề hay nhẹ nhõm, khinh xuất hay thận trọng.

Vậy những động thái tự nhiên đầu tiên của con người là đọ sức với tất cả những gì bao quanh mình, và thử nghiệm ở mỗi vật thể mà mình nhìn thấy mọi phẩm tính rõ rệt có thể quan hệ đến mình, môn học đầu tiên của con người là một thứ vật lý thực nghiệm liên quan đến việc bảo tồn chính mình, song con người xa rời môn học đầu tiên ấy do bị hướng sang những môn học tư biện trước khi nhận ra được vị trí của mình tại thế gian này. Trong khi các khí quan yếu ớt và dễ uốn của con người có thể khớp với các vật thể trên đó chúng phải hoạt động, trong khi các giác quan hãy còn thuần khiết của con người không bị mắc ảo giác, thì đó là thời gian để tập luyện cả khí quan và giác quan trong các chức năng thích hợp với chúng; đó là thời gian học tập để biết các quan hệ rõ rệt của sự vật đối với chúng ta. Bởi tất cả những gì thâm nhập trí năng đều đến đó qua các giác quan, nên lý tính đầu tiên của con người là một lý tính thuộc về cảm giác; chính nó là cơ sở cho lý tính thuộc về trí năng: Những ông thầy triết lý đầu tiên của chúng ta là bàn chân chúng ta, bàn tay chúng ta, con mắt chúng ta. Đem sách vở thay thế cho tất cả những cái đó, không phải là dạy chúng ta lý luận, mà là dạy chúng ta sử dụng lý luận của người khác; đó là dạy chúng ta tin rất nhiều, và không bao giờ hiểu biết gì hết.

Để rèn luyện một kỹ năng, phải bắt đầu bằng việc kiếm cho mình công cụ, và, để có thể dùng các công cụ này một cách hữu ích, phải làm cho chúng đủ chắc chắn để chịu đựng được việc sử dụng. Vậy để tập suy nghĩ, phải rèn luyện tứ chi của chúng ta, giác quan của chúng ta, khí quan của chúng ta, chúng là công cụ của trí năng chúng ta; và để lợi dụng được các công cụ này hết mức có thể, thì thân thể, là thứ cung cấp các công cụ ấy, cần phải cường tráng và lành mạnh. Như vậy, lý trí thực sự của con người chẳng những không hình thành một cách không liên quan đến thân thể, mà chính cấu tạo tốt của thân thể khiến cho các hoạt động của trí óc được dễ dàng và vững chắc hơn.

Trong khi chỉ ra người ta nên sử dụng thời gian nhàn rỗi lâu dài của tuổi thơ vào việc gì, tôi đi vào một chi tiết có vẻ sẽ lố bịch. Người ta sẽ bảo tôi rằng, thật là những bài học tức cười, rơi vào sự phê phán của chính ông, những bài học chỉ giới hạn ở chỗ dạy những điều chẳng ai cần học cả! Tại sao lại tiêu phí thời gian vào những điều dạy dỗ bao giờ cũng tự chúng đến, chẳng mất công chẳng khó nhọc? Đứa trẻ mười hai tuổi nào mà chẳng biết tất cả những gì ông muốn dạy cho học trò ông, ngoài ra, còn thêm những gì các thầy giáo của nó đã dạy nó nữa?

Thưa các vị, các vị lầm rồi: Tôi dạy cho học trò của tôi một nghệ thuật rất lâu dài, rất cực nhọc, mà học trò các vị chắc chắn không có; đó là nghệ thuật không biết gì: Vì kiến thức của người nào chỉ cho là biết những gì mình biết thì chung quy rất ít ỏi. Các vị đem lại kiến thức, tốt lắm; còn tôi thì tôi lo phương tiện thích đáng để thu được kiến thức. Người ta bảo rằng một hôm, những người Venise hết sức long trọng phô báu vật Saint-marc của họ với một sứ thần Tây Ban Nha, ông này, sau khi nhìn xuống các gầm bàn, nói với họ: Qui non c’è la radice[78], coi như tất cả lời khen chỉ có vậy. Chẳng khi nào tôi thấy một gia sư phô trương kiến thức của đồ đệ mà lại không định nói với ông ta như thế.

Tất cả những ai từng suy ngẫm về cách sống của cổ nhân đều quy sự cường tráng về thân thể và tâm hồn phân biệt rõ nhất người xưa với người thời nay là do luyện tập thể dục thể thao. Cách Montaigne nhấn mạnh cảm nghĩ trên cho thấy ông thấm nhuần sâu sắc điều đó; ông không ngừng nói đi nói lại ý này theo hàng ngàn kiểu. Nói về sự giáo dục một đứa trẻ, ông bảo rằng để khiến tâm hồn nó cứng cỏi, cần phải làm cho cơ bắp nó rắn chắc; bằng cách tập cho nó quen với lao động, ta tập cho nó quen với đau đớn; cần phải luyện cho nó quen với sự gay go trong tập tành, để rèn cho nó quen với sự gay go của sai khớp, đau bụng và của mọi tai ương. Locke[79] hiền minh, Rollin[80] nhân hậu, Fleury[81] uyên bác, Crouzas[82] thông thái rởm, hết sức khác biệt nhau về mọi điều còn lại, song tất cả đều nhất trí ở riêng một điểm là rèn luyện thân thể cho trẻ em thật nhiều. Đó là châm ngôn đúng đắn nhất trong những châm ngôn của các ông; đó là châm ngôn đang và sẽ luôn là châm ngôn bị sao nhãng nhất. Tôi đã nói đầy đủ về tầm quan trọng của châm ngôn này, và bởi về điều ấy người ta không thể đưa ra những lý do hay hơn cũng không thể đưa ra những quy tắc hợp lẽ hơn những gì có trong sách của Locke, nên tôi đành dẫn khảo tác phẩm đó, sau khi đã tự tiện thêm vài nhận xét vào các nhận xét của ông.

Tứ chi của một thân thể đang lớn phải được hoàn toàn thung dung trong áo quần; không gì được làm trở ngại cử động cũng như sự nảy nở của tứ chi, không có gì quá vừa khít, không có gì đính sát vào thân hình; không thắt buộc gì hết. Y phục kiểu Pháp, vướng víu và độc hại với người lớn, đặc biệt nguy hiểm cho trẻ em. Các chất dịch, đình trệ, bị chặn lại trong lưu thông, ứ đọng trong một tình trạng ngưng nghỉ còn gia tăng vì một cuộc sống không hoạt động và ở yên một chỗ, sẽ thoái hóa đi và gây ra chứng hoại huyết, căn bệnh ngày một thông thường hơn trong chúng ta, song người xưa hầu như không biết đến, do được cách trang phục và cách sống phòng tránh cho. Y phục khinh kỵ binh, chẳng những không sửa chữa được điều bất lợi trên, còn gia tăng nó, và để cứu trẻ em khỏi vài chỗ thắt buộc, lại bó chặt toàn thân chúng.

Điều tốt nhất nên làm là cứ để trẻ mặc áo jaquette[83] lâu được đến đâu càng hay, sau đó cho chúng một trang phục thật rộng rãi, và đừng tự phụ muốn làm nổi rõ thân hình chúng, việc này chỉ khiến thân hình bị biến dạng mà thôi. Những khiếm khuyết của thân thể và trí óc hầu như tất thảy đều do cùng một nguyên nhân; người ta muốn làm cho trẻ em thành người lớn trước thời gian.

Có những màu sắc tươi vui và những màu sắc buồn bã: màu sắc tươi vui được trẻ em thích hơn; chúng cũng hợp với trẻ em hơn; và tôi không biết tại sao trong việc này người ta không tham khảo những sự thích hợp tự nhiên đến thế; nhưng từ lúc trẻ thích một thứ vải vì vải đó sang trọng, thì lòng chúng đã buông theo sự xa hoa rồi, theo mọi ý ngông của dư luận rồi; và thị hiếu đó chắc chắn không xuất phát từ bản thân chúng. Người ta không thể nói được việc lựa chọn áo quần và các lý do của sự chọn lựa này ảnh hưởng như thế nào đến giáo dục. Không chỉ những bà mẹ mù quáng hứa với con phần thưởng bằng đồ trang sức, ta còn thấy ngay cả những ông thầy điên dại dọa học trò về một y phục đơn giản hơn và thô lậu hơn, như về một hình phạt. Nếu em không học hành tốt hơn, nếu em không giữ gìn áo quần, mọi người sẽ cho em mặc như chú bé nhà quê kia. Cũng như thể các thầy bảo trò: Hãy biết rằng con người là gì chỉ nhờ áo quần, rằng giá trị của em tất cả là ở quần áo em mặc. Có nên lấy làm lạ rằng những bài học khôn ngoan đến như thế có lợi cho thanh niên, rằng thanh niên chỉ coi trọng đồ trang sức, và xét đoán giá trị chỉ duy nhất theo mẽ ngoài mà thôi?

Nếu tôi phải chấn chỉnh đầu óc một đứa trẻ được nuông chiều như vậy, tôi sẽ lo sao cho những bộ y phục sang trọng nhất của nó là những y phục bất tiện nhất, sao cho mặc vào nó luôn bị vướng víu, gò ép, luôn bị lệ thuộc hàng ngàn kiểu, tôi sẽ làm cho trạng thái tự do thoải mái, niềm vui tươi biến mất trước vẻ hoa mỹ của nó; nếu nó muốn tham gia các trò chơi của những trẻ khác ăn vận giản dị hơn nó, thì ngay lập tức tất cả sẽ chấm dứt, tất cả đều tan biến. Rốt cuộc tôi sẽ làm nó buồn phiền, tôi sẽ làm nó chán ngấy sự xa hoa của nó, tôi sẽ khiến nó thành nô lệ cho y phục vàng son của nó đến mức đó sẽ là tai ách của đời nó, và nhìn thấy ngục kín đen tối nhất nó cũng sẽ không hoảng sợ bằng nhìn thấy soạn sửa đồ trang sức cho nó. Chừng nào người ta chưa khiến đứa trẻ phục tùng các thành kiến của chúng ta, thì mong muốn đầu tiên của nó luôn là được thoải mái và tự do; bộ quần áo giản dị nhất, thuận tiện nhất, bộ quần áo ít bắt nó lệ thuộc nhất, bao giờ cũng là quý giá nhất đối với nó. Có một thói quen của thân thể hợp với tập luyện, và một thói quen khác hợp hơn với tình trạng không hoạt động. Thói quen này, trong khi để các chất dịch vận hành một cách bình ổn và không thay đổi, ắt phải phòng tránh cho thân thể những biến đổi của khí hậu; thói quen kia vì khiến thân thể không ngừng chuyển từ trạng thái lay động sang ngưng nghỉ và từ nóng sang lạnh, ắt phải làm cho cơ thể quen với những biến đổi ấy. Do đó mà những người chỉ lẩn quẩn trong nhà ít đi đâu phải mặc ấm trong mọi thời tiết, để giữ được than thể ở nhiệt độ không thay đổi, gần như giống nhau ở một mùa và một giờ trong ngày. Trái lại, những người đi đi lại lại, trước gió, nắng, mưa, những người chuyển động nhiều và phần lớn thời gian sub dio[84] thì bao giờ cũng phải mặc đồ mỏng nhẹ, để quen với mọi biến thiên của khí hậu và mọi nhiệt độ, mà không bị khó chịu. Tôi sẽ khuyên cả những người này lẫn những người kia chớ thay đổi y phục theo mùa, và đó sẽ là điều Émile của tôi trước sau như một vẫn làm; nói như vậy không có nghĩa là vào mùa hè Émile mặc quần áo mùa đông, như những người hay ở trong nhà, mà là vào mùa đông em mặc quần áo mùa hè, như những người lao động. Hiệp sĩ Newton từng có tập quán này suốt đời, và ông đã sống đến tám mươi tuổi.

Mùa nào cũng ít hoặc không đội mũ. Người Ai Cập xưa bao giờ cũng để đầu trần; Người Ba Tư đội lên đầu những chiếc mũ rất to, và còn trùm thêm những khăn quấn đầu rất to, mà, theo Chardin[85], khí hậu của đất nước họ khiến tập quán này thành cần thiết. Ở một chỗ khác tôi đã chú ý đến sự phân biệt của Hérodote[86] trên một bãi chiến trường giữa sọ của người Ba Tư và sọ của người Ai Cập. Vậy thì do xương đầu cần rắn hơn, đặc hơn, bớt mỏng mảnh và bớt xốp, để vũ trang cho não chẳng những chống lại các thương tích, mà còn chống lại các chứng cảm, chứng viêm, và mọi tác động của khí hậu, xin hãy tập cho con các vị luôn để đầu trần, mùa hè và mùa đông, ban ngày và ban đêm. Nếu như để sạch sẽ và giữ cho tóc trẻ khỏi rối, các vị muốn chúng đội mũ ban đêm, thì đó phải là một mũ trùm mỏng, thưa, giống như tấm lưới người xứ Basque thường trùm tóc. Tôi biết rõ rằng phần lớn các bà mẹ, xúc động vì nhận xét của Chardin hơn là vì các lý do của tôi, tưởng như đâu đâu cũng là khí hậu Ba Tư cả; nhưng tôi thì tôi không chọn học trò người Âu của mình để khiến nó thành người châu Á.

Thường thường, người ta mặc cho trẻ quá nhiều, nhất là ở tuổi ấu niên. Lẽ ra nên tập cho chúng quen với cái lạnh hơn là cái nóng: Sự lạnh buốt không bao giờ khiến chúng khó chịu, nếu ta để chúng sớm chịu lạnh; nhưng cấu tạo da của trẻ, hãy còn quá non mềm và quá lỏng lẻo, vì để mồ hôi chảy ra quá dễ dàng, nên sẽ khiến chúng kiệt sức không sao tránh khỏi trước cái nóng cực độ. Bởi vậy người ta nhận thấy trẻ em chết nhiều vào tháng tám hơn bất kỳ tháng nào khác. Vả lại qua sự so sánh các dân tộc miền Bắc với các dân tộc miền Nam, dường như người ta luôn trở nên cường tráng hơn khi chịu đựng cái lạnh thái quá hơn là cái nóng thái quá. Nhưng theo chừng đứa trẻ lớn lên và các đường gân thớ thịt của nó mạnh thêm, hãy dần dà tập cho nó quen coi thường ánh nắng; bằng cách tiến dần từng cấp độ, các vị sẽ khiến nó dạn dày với cái nóng nung người của miền nhiệt đới mà không nguy hiểm.

Locke, giữa các quy tắc hùng dũng và có lý mà ông đưa ra cho chúng ta, lại rơi vào những mâu thuẫn mà ta không chờ đợi ở một nhà lý luận chính xác như vậy. Cũng con người muốn cho trẻ em tắm trong nước giá buốt vào mùa hè, lại không muốn chúng uống đồ lạnh khi chúng đang nóng bức, cũng không nằm dưới đất ở những nơi ẩm ướt[87]. Nhưng bởi ông muốn giày của trẻ ngấm nước trong mọi thời tiết, thì những chiếc giày ấy có bớt ngấm nước chăng khi đứa trẻ nóng bức? Và về thân thể đứa trẻ, so với bàn chân, thì người ta có thể thực hiện hay không cũng những sự quy nạp mà ông đã thực hiện về bàn chân so với bàn tay, và về thân thể so với mặt? Tôi sẽ bảo ông rằng, nếu ông muốn con người toàn là mặt cả, thì tại sao ông lại chê trách tôi muốn con người toàn là bàn chân cả[88]?

Để ngăn trẻ em uống khi chúng đang nóng bức, ông khuyên tập cho chúng quen ăn một mẩu bánh trước khi uống. Thật lạ lùng là khi đứa trẻ khát, lại phải cho nó ăn; khác nào tôi thích cho nó uống khi nó đói. Không bao giờ người ta thuyết phục được tôi rằng những thèm muốn đầu tiên của chúng ta lại lộn xộn đến mức không thể thỏa mãn chúng mà không khiến ta lâm vào nguy cơ diệt vong. Nếu sự thể như vậy, thì loài người đã bị hủy diệt hàng trăm lần trước khi người ta học được điều cần làm để bảo tồn nó.

Hễ lần nào Émile thấy khát, là tôi muốn người ta cho nó uống; tôi muốn người ta cho nó nước trong và không sửa soạn gì hết, không cả đun âm ấm, dù Émile đang mồ hôi đầm đìa, và dù ta đang ở giữa mùa đông. Điều lo toan duy nhất tôi dặn là phân biệt phẩm chất của nước. Nếu là nước sông, các vị hãy cho nó uống ngay lập tức như vừa ở sông ra; nếu là nước suối nguồn, phải để ngoài trời một lát trước khi uống. Vào mùa nóng, các dòng sông đều nóng suối nguồn không như vậy, vì không tiếp xúc với khí trời; phải đợi cho nước suối có cùng nhiệt độ với không khí. Trái lại, vào mùa đông, nước suối về phương diện này lại ít nguy hiểm hơn nước sông. Nhưng vào mùa đông mà đổ mồ hôi thì không tự nhiên cũng không thưởng xảy ra, nhất là ở ngoài trời; vì

không khí lạnh, liên tục tác động lên da, khiến mồ hôi tiêu tán vào bên trong và ngăn các lỗ chân lông mở đủ để mồ hôi thoát ra tự do. Và tôi không chủ trương để Émile tập luyện vào mùa đông bên bếp lửa ấm, mà ở bên ngoài, giữa đồng quê, giữa băng giá. Chừng nào Émile mới chỉ làm nóng người lên bằng cách vo và ném những nắm tuyết, thì ta cứ để nó uống khi nó khát; nó cứ tiếp tục tập luyện sau khi uống, và ta không sợ sự cố nào hết. Nếu do một môn tập luyện nào khác mà nó đổ mồ hôi và khát, cứ để nó uống nước lạnh, ngay cả trong thời tiết đó. Có điều các vị hãy làm thế nào dẫn nó đi xa và bước chầm chậm để tìm nước uống. Vào thời tiết lạnh mà ta giả định, khi tới nơi thì người nó đã đủ mát để uống mà không nguy hiểm gì. Đặc biệt các vị hãy dụng tâm đề phòng như vậy song đừng để nó nhận thấy. Tôi thích thà đôi khi nó bị ốm còn hơn là nó không ngừng chú ý đến sức khỏe.

Trẻ em cần một giấc ngủ dài, vì chúng tập luyện đến cực độ. Cái nọ dung để điều hòa cái kia; cho nên ta thấy trẻ cần cả hai. Thời gian nghỉ ngơi là ban đêm, thời gian ấy được thiên nhiên đánh dấu. Một nhận xét bất biến là giấc ngủ bình lặng hơn và êm ả hơn khi vầng dương ở dưới chân trời, và không khí nóng lên vì những tia nắng chẳng giữ được giác quan chúng ta trong một trạng thái an tĩnh đến thế. Như vậy chắc chắn thói quen lành mạnh nhất là thức dậy và đi ngủ cùng với Mặt trời. Do đó mà ở các vùng khí hậu của chúng ta, con người và mọi động vật nói chung vào mùa đông cần ngủ lâu hơn vào mùa hè. Nhưng cuộc sống dân sự không đủ đơn giản, đủ tự nhiên, đủ miễn trừ các biến động, các sự cố, để ta nên làm cho con người quen với tình trạng bất biến ấy, đến mức tình trạng này trở thành tất yếu với anh ta. Chắc hẳn cần phải phục tùng các quy tắc; nhưng quy tắc đầu tiên là có thể vi phạm quy tắc mà không nguy hiểm khi sự tất yếu đòi hỏi. Vậy các vị chớ sơ ý làm học trò mình nhu nhược đi trong giấc ngủ êm đềm liên tục, không bao giờ bị gián đoạn. Trước hết hãy đừng ngại ngùng phó thác nó cho quy luật của thiên nhiên; nhưng chớ quên rằng ở giữa chúng ta[89] nó phải vượt lên trên quy luật ấy; rằng nó phải có thể đi ngủ muộn, dậy sớm, bị đánh thức đột ngột, đứng trong đêm, không vì thế mà khó chịu. Bằng cách thực hiện đủ sớm, bằng cách bao giờ cũng tiến từ từ qua từng cấp độ, ta luyện được cho khí chất quen với những điều sẽ hủy hoại nó nếu ta buộc nó phải chịu khi nó đã hình thành trọn vẹn rồi.

Cần tập quen trước hết với chỗ nằm không yên ấm; đó là cách để chẳng thấy đâu là giường tồi tàn nữa. Thường thường, cuộc sống khắc nghiệt, một khi đã thành thói quen, lại tăng gấp bội các cảm giác dễ chịu; cuộc sống nhu nhược thì chuẩn bị vô số cảm giác bất như ý. Những người được nuôi dưỡng quá nâng niu chỉ ngủ được trên nệm lông chim; những người đã tập quen ngủ trên các tấm ván thì ở đâu cũng ngủ được hết: Không hề có giường cứng với ai vừa nằm xuống đã thiếp đi.

Một chiếc giường êm, nơi ta vùi mình trong lông chim hay mền nhung mao, có thể nói là làm thân thể tan chảy ra và tiêu tán đi. Thận được ủ quá ấm phát nóng. Từ đó dẫn đến sỏi hoặc những bệnh tật khác, và chắc chắn dẫn đến một thể chất yếu ớt nuôi dưỡng mọi tật bệnh.

Chiếc giường tốt nhất là chiếc giường cho ta giấc ngủ ngon nhất. Đó là chiếc giường mà Émile và tôi chuẩn bị vào ban ngày. Chúng tôi chẳng cần mọi người đưa đến cho mình những người nô lệ Ba Tư để dọn giường; trong khi cầy xới đất là chúng tôi đang rũ đệm cho mình.

Qua kinh nghiệm tôi biết rằng khi một đứa trẻ khỏe mạnh, ta có thể làm cho nó ngủ và thức gần như tùy theo ý ta. Khi đứa trẻ đã đi nằm, và bẻo lẻo nói làm phiền chị vú, chị bảo nó: Em hãy ngủ đi; khác nào chị bảo nó: Em hãy khỏe đủ khi nó đang ốm. Phương kế đúng để làm nó ngủ là khiến tự nó chán ngán. Các vị hãy nói nhiều đến mức nó buộc phải im tiếng, thế là nó sẽ ngủ ngay: Các lời thuyết giáo luôn được một việc gì đó; thuyết giáo cho nó cũng như ru nó; nhưng nếu các vị sử dụng thứ thuốc gây mê đó vào buổi tối thì ban ngày hãy tránh dùng.

Đôi khi tôi sẽ đánh thức Émile, vì sợ em mắc thói quen ngủ quá lâu thì ít hơn là để tập cho em quen với mọi điều, ngay cả bị thức dậy đột ngột. Vả lại, có lẽ tôi sẽ quá kém tài để làm công việc của mình, nếu tôi không biết buộc học trò tự nó thức giấc, tỉnh dậy, theo ý tôi muốn, mà chẳng phải nói với nó một tiếng nào.

Nếu nó ngủ không đủ, tôi sẽ để nó ước đoán một buổi sáng chán ngán vào ngày mai, và tự nó sẽ coi tất cả những gì nó có thể dành cho giấc ngủ là chừng ấy thứ mà nó được; nếu nó ngủ quá nhiều, thì khi nó thức dậy tôi phô ra với nó một trò vui hợp sở thích của nó. Nếu tôi muốn nó dậy đúng lúc, tôi bảo nó: Ngày mai vào sáu giờ mọi người đi câu, đi dạo ở nơi này; em có muốn tham gia không? Nó đồng ý, nó yêu cầu tôi đánh thức nó: Tôi hứa, hoặc không hứa, tùy nhu cầu; nếu nó tỉnh dậy quá muộn, nó thấy tôi đi rồi. Sẽ là tai họa nếu chẳng bao lâu nó không học được cách tự mình thức dậy.

Vả lại, nếu có trường hợp, điều này hiếm khi xảy ra, đứa trẻ ơ hờ uể oải nào có khuynh hướng ì ra trong thói lười nhác, thì không nên phó thác nó cho khuynh hướng ấy, ở đó nó sẽ hoàn toàn tê độn đi, mà nên cho nó chất kích thích nào đấy làm nó thức tỉnh. Ta hiểu rõ rằng không có chuyện dùng sức mạnh bắt nó hoạt động, mà là lay chuyển nó bằng sự thèm muốn nào đó hướng nó đến hoạt động; và sự thèm muốn này, được khai thác một cách chọn lọc từ trật tự của thiên nhiên, đồng thời dẫn ta đến hai mục đích.

Tôi nghĩ không có cái gì mà với một chút khéo léo ta lại không khơi gợi được trong trẻ em niềm ham thích, thậm chí nhiệt cuồng, mà chẳng phải khoe khoang, chẳng phải ganh đua, chẳng phải ghen tị. Tính hăng hái của trẻ, đầu óc hay bắt chước của chúng, là đủ rồi; nhất là sự vui vẻ tự nhiên ở chúng, phương tiện nắm bắt rất chắc, mà chẳng gia sư nào nghĩ ra được. Trong mọi trò chơi mà chúng tin chắc rằng đó chỉ là trò chơi, chúng chịu đựng không phàn nàn, thậm chí còn cười vui, những điều chúng sẽ chẳng bao giờ chịu mà không khóc sướt mướt, nếu không phải trò chơi. Nhịn ăn kéo dài, bị đánh, bị bỏng, mệt nhọc đủ loại, là trò vui của những thiếu niên hoang dã; chứng tỏ rằng ngay sự đau đớn cũng có gia vị có thể làm mất đi chất đắng ở nó; nhưng không phải tất cả các ông thầy đều biết sửa soạn món điều vị ấy, và có lẽ không phải tất cả các đồ đệ đều biết thưởng thức mà không nhăn nhớ. Thế là, nếu không chú ý, tôi lại đang lạc vào các ngoại lệ đây.

Tuy nhiên điều không hề có ngoại lệ là tình trạng con người bị chi phối bởi đau đớn, bởi các bệnh tật của giống loài mình, bởi các tai biến, các hiểm nguy của cuộc đời, cuối cùng là cái chết; càng làm cho con người quen với những ý tưởng này, thì càng chữa được cho anh ta khỏi trạng thái mẫn cảm rầy rà nó đưa thêm vào cái đau sự nóng nảy không chịu đựng nổi cái đau ấy; càng tập cho con người dạn với những khổ não có thể xâm hại mình, thì nói như Montaigne, càng tước đi khỏi các khổ não ấy mối lo ngại[90] của tính dị thường; và cũng làm cho tâm hồn con người càng cứng rắn và bất khả tổn thương; thân thể anh ta sẽ là bộ áo giáp làm cùn nhụt mọi mũi tên lẽ ra có thể gây thương tích sâu xa. Ngay sự tiếp cận cái chết, do chẳng phải là cái chết, nên anh ta sẽ chỉ hơi cảm nhận cái chết như nó vốn thế; có thể nói là anh ta sẽ không chết đi, anh ta sẽ đang sống hoặc chết rồi, thế thôi. Vẫn ông Montaigne nọ có thể nói về anh ta, như ông đã nói về một quốc vương Maroc, rằng không có người nào từng sống dấn sâu vào cái chết đến như thế. Lòng kiên định và niềm cương quyết, cũng như các đức tính khác, là những điều học tập của tuổi thơ; nhưng không phải bằng cách dạy cho trẻ biết tên gọi của các đức tính này là ta dạy chúng những đức tính ấy, mà chính bằng cách cho chúng nếm trải các đức tính đó, song chúng không biết đấy là cái gì.

Nhưng, nhân nói đến cái chết, chúng ta sẽ xử sự ra sao với học trò của chúng ta, trước nguy cơ của bệnh đậu mùa? Ta có cho nó chủng đậu khi tuổi còn non hay không, hoặc đợi cho nó lên đậu một cách tự nhiên? Quyết định thứ nhất, phù hợp hơn với tập quán của chúng ta, đảm bảo cho lứa tuổi mà sự sống quý giá nhất khỏi mối hiểm nghèo, bằng cách để lứa tuổi mà sự sống kém quý giá nhất chịu nguy cơ, nếu ta có thể gọi việc chủng ngừa được thực hiện cẩn thận là nguy cơ.

Nhưng quyết định thứ hai hợp hơn với các nguyên lý khái quát của chúng ta, là để thiên nhiên làm toàn bộ mọi điều trong những lo toan mà thiên nhiên ưa một mình thực hiện, và bỏ mặc ngay khi con người vừa định xen vào. Con người của tự nhiên bao giờ cũng được chuẩn bị; cứ để bậc thầy ấy chủng đậu cho anh ta, thầy sẽ chọn thời điểm đúng hơn chúng ta.

Xin đừng từ đó mà kết luận rằng tôi chê trách việc chủng ngừa; vì lập luận tôi dựa vào để miễn chủng ngừa cho học trò của tôi sẽ rất không hợp với học trò các vị. Sự giáo dục của các vị không hề chuẩn bị cho các học trò ấy thoát khỏi đậu mùa khi bị bệnh tấn công.; nếu các vị để bệnh đến một cách ngẫu nhiên, có lẽ chúng sẽ chết vì bệnh. Tôi thấy rằng ở nhiều nước khác nhau, mọi người cưỡng lại việc tiêm chủng, việc này càng trở nên cần thiết hơn thì càng cưỡng lại nhiều hơn; và lý do của điều đó dễ thấy. Cho nên tôi sẽ chỉ bàn chút ít về vấn đề đó đối với Émile của tôi. Nó sẽ được chủng ngừa, hoặc sẽ không chủng ngừa, tùy theo các thời gian, các nơi chốn, các hoàn cảnh: Với nó điều này gần như không quan hệ. Nếu chủng đậu cho nó, ta sẽ có cái lợi là dự tính và biết trước bệnh của nó; thế cũng là được cái gì đấy; nhưng nếu nó mắc bệnh một cách tự nhiên, thì ta tránh được cho nó ông thầy thuốc, thế lại là được nhiều hơn.

Một sự giáo dục độc hữu, chỉ nhằm phân biệt những người được hưởng sự giáo dục này với dân thường, bao giờ cũng ưa thích những môn học tốn kém nhất hơn những môn học thông thường nhất, và chính vì thế mà hơn những môn học hữu ích nhất. Như vậy những thanh niên được giáo dục cẩn thận đều học cưỡi ngựa cả, vì việc này tốn kém rất nhiều; nhưng hầu như không ai trong số đó học bơi, vì bơi chàng tốn kém gì hết, và một thợ thủ công cũng có thể biết bơi giỏi như bất kỳ ai khác. Tuy nhiên, chưa qua trường kỵ mã, một khách du hành vẫn cưỡi lên lưng ngựa, ngồi trên đó, và sử dụng ngựa tạm được khi cần; nhưng, ở dưới nước, nếu không bơi thì ta chết đuối, mà không học thì không bơi được. Cuối cùng người ta chẳng buộc phải cưỡi ngựa nếu không thì mất mạng, trong khi chẳng ai chắc chắn tránh được một mối nguy hiểm mà mọi người rất hay gặp phải. Émile sẽ ở dưới nước như ở trên mặt đất. Sao nó không sống được trong mọi hoàn cảnh mọi nguyên tố chứ! Nếu người ta có thể học bay trên không, tôi sẽ làm cho nó thành chim ưng; tôi sẽ làm cho nó thành hỏa xà, nếu người ta có thể tập dạn dày với lửa.

Mọi người sợ đứa trẻ chết đuối khi đang học bơi; dù nó chết đuối khi đang học hay vì đã không học, bao giờ cũng là lỗi của các vị. Duy chỉ có tính khoe khoang khiến ta thành liều lĩnh; người ta không liều lĩnh khi chẳng ai nhìn thấy mình: Émile sẽ không liều lĩnh, dù cả thế giới nhìn thấy nó. Vì sự tập luyện không tùy thuộc mối nguy hiểm, nên nó sẽ tập bơi qua eo biển Hellespont[91] ở một dòng kênh trong khuôn viên của cha mình; nhưng cần phải tập dạn dần với chính sự nguy hiểm, để học cách không bối rối trước nguy hiểm; đó là một phần cốt yếu của việc rèn luyện mà tôi vừa nói trước đây. Vả lại, do chú ý ước lượng mối nguy hiểm tùy theo sức lực của học trò và luôn chia sẻ nguy hiểm cùng nó, nên tôi ít phải sợ điều dại dột khinh xuất, khi tôi điều chỉnh sự lo toan bảo tồn học trò theo sự lo toan tôi cần có để tự bảo tồn.

Một đứa trẻ không lớn bằng một người trưởng thành; nó không có được sức lực cũng như lý trí của người trưởng thành; nhưng nó nhìn và nghe cũng rõ như người ấy, hoặc rất gần như vậy; nó có vị giác cũng nhạy cảm như thế, tuy không tinh tế bằng, và cũng phân biệt rõ được các mùi, tuy không đặt vào đó cùng một khoái cảm. Các năng lực đầu tiên hình thành và tự hoàn thiện dần trong chúng ta là các giác quan. Vậy đó là những năng lực đầu tiên cần phải vun trồng; đó là những năng lực duy nhất bị người ta bỏ quên, hoặc những năng lực bị sao nhãng hơn cả.

Rèn luyện giác quan không chỉ là sử dụng giác quan, đó là học cách phán đoán đúng nhờ vào giác quan, có thể nói đó là học cảm nhận; vì chúng ta chỉ biết sờ, biết nhìn, biết nghe, như ta đã học mà thôi.

Có một sự tập luyện thuần túy tự nhiên và máy móc, nhằm khiến thân thể cường tráng mà không cung cấp cho phán đoán một điểm nào để nắm bắt: Bơi, chạy, nhảy, quất một con quay, ném đá; tất cả những cái đó rất hay; nhưng chúng ta chỉ có chân và tay thôi ư? Ta không có cả mắt cả tai nữa sao? Và những khí quan này vô dụng với các khí quan trên hay sao? Vậy xin đừng chỉ luyện tập sức lực, hãy tập luyện mọi giác quan điều khiển sức lực: Hãy lợi dụng mỗi giác quan hết mức có thể, sau đó kiếm tra cảm giác của giác quan nọ nhờ vào giác quan kia. Hãy ước lượng, tính đếm, cân nhắc, so sánh. Hãy chỉ dùng sức sau khi đã đánh giá lực đề kháng; hãy làm sao cho việc đánh giá hiệu quả đi trước việc sử dụng phương tiện. Hãy khiến đứa trẻ chú ý đừng bao giờ có những trang sức không đầy đủ hoặc thừa thãi. Nếu các vị tập cho nó quen dự tính trước như vậy hiệu quả của mọi động tác, quen uốn nắn những lầm lạc của mình nhờ kinh nghiệm, thì chẳng rõ ràng là càng hoạt động, nó càng trở nên giỏi phán đoán hay sao?

Vấn đề là lay chuyển một khối; nếu nó lấy một đòn bẩy quá dài, nó sẽ tiêu phí nhiều động tác; nếu lấy đòn bẩy quá ngắn, nó sẽ không có đủ lực; kinh nghiệm có thể dạy cho nó chọn đúng cây gậy nó cần. Vấn đề là vác một vật nặng; nếu nó muốn lấy vật đó nặng vừa sức mình vác được, và không hề nhấc thử, thì nó chẳng buộc phải đánh giá trọng lượng của vật qua mắt nhìn hay sao? Nó biết so sánh các khối cùng chất liệu song to nhỏ khác nhau, hãy để nó chọn giữa các khối to bằng nhau song chất liệu khác nhau; nó sẽ phải tập so sánh tỷ trọng của chúng. Tôi đã thấy một chàng trai, được giáo dục rất chu đáo, chỉ chịu tin sau khi làm thí nghiệm rằng một thùng đầy những mảnh vỏ bào to từ gỗ sồi không nặng bằng cũng thùng ấy đang đầy nước.

Chúng ta không làm chủ việc sử dụng tất cả các giác quan của mình như nhau. Có một giác quan, đó là xúc giác, mà hoạt động không bao giờ đình lại khi ta thức; xúc giác được trải ra trên toàn bộ diện tích thân thể ta, như một đội canh gác liên tục để báo cho ta biết tất cả những gì có thể làm tổn hại đến thân thể. Đó cũng là giác quan mà, dù thuận tình hay miễn cường, chúng ta vẫn có được kinh nghiệm sớm nhất nhờ sự tập luyện liên tục nọ, và do đó cũng là giác quan mà ta ít cần đến một sự vun trồng đặc biệt. Tuy nhiên, chúng ta nhận xét thấy những người mù có xúc giác chắc chắn và tinh vi hơn chúng ta, bởi vì, không được thị giác dẫn dắt, họ buộc phải duy nhất rút ra từ xúc giác những phán đoán mà thị giác cung cấp cho chúng ta. Vậy tại sao không tập luyện cho chúng ta bước đi trong bóng tối giống như họ, biết được các vật thể mà chúng ta có thể chạm tới, phán đoán về những đồ vật bao quanh ta, tóm lại, là làm vào ban đêm và không có đèn đuốc, tất cả những gì họ làm vào ban ngày và không có mắt? Chừng nào Mặt trời còn chiếu sáng, chúng ta có lợi thế hơn họ; trong bóng tối, đến lượt họ hướng dẫn chúng ta. Chúng ta mù một nửa thời gian của cuộc đời; với điều khác biệt là những người mù thật bao giờ cũng biết tự dẫn đường; còn chúng ta chẳng dám đi một bước giữa đêm tối. Mọi người sẽ bảo tôi rằng, chúng ta có đèn mà. Thế nào cơ! Bao giờ cũng là máy móc khí cụ! Ai đảm bảo với các vị là máy móc sẽ đi theo các vị khắp nơi khi cần đến? Về phần tôi, thì tôi thích Émile có con mắt ở đầu các ngón tay hơn là ở cửa hiệu bán đèn nến.

Nếu các vị bị nhốt trong một tòa nhà giữa đêm hôm, xin hãy vỗ tay; qua tiếng vang của nơi chốn, các vị sẽ nhận ra không gian rộng hay hẹp, mình đang ở giữa hay trong một xó. Cách một bức tường chừng nửa pied[92], không khí ít bao quát và nhiều phản hồi khiến mặt các vị có một cảm giác khác. Xin cứ đứng tại chỗ, và lần lượt xoay mình khắp các phía; nếu có một cánh cửa mở, một luồng gió nhẹ sẽ chỉ ra cho các vị. Nếu các vị đang ở trong một con thuyền, thì qua cách gió tạt vào mặt mình, các vị chẳng những sẽ nhận ra mình đang đi theo hướng nào, mà còn nhận ra được dòng sông cuốn mình đi chậm hay nhanh. Những nhận xét này, và hàng ngàn nhận xét khác tương tự, chỉ có thể thực hiện tốt trong đêm tối; ban ngày dù ta có chú ý đến chúng bao nhiêu chăng nữa, ta vẫn được thị giác giúp đỡ hay làm ta đãng trí, và ta sẽ nhãng mất chúng.

Ấy thế mà ở đây còn chưa dùng đến bàn tay đến cây gậy. Biết bao tri thức thị giác ta có thể đạt được nhờ xúc giác mà thậm chí chẳng sờ vào cái gì hết!

Thật nhiều trò chơi ban đêm. Lời khuyên này quan trọng hơn tôi tưởng. Bóng tối làm mọi người, và đôi khi cả các con vật, kinh hãi một cách tự nhiên[93]. Lý trí, kiến thức, tinh thần, lòng can đảm, chẳng giải thoát được nhiều người khỏi sự chi phối đó. Tôi đã thấy những nhà lý luận, những người vô tín ngưỡng, những triết gia, những quân nhân dũng cảm ban ngày, lại run rẩy ban đêm như đàn bà khi nghe tiếng lá cây rụng. Người ta quy niềm kinh hãi này cho những câu truyện kể của các bà vú nuôi; người ta lầm: Niềm kinh hãi ấy có một nguyên nhân tự nhiên. Nguyên nhân ấy là gì? Cũng cái nguyên nhân khiến người điếc thành nghi kỵ và dân chúng thành mê tín, đó là không biết những sự vật bao quanh ta và không biết những gì đang diễn ra quanh ta[94].

Đã quen nhận thấy từ xa các vật thể và quen dự tính trước các cảm tưởng về chúng, khi không còn nhìn thấy gì xung quanh mình nữa, làm sao tôi không giả định hàng ngàn thực thể, hàng ngàn động thái có thể làm hại mình, mà mình không sao phòng giữ được? Tha hồ cho tôi biết rằng mình được an toàn tại nơi mình đang ở, tôi chẳng bao giờ biết điều ấy rõ bằng nếu hiện giờ tôi nhìn thấy điều ấy: Vậy là tôi vẫn có lý do để sợ, lý do mà giữa ban ngày thì không có. Quả thực tôi biết rằng một vật thể lạ không thể tác động đến than thẽ tôi mà không tự báo trước bằng tiếng động nào đó; bởi thế, tai tôi không ngừng cảnh giác biết mấy? Hễ có một tiếng động nhỏ nào mà tôi không phânbiệt được nguyên nhân, thì mối quan tâm tự bảo tồn khiến trước hết tôi giả định tất cả những gì phải khiến tôi đề phòng nhất, và do đó là tất cả những gì thích hợp nhất để làm tôi kinh hãi.

Nếu tuyệt đối không nghe thấy gì, tôi cũng chẳng vì thế mà yên tâm; vì rốt cuộc không có tiếng động người ta vẫn có thể bắt chợt được tôi. Tôi cần phải giả định sự vật như chúng tồn tại trước đây, như chúng ắt vẫn tồn tại, cần phải nhìn thấy những gì mình không nhìn thấy. Như vậy, buộc phải cho trí tưởng tượng vận động, chẳng mấy chốc tôi không còn làm chủ được tưởng tượng, và những gì đã làm để tự trấn an chỉ càng khiến tôi lo sợ thêm. Nếu nghe thấy tiếng động, tôi nghe thấy kẻ trộm; nếu không nghe thấy gì, tôi nhìn thấy ma; sự cảnh giác do mối quan tâm tự bảo tồn chỉ đem lại cho tôi những lý do để sợ hãi. Tất cả những gì có nhiệm vụ trấn an tôi chỉ ở lý trí của tôi mà thôi, bản năng mạnh hơn lại nói với tôi một cách khác hẳn lý trí. Nghĩ rằng mình chẳng có gì mà sợ thì ích gì chứ, bởi lúc đó mình chẳng có gì mà làm cả?

Nguyên nhân của bệnh được tìm thấy sẽ chỉ ra phương thuốc. Trong mọi sự, thói quen tiêu diệt trí tưởng tượng; chỉ có những đối tượng mới mẻ là khiến trí tưởng tượng thức dậy. Trong những vật thể ta nhìn thấy hằng ngày, không phải trí tưởng tượng hoạt động nữa, đó là trí nhớ; và đó là lý do của định lý: An asuetis non fit passio[95], vì đam mê chỉ cháy lên nhờ ánh lửa của tưởng tượng. Vậy xin đừng nói lý lẽ với người mà các vị muốn chữa khỏi bệnh kinh sợ bóng tối; hãy thường xuyên dẫn người ấy vào chỗ tối, và hãy tin chắc rằng mọi lập luận triết lý chẳng sánh tày thói quen đó. Những người thợ lợp không hề chóng mặt trên mái nhà, và ta thấy ai đã quen ở trong bóng tối thì chẳng còn sợ hãi nữa.

Vậy đó là một lợi ích nữa của các trò chơi ban đêm, thêm vào lợi ích thứ nhất; nhưng để cho các trò chơi đó thành công, thì sự vui vẻ được căn dặn mấy cũng không thừa. Không gì buồn bã cho bằng bóng tối; xin đừng nhốt đứa trẻ của các vị trong một ngục kín. Sao cho nó cười vui khi bước vào bóng tối; sao cho nó lại cười vui trước khi ra khỏi đó; sao cho, khi đang còn ở đó, ý nghĩ về các trò vui mình vừa rời bỏ, và các trò vui mình sắp thấy lại, bảo vệ nó chống những tưởng tượng hoang đường kỳ quái có thể đến tìm nó tại nơi ấy.

Có một hạn giới của cuộc đời, vượt quá hạn giới ấy người ta thụt lùi khi tiến lên. Tôi cảm thấy mình đã vượt qua hạn giới này. Có thể nói là tôi bắt đầu lại một sự nghiệp khác. Sự trống trải khi đứng tuổi, mà tôi đã cảm nhận thấy, phác họa lại với tôi thời gian êm đềm của tuổi ấu niên. Trong khi già đi, tôi trở lại là trẻ thơ, và tôi sẵn lòng nhớ lại những gì mình đã làm khi lên mười hơn là khi ba mươi tuổi. Vậy xin bạn đọc hãy thứ lỗi cho tôi đôi khi rút ra những thí dụ từ bản thân mình; vì, để làm tốt cuốn sách này, tôi cần phải làm với niềm thích thú.

Dạo ấy tôi đang ở miền quê, trọ tại nhà một mục sư tên là ông Lambercier. Làm bạn với tôi là một người anh em họ giàu có hơn tôi, và được đối xử như một người thừa kế, trong khi đó, sống xa cha mình, tôi chỉ là một kẻ mồ cô i khốn khổ. Anh họ Bernard của tôi nhát gan một cách lạ lùng, nhất là vào ban đêm. Tôi chế nhạo sự khiếp sợ của anh ấy nhiều đến nỗi ông Lambercier, bực mình vì những điều tôi khoác lác, muốn thử thách lòng can đảm của tôi. Một chiều thu, trời rất tối, ông đưa cho tôi chìa khóa đền thờ và bảo tôi đi tìm cuốn Kinh Thánh để ở giảng đàn. Để kích thích lòng danh dự nơi tôi, ông nói thêm vài lời đặt tôi vào tình trạng không thể lùi bước.

Tôi ra đi không đèn đóm; nếu tôi có đèn, có lẽ còn tệ hơn nữa. Phải đi qua nghĩa trang; tôi băng qua một cách bạo dạn; vì, chừng nào cảm thấy mình ở ngoài trời, tôi không bao giờ khiếp sợ đêm tối cả.

Khi mở cửa, tôi nghe thấy trên vòm đền một tiếng vang nào đó mà tôi ngỡ như những tiếng nói, và tiếng ấy bắt đầu làm lung lay sự kiên quyết xứng với người La Mã nơi tôi. Cửa mở rồi, tôi muốn vào; nhưng vừa đi được vài bước, tôi dừng lại. Nhìn thấy bóng tối thâm u ngự trị chốn thênh thang này, một nỗi kinh hoàng xâm chiếm tôi khiến tôi dựng tóc gáy: Tôi lùi lại, tôi đi ra, tôi bỏ chạy toàn thân run rẩy. Tôi gặp trong sân một con chó nhỏ tên là Sultan, sự quấn quýt của nó khiến tôi an tâm. Hổ thẹn vì nỗi khiếp hãi của mình, tôi quay trở lại song cố dẫn theo con Sultan, nó chẳng muốn đi theo tôi. Tôi đột ngột vượt qua cửa, tôi đi vào nhà thờ. Vừa vào trong đó, nỗi khiếp hãi lại xâm chiếm tôi, nhưng mạnh đến nỗi tôi mất trí; và mặc dù giảng đàn ở bên phải, và tôi biết rõ như vậy, song vì quay người đi mà không biết, nên tôi cứ tìm rất lâu ở bên trái, tôi lúng túng trong các hàng ghế, tôi chẳng còn biết mình đang ở đâu nữa, và do không thể tìm thấy giảng đàn cũng như cửa ra vào, tôi rơi vào một trạng thái bàng hoàng thảng thốt không sao tả nổi. Cuối cùng, tôi nhìn thấy cửa, tôi ra được khỏi ngôi đền, và rời xa nó như lần đâu, quyết tâm bao giờ cũng chỉ vào đó một mình giữa ban ngày mà thôi.

Tôi về đến nhà. Sắp sửa bước vào, thì tôi nhận ra tiếng của ông Lambercier qua những tràng cười giòn giã. Tôi nghĩ trước rằng đó là cười mình, và thẹn thùng vì bị đưa ra cười giễu, tôi ngần ngại chưa mở cửa. Trong quãng thời gian ấy, tôi nghe thấy cô Lambercier lo lắng cho tôi, bảo người hầu gái lấy chiếc đèn lồng, và ông Lambercier sửa soạn đi tìm tôi, có người anh họ dũng cảm của tôi hộ tống, sau đó có lẽ mọi người không quên quy cho anh ta toàn bộ vinh dự của cuộc thám hiểm. Lập tức mọi khiếp hãi nơi tôi chấm dứt, và chỉ để lại trong tôi nỗi khiếp hãi bị bắt gặp trong cảnh chạy trốn: Tôi chạy, tôi phóng như bay đến ngôi đền; chẳng lạc lối, chẳng lần mò, tôi đến được giảng đàn; tôi leo lên, tôi lấy cuốn Kinh Thánh, tôi lao xuống chỉ ba bước nhảy là tôi ra khỏi đền thờ, quên cả khép cửa; tôi vào phòng, mệt đứt hơi, tôi ném cuốn Kinh Thánh lên bàn, hoảng hốt, nhưng hồi hộp vui mừng vì đã ngăn ngừa được sự cứu viện dành cho mình.

Mọi người sẽ hỏi xem liệu tôi có đưa câu chuyện này ra làm một khuôn mẫu để noi theo, và làm thí dụ cho sự vui vẻ mà tôi đòi hỏi trong các loại luyện tập ấy hay không. Không đâu; nhưng tôi đưa câu chuyện ra để chứng minh rằng không gì có khả năng trấn tĩnh người sợ bóng tối ban đêm hơn việc nghe thấy trong một gian phòng kế bên một nhóm người tụ họp bình thản cười nói. Tôi những muốn rằng, thay vì đùa một mình như vậy với học trò, thì các buổi tối ta tập hợp rất nhiều trẻ em vui tính; rằng thoạt tiên ta không cử chúng đi riêng rẽ, mà nhiều em đi cùng nhau, và ta sẽ không mạo hiếm để một em nào hoàn toàn đi một mình, nếu không biết trước một cách chắc chắn là em sẽ không quá khiếp hãi vì việc ấy.

Tôi nghĩ không gì thú vị và hữu ích bằng những trò chơi tương tự, chỉ cần ta dụng tâm khéo léo một chút trong việc sắp đặt. Tôi sẽ tạo ra tại một gian phòng lớn một kiểu mê lộ với những chiếc bàn, những ghế bành, ghế dựa, các bức bình phong. Trong những quãng quanh co rối rắm của mê lộ này, tôi sẽ sắp đặt, giữa tám hay mười chiếc hộp đánh lửa, một hộp khác gần tương tự, song đựng đầy kẹo; tôi sẽ chỉ ra bằng lời lẽ rõ ràng, nhưng ngắn gọn, địa điểm chính xác có hộp kẹo; tôi sẽ cung cấp thông tin vừa đủ để những ai chú ý nhịều hơn và khinh xuất ít hơn trẻ em[96] phân biệt được chiếc hộp ấy, rồi, sau khi cho các đối thủ tí hon rút thăm, tôi lần lượt cử chúng đi tất cả, cho đến khi tìm được chiếc hộp đúng: Tôi sẽ lưu tâm làm cho việc này khó khăn tương xứng với sự khéo léo của chúng.

Các vị hãy hình dung một chàng Hercule tí hon đi tới tay cầm chiếc hộp, rất tự hào vì cuộc thám hiểm của mình. Hộp được đặt lên bàn, mọi người long trọng mở nó ra. Từ chỗ này tôi nghe thấy những tiếng cười rộ, những tiếng hò la phản đối của đám trẻ vui tươi, khi mà, thay vì mứt kẹo mọi người đang chờ đợi chúng thấy, được xếp đặt thật thích đáng trên lớp rêu hay lớp bông, một con bọ hung, một con ốc sên, mẩu than, quả thông, củ cải, hoặc một vật phẩm nào đó tương tự. Những lần khác, trong một gian phòng mới được quét vôi, ta sẽ treo gần tường một đồ chơi nào đó, một đồ đạc nhỏ nào đó cần phải đi tìm mà không chạm vào tường. Cái cậu đem thứ đó về vừa quay lại, nếu làm sai điều kiện chút ít, thì chỏm mũ bị hoen tràng, mũi giày, đuôi vạt áo, ống tay áo sẽ làm lộ ra sự vụng về của cậu ta. Thế là đủ lắm rồi, có lẽ quá nhiều nữa, để làm mọi người hiểu tinh thần của những loại trò chơi này. Nếu phải nói hết tất cả với các vị, thì các vị đừng đọc tôi nữa.

Lợi thế nào mà một người được nuôi dạy như thế lại không có được vào ban đêm đối với những người khác? Những bàn chân đã quen vững vàng trong bóng tối, những bàn tay đã tập đặt lên mọi vật thể bao quanh một cách thoải mái, sẽ dẫn dắt anh chàng khó khăn gì trong bóng tối dày đặc nhất. Trí tưởng tượng của anh, đầy ắp những trò chơi ban đêm thời niên thiếu, sẽ khó hướng sang những đối tượng gây hãi hùng. Nếu anh ngỡ như nghe thấy những tiếng cười rộ, thì thay vì tiếng cười của ma trơi, đó sẽ là tiếng cười của các bạn xưa; nếu anh hình dung một đám người tụ họp, thì đó sẽ không phải là dạ hội ma thuật, mà là gian phòng của thầy giáo. Đêm tối, do chỉ làm anh nhớ lại những ý tưởng vui tươi, sẽ không bao giờ gớm ghê đối với anh; thay vì sợ nó, anh sẽ yêu thích nó. Nếu vấn đề là một cuộc viễn chinh, anh sẽ sẵn sàng bất kỳ lúc nào, một mình cũng như cùng đội ngũ. Anh sẽ vào nơi đóng quân của Saul[97], sẽ đi khắp trong đó không lạc lối, anh sẽ đến tận lều của nhà vua mà không làm ai thức giấc, anh sẽ từ đó quay về mà không ai nhìn thấy. Có cần phải cướp những con ngựa của Rhésus, các vị đừng sợ cứ nói với anh ta. Trong số những người được nuôi dạy theo cách khác, các vị sẽ khó lòng tìm được một Ulysse[98].

Tôi đã thấy những người muốn dùng các điều bất ngờ để tập cho trẻ không sợ hãi gì trong đêm tối. Phương pháp này rất dữ; nó tạo một hiệu quả ngược hẳn lại hiệu quả mà người ta tìm kiếm, và chỉ khiến cho trẻ càng sợ sệt thêm mà thôi. Cả lý trí cả thói quen đều không thể giúp người ta trấn tĩnh trước ý tưởng về một mối nguy hiểm hiện tại mà ta không biết được mức độ cũng như kiểu loại, và trước nỗi sợ những điều bất ngờ mà ta đã nhiều lần nếm trải. Tuy nhiên, làm thế nào tin chắc là luôn giữ được cho học trò mình không gặp phải những biến cố ngẫu nhiên tương tự? Theo tôi, dường như đây là lời khuyên tốt nhất có thể phòng ngừa cho nó chuyện này. Tôi sẽ bảo Émile rằng: Khi đó, em ở vào trường hợp tự vệ chính đáng; vì kẻ tấn công không để cho em xét đoán xem hắn định làm em đau hay làm em sợ, và, vì hắn đã chiếm lợi thế, nên em không thể cậy nhờ ngay cả việc chạy trốn. Vậy em hãy bạo dạn tóm lấy kẻ bắt chợt em ban đêm, người hay thú vật, không quan trọng; xiết chặt lấy nó, dùng hết sức lực mà nắm giữ nó; nếu nó vùng vẫy, em hãy đánh, hãy nện đừng đắn đo; và, dù nó có thể nói gì làm gì chăng nữa, bao giờ em cũng chỉ thôi đánh khi hiểu rõ chuyện là thế nào. Điều khám phá chắc hẳn sẽ cho em biết là chẳng có gì đáng sợ lắm, và cách đối xử như vậy với những kẻ thích đùa ắt khiến họ ngán làm lại trò này.

Mặc dù trong tất cả các giác quan của chúng ta, xúc giác là giác quan được ta sử dụng liên tục nhất, song các phán đoán của xúc giác, như tôi đã nói, vẫn không trọn vẹn và vẫn thô sơ hơn phán đoán của bất kỳ giác quan nào khác, bởi lẽ ta liên tục phối hợp việc sử dụng xúc giác với việc sử dụng thị giác, và do mắt đến được đối tượng sớm hơn bàn tay, nên óc hầu như luôn luôn phán đoán không cần bàn tay. Bù lại, các phán đoán của xúc giác lại là những phán đoán chắc chắn nhất, chính vì chúng thiển cận nhất; bởi vì, do chỉ trải ra xa rộng chừng nào bàn tay của chúng ta có thể với đến được, nên chúng chấn chỉnh sự khinh xuất của các giác quan khác, những giác quan này lao ra xa đến những đối tượng mà chúng chỉ hơi nhận thấy, trong khi tất cả những gì xúc giác nhận thấy, là nó nhận rõ. Hãy thêm rằng, do khi nào muốn, là ta kết hợp sức lực của cơ bắp với hoạt động của các dây thần kinh, nên chúng ta hợp nhất được, nhờ một cảm nhận đồng thời, phán đoán về nhiệt độ, tầm vóc, hình dạng, với phán đoán về tiếng lượng và khối lượng. Như vậy trong tất cả các giác quan, thì xúc giác, do là giác quan cho ta biết nhiều nhất về ấn tượng mà các vật thể bên ngoài có thể gây ra với thân thể chúng ta, cho nên là giác quan được sử dụng thường xuyên nhất và đem lại cho ta một cách trực tiếp nhất sự thông hiểu cần thiết cho việc tự bảo tồn.

Bởi xúc giác có rèn luyện thay thế được cho thị giác, thì tại sao nó không thay thế được cả thính giác đến một mức độ nào đó, vì âm thanh gây nên ở các vật thể kêu vang những rung chuyển cảm nhận được do xúc giác? Bằng cách đặt bàn tay lên thân một cây đàn violoncelle, ta có thể, không cần sự giúp đỡ của mắt và tai, mà chỉ qua cách ngân rung và run rẩy của gỗ, phân biệt được âm thanh do cây đàn phát ra trầm hay cao, được kéo từ dây cao nhất hay từ dây trầm nhất. Cứ rèn luyện giác quan về những sự khác biệt như thế, tôi tin rằng cùng với thời gian người ta có thể trở nên mẫn cảm đến mức nghe được cả một điệu nhạc bằng các ngón tay. Giả định như vậy rồi, thì rõ ràng ta có thể dễ dàng nói với người điếc bằng âm nhạc; vì các âm điệu và các nhịp, do cũng có thể kết hợp đúng quy tắc chẳng kém các cách phát âm và các tiếng nói, nên cũng có thể được coi như những yếu tố của lời lẽ.

Có những sự tập luyện khiến xúc giác cùn nhụt đi và trì độn hơn; ngược lại, các tập luyện khác mài sắc nó và khiến nó thành tinh vi tế nhị hơn. Những sự tập luyện thứ nhất phối hợp nhiều động tác và nhiều lực với tác động liên tục của các vật thể cứng, làm cho da thành thô ráp, chai sạn, ta mất đi cảm giác tự nhiên; những sự tập luyện thứ hai biến hóa chính cảm giác ấy nhờ một sự tiếp xúc nhẹ nhàng và thường xuyên, thành thử trí óc, chú ý đến những ấn tượng không ngừng lặp lại, đạt tới chỗ dễ dàng phán đoán mà biến đổi trong các ấn tượng đó. Sự khác biệt này rõ rệt trong việc sử dụng các nhạc cụ: Sự tiếp xúc cứng cỏi và gây đau của đàn violoncelle, contre-basse, ngay cả vĩ cầm, trong khi khiến các ngón tay uyển chuyển hơn, lại làm khô cứng các đầu ngón tay. Sự tiếp xúc trơn và nhẵn của đàn clavecin[99] khiến ngón tay cũng uyên chuyển và đồng thời nhạy cảm hơn. Vậy trong việc này đàn clavecin nên được ưa chuộng.

Cần để làn da dạn dày với tác động của không khí và có thể coi thường những biến đổi của không khí; vì chính da bảo vệ toàn bộ những thứ khác. Trừ điều này ra, tôi không muốn bàn tay, do sử dụng một cách quá câu nệ vào những công việc giống nhau, bị cứng lại, và da tay thành gần như xương xẩu, mất đi cảm giác tuyệt vời cho biết các vật thể mà tay ta lướt qua là cái gì, và, tùy theo loại tiếp xúc, đôi khi khiến chúng ta rùng mình trong bóng tối theo nhiều cách khác nhau.

Tại sao học trò của tôi lại buộc phải luôn luôn có dưới bàn chân một lớp da bò? Có hại gì nếu chính làn da của nó khi cần có thể dùng âm đế giày cho nó? Rõ ràng là ở bộ phận này, sự tinh tế của làn da chẳng bao giờ được việc gì hết, và nhiều khi còn có thể gây hại. Bị kẻ địch làm thức dậy lúc nửa đêm giữa mùa đông trong thành phố, những người Genève tìm thấy các khẩu súng của mình nhanh hơn là các đôi giày. Nếu chồng người nào trong số họ biết đi chân trần, thì ai mà biết được liệu Genève có bị chiếm hay không[100]?

Ta hãy luôn chuẩn bị cho con người chống lại các tai nạn bất ngờ. Émile cứ chạy chân trần các buổi sáng, vào tất cả các mùa, trong phòng, ở cầu thang, trong vườn; chẳng những không mắng nó, tôi còn làm theo nó; có điều, tôi sẽ cẩn thận gạt thủy tinh ra xa. Sau đây tôi sẽ nói ngay đến các công việc và các trò chơi chân tay.

Vả lại, Émile cứ tập tất cả các bước đi giúp cho sự phát triển của thân thể, tập giữ trong một dáng điệu một tư thế thoải mái và vững vàng; nó hãy biết nhảy xa, nhảy cao, trèo cây, vượt tường; nó hãy luôn giữ được thăng bằng; sao cho mọi động tác, mọi cử chỉ của nó đều được tổ chức theo các luật quân bình, từ rất lâu trước khi tĩnh lực học tham gia giải thích cho nó những luật này. Qua cách bàn chân đặt xuống đất và thân thể dựa lên bắp chân, nó phải cảm thấy mình dễ chịu hay khó chịu. Một cách ngồi chắc chắn bao giờ cũng duyên dáng, và các tư thế vững vàng nhất cũng là những tư thế thanh nhã nhất. Nếu tôi là vũ sư tôi sẽ không làm tất cả những trò hề của Marcel[101], hay ho đối với xử sớ nơi ông ta làm trò; mà, thay vì cho học trò tập nhảy nhót liên miên, tôi sẽ dẫn nó đến chân một núi đá; ở đó, tôi sẽ chỉ cho nó phải giữ tư thái nào, phải hướng thân mình và đầu ra sao, phải làm động tác gì, phải đặt khi thì bàn chân khi thì bàn tay theo cách nào, để nhẹ nhàng lần theo những lối dốc gập ghềnh khấp khểnh, và lao mình từ mỏm nhọn này sang mỏm nhọn khác khi lên cũng như khi xuống. Tôi sẽ khiến nó thành đối thủ của một con hoẵng hơn là của một vũ công rạp opéra.

Xúc giác tập trung các hoạt động của nó xung quanh con người chừng nào, thì thị giác mở rộng hoạt động ra bên ngoài con người chừng ấy; đó là điều khiến các hoạt động này gây lầm lẫn: qua một cái nhìn con người bao quát một nửa chân trời của mình. Trong vô số cảm giác đồng thời và vô số phán đoán do những cảm giác này khơi gợi, làm sao không lầm lẫm một điều nào? Như vậy thì trong tất cả các giác quan, thị giác dễ sai lầm nhất, chính vì nó là giác quan trải rộng nhất, và do đi trước mọi giác quan khác rất xa, các hoạt động của nó quá mau mắn và quá rộng lớn thành thử không thể được chấn chỉnh nhờ các giác quan này. Còn hơn thế nữa, chính các ảo giác của viễn cảnh lại cần thiết cho chúng ta để biết được khoảng rộng và để so sánh các bộ phận của nó. Không có những vẻ bề ngoài không thực, chúng ta sẽ chẳng nhìn thấy gì ở xa hết; không có những tăng giảm dần dần về tầm vóc và ánh sáng, chúng ta sẽ chẳng thể đánh giá một khoảng cách nào hết, hay nói đúng hơn, với chúng ta sẽ không hề có khoảng cách. Nếu trong hai cái cây bằng nhau, mà cái cây ở cách ta một trăm bước chân có vẻ cũng lớn và cũng rõ như cái cây ở cách mười bước, thì chúng ta sẽ đặt chúng ở bên cạnh nhau. Nếu chúng ta nhìn mọi kích thước của các vật thể theo số đo thực của chúng, thì ta sẽ chẳng thấy một không gian nào hết, và tất cả sẽ xuất hiện với ta trên con mắt của ta.

Thị giác, để phán đoán về tầm vóc của các vật thể và về khoảng cách của chúng, chỉ có cùng một đơn vị đo lường, đó là giác độ do các vật thể tạo ra trong mắt chúng ta; và vì giác độ này là một kết quả đơn của một nguyên nhân phức hợp, nên phán đoán do giác độ khơi gợi trong chúng ta vấn đề cho một nguyên nhân riêng không được xác định, hoặc phán đoán đó tất nhiên trở thành sai lầm. Vì, làm thế nào chỉ nhìn bằng mắt thường mà phân biệt được liệu giác độ từ đó tôi thấy một vật thể nhỏ hơn một vật thể khác là như vậy bởi quả thực vật thể thứ nhất ấy nhỏ hơn, hay bởi nó cách xa hơn?

Vậy ở đây cần theo một phương pháp trái ngược với phương pháp trước; thay vì đơn giản hóa cảm giác, thì tăng nó lên gấp đôi, bao giờ cũng kiểm tra nó bằng một cảm giác khác, bắt cơ quan thị giác phục tùng cơ quan xúc giác và có thể nói là kiềm chế tính chất hung hăng nóng nảy của giác quan thứ nhất bằng sự vận hành nặng nề chậm chạp và quy củ của giác quan thứ hai. Không phục tùng cách làm này, thì những kích thước đo lường qua đánh giá của chúng ta rất sai lầm. Chúng ta chẳng có một sự chính xác nào trong cái nhìn để phán đoán các chiều cao, chiều dài, các độ sâu, các khoảng cách; và điều chứng minh rằng lỗi do giác quan không nhiều bằng do cách sử dụng giác quan, đó là các kỹ sư, các nhân viên đo đạc, các kiến trúc sư, các thợ nề, thợ sơn nói chung thường có mắt nhìn tinh xác hơn chúng ta nhiều, và họ đánh giá các kích thước của không gian đúng đắn hơn; bởi lẽ nghề nghiệp đem lại cho họ về phương diện này kinh nghiệm mà chúng ta bỏ qua không thu nhận, họ tước đi tính mập mờ của giác độ nhờ các dáng vẻ bề ngoài kèm theo nó, và xác định đúng đắn hơn trước mắt họ mối quan hệ giữa hai nguyên nhân tạo nên giác độ này.

Tất cả những gì khiến thân thể vận động mà không ép buộc nó thì bao giờ cũng dễ dàng bảo được trẻ em làm. Có hàng ngàn phương kế khiến trẻ thích thú đo đạc, hiểu biết, đánh giá các khoảng cách. Kia là một cây anh đào rất cao, ta làm thế nào để hái quả nhỉ? Cái thang ở nhà kho có hợp cho việc này không? Kia là một con suối rất rộng, ta làm thế nào mà qua được nhỉ? Một trong những tấm ván ở sân có bắc sang được hai bờ không? Chúng ta muốn đứng từ cửa sổ để câu cá trong các đường hào của lâu đài; dây câu của chúng ta phải dài bao nhiêu sải? Thầy muốn làm một cái đu giữa hai cây này; một sợi thừng dài hai toise[102] có đủ không? Người ta bảo thầy rằng ở ngôi nhà kia, phòng của thầy trò ta sẽ rộng hai mươi lăm mét vuông; em nghĩ nó có hợp với chúng ta không? Nó có lớn hơn phòng này không? Chúng ta rất đói; kia là hai thôn làng; ta sẽ đến được làng nào sớm hơn để ăn tối? V..v…

Vấn đề là phải tập chạy cho một đứa trẻ uể oải và lười nhác, không tự mình hướng đến việc luyện tập này cũng như bất kỳ môn tập nào khác, mặc dù mọi người định cho nó theo binh nghiệp; tôi không biết làm sao mà nó lại tin chắc rằng một người ở địa vị nó không phải làm gì không phải biết gì, và dòng dõi quý phái của nó phải thay thế cho chân, cho tay, cũng như mọi loại giá trị khác. Khiến cho một nhà quý tộc như vậy thành một Achille có bàn chân lanh lẹ, thì tài khôn khéo của một Chiron[103] cũng khó mà làm được. Khó khăn càng lớn bởi tôi tuyệt đối không muốn quy định cho nó một điều gì hết; tôi đã gạt khỏi quyền của mình các lời động viên, hứa hẹn, dọa dẫm, sự ganh đua, ham muốn nổi bật; làm thế nào đem lại cho nó ham muốn chạy mà không bảo gì nó hết? Tự mình chạy có lẽ là một phương kế không chắc chắn thành công mà lại có những bất tiện. Vả chăng còn phải rút ra từ việc luyện tập này một vấn đề giáo dục đối với nó, nhằm tập cho các hoạt động của bộ máy và các hoạt động của phán đoán luôn hiệp đồng vận hành. Tôi đã làm như sau: Tôi, tức là người đang nói trong thí dụ này.

Các buổi chiều dạo chơi cùng nó, thỉnh thoảng tôi để trong túi hai chiếc bánh ngọt loại mà nó rất thích; mỗi người chúng tôi ăn một chiếc trong khi đi dạo[104], và chúng tôi trở về hết sức hài lòng. Một hôm nó nhận thấy tôi có ba chiếc bánh; nó có thể ăn đến sáu cái mà không khó ở; nó mau mắn ăn hết bánh của mình để xin tôi cái thứ ba. Không, tôi bảo nó: Chính thầy cũng có thể ăn rất ngon lành chiếc bánh này, hoặc ta chia nhau; nhưng thầy thích nhìn thấy hai chú bé kia thi chạy để giành lấy nó hơn. Tôi gọi các chú bé, tôi cho chúng xem chiếc bánh và đề xuất điều kiện. Chúng chẳng đòi hỏi gì hơn. Bánh được đặt trên một hòn đá to dùng làm đích; đường đua được đánh dấu: Chúng tôi ngồi xuống; khi tín hiệu ban ra, các chú bé xuất phát; kẻ thắng vớ lấy bánh, rồi ăn bánh trước mắt khán giả và kẻ bại chẳng hề thương xót.

Trò vui đáng giá hơn chiếc bánh; nhưng mới đầu chưa được hoan nghênh và không có kết quả gì. Tôi không chán nản cũng chẳng vội vàng: giáo dục trẻ em là một nghề ở đó cần biết mất thời gian để giành được thời gian. Chúng tôi tiếp tục các cuộc dạo chơi; chúng tôi thường cầm đi ba chiếc bánh, đôi khi bốn chiếc, và thỉnh thoảng có một chiếc bánh, thậm chí hai chiếc, cho những người chạy thi. Nếu giải thưởng chẳng lớn, thì những người tranh giải cũng chẳng nhiều tham vọng: Kẻ thắng được khen ngợi, đón mừng; mọi sự diễn ra một cách long trọng. Để có những chuyển biến và để tăng thêm hứng thú, tôi đánh dấu đường đua dài hơn, tôi nhận nhiều đối thủ. Các đối thủ này vừa bước vào đấu trường, là tất cả những người qua đường đều dừng chân để nhìn họ; tiếng hoan hô, tiếng hò la, tiếng vỗ tay khiến họ phấn khích; thỉnh thoảng tôi thấy cậu học trò của tôi giật mình, đứng dậy, reo lên khi một đối thủ sắp đuổi kịp hay sắp vượt đối thủ khác; đối với cậu ta đây là các môn thi tài trên đấu trường Hy Lạp thời cổ.

Tuy nhiên các đối thủ đôi khi gian trá; chúng kìm giữ lẫn nhau, hoặc làm ngã nhau, hoặc đứa nọ đẩy những hòn sỏi lên lối đi của đứa kia. Điều này cung cấp cho tôi một cớ để chia tách chúng, và cho chúng xuất phát từ những hạn giới khác nhau, tuy cùng cách xa đích như nhau: Ta sẽ thấy ngay lý do của sự lo trước ấy; vì tôi phải xừ lý vấn đề quan trọng này một cách hết sức tỉ mỉ. Buồn bực vì luôn thấy người ta ăn ngay trước mắt những chiếc bánh ngọt mà mình rất thèm, cuối cùng cậu công tử bèn nghĩ rằng chạy giỏi cũng có thể được việc gì đó, và thấy mình cũng có cặp giò, cậu ta bắt đầu bí mật thử tập. Tôi giữ gìn để không nhìn thấy gì hết; nhưng tôi hiểu rằng mưu kế của mình đã thành công.. Khi cậu ta cho rằng mình đã khá giỏi, và tôi biết ý nghĩ của cậu trước cả cậu, cậu vờ quấy rầy tôi để được chiếc bánh còn lại. Tôi từ chối, cậu ta khăng khăng, và cuối cùng bảo tôi với vẻ bực bội: Nào? Thầy để bánh lên hòn đá, thầy đánh dấu đường đua, rồi ta sẽ thấy. Được? Tôi cười bảo cậu ta, một công tử mà biết chạy sao? Cậu sẽ đạt được sự ngon miệng thèm ăn nhiều hơn, chứ chẳng đạt được gì để thỏa mãn cái thèm đó đâu. Tức tối vì lời chế nhạo của tôi, cậu ta gắng hết sức, và đoạt giải, càng dễ đoạt hơn vì tôi đã làm đường đua rất ngắn và đã cẩn thận gạt đi người chạy nhanh nhất. Ta hiểu rằng, đã đi được bước đầu tiên rồi, tôi dễ dàng giữ cho cậu ta tiếp tục như thế nào. Chẳng bao lâu cậu ta hứng thú tập luyện môn này đến mức, chẳng cần ưu ái, cậu cũng hầu như chắc chắn rằng những chú bé của tôi trong cuộc chạy, dù đường đua có dài đến mấy.

Thành công đạt được này tạo ra một thành công khác nữa mà trước đó tôi không nghĩ tới. Khi thằng bé hiếm khi đoạt giải, hầu như bao giờ nó cũng ăn một mình, giống như các đối thủ của nó; nhưng khi đã quen với chiến thắng, nó trở nên hào hiệp và thưởng chia sẻ bánh cùng những kẻ thua. Điều này cung cấp cho bản thân tôi một nhận xét luân lý, và qua đó tôi biết được nguyên lý thực sự của lòng hào hiệp là thế nào.

Trong khi tiếp tục cùng nó đánh dấu ở những địa điểm khác biệt các hạn giới tại đó mỗi người phải xuất phát cùng một lúc, không để nó nhận thấy, song tôi làm cho các khoảng cách không đều nhau, thành thử người này, phải chạy đoạn đường dài hơn người kia để đến cùng một đích, rõ ràng bị bất lợi, nhưng, dù tôi để cho học trò mình được chọn, nó không biết giành ưu thế. Chẳng bận tâm về khoảng cách, bao giờ nó cũng thích đoạn đường đẹp nhất; thành thử, dễ dàng biết trước sự chọn lựa của nó, tôi hầu như tùy ý định đoạt việc nó được hay mất chiếc bánh. Tuy nhiên, vì ý định của tôi là để nó nhận thấy sự khác biệt, nên tôi cố làm cho điều đó thành rõ rệt với nó; nhưng mặc dù ơ hờ uể oải khi yên ổn, nó lại hết sức hăng hái trong các trò chơi, và rất ít nghi ngờ tôi, thành thử tôi phải vô cùng vất vả để làm nó nhận thấy tôi ăn gian. Cuối cùng tôi đạt được điều ấy bất kế sự dại dột vô tâm của nó; nó trách tôi về việc này. Tôi bảo nó: Em phàn nàn chuyện gì cho trong tặng phẩm thầy muốn trao, thầy chẳng làm chủ các điều kiện của mình sao? Đi bắt em chạy nào? Thầy có hứa với em là làm các đường đua bằng nhau không? Em chẳng được chọn đấy, em cứ lấy đoạn đường ngắn nhất, chẳng ai ngăn cản em hết. Làm sao em lại không thấy rằng thầy ưu đãi em, và sự không đồng đều mà em cằn nhằn hoàn toàn có lợi cho em nếu em biết giành ưu thế. Điều đó thật rõ ràng; nó hiểu ra, và, để chọn, cần phải xem xét kỹ hơn. Mới đầu mọi người muốn đếm các bước, nhưng việc đó đếm các bước chân trẻ em vừa chậm vừa sai; hơn nữa, tôi nghĩ ra chuyện tăng thêm các cuộc đua trong cùng một ngày; và thế là, trò vui trở thành một thứ ham mê, mọi người học phải mất vào việc đó các đường đua số thời gian dành cho việc chạy hết những đoạn đường ấy. Tính hăng hái của tuổi thơ khó hợp được với những sự lề mề này; vậy là mọi người tập nhìn đúng hơn, tập đánh giá đúng hơn một khoảng cách nhờ vào thị giác. Thế là tôi ít phải mất công phát huy và nuôi dưỡng sở thích này. Rốt cuộc, vài tháng thí nghiệm và nhầm lẫn huấn luyện cho nó cách tính toán bằng mắt giỏi đến mức, khi tôi đặt trong tưởng tượng của nó một chiếc bánh trên một vật nào đó ở xa, cái nhìn thoáng qua của nó gần chính xác bằng cái thước dây của nhân viên đo đạc.

Bởi trong tất cả các giác quan, thị giác là giác quan mà người ta ít tách rời được nhất khỏi các phán đoán của trí óc, nên cần rất nhiều thời gian để học nhìn; phải từng đối chiếu trong thời gian dài thị giác với xúc giác để tập cho thị giác quen báo cáo với chúng ta một cách trung thực về các hình tượng và các khoảng cách; không có xúc giác, không có động thái tiệm tiến, thì những con mắt sắc sảo nhất trên đời cũng không thể cho chúng ta một ý niệm nào về diện tích. Toàn bộ thế giới ắt chỉ là một điểm đối với một con trai; với con trai này thế giới không có vẻ là cái gì hơn thế cho dù một tâm hồn người có bảo cho nó biết. Chỉ nhờ đi nhiều, sờ nắn nhiều, đếm nhiều, do đạc nhiều các khoảng cách, người ta mới học được cách đánh giá chúng; nhưng, nếu bao giờ người ta cũng đo, thì giác quan, do tin cậy vào công cụ, sẽ không đạt được tính chính xác nào hết. Cũng không nên để đứa trẻ chuyển đột ngột từ đo đạc sang đánh giá; trước hết cần để cho nó, bằng cách tiếp tục so sánh từng bộ phận những gì nó không thể so sánh ngay một lúc, thay thế những chỉ số chính xác bằng những chỉ số ước lượng, và thay vì bao giờ cũng đo bằng tay, nó tập quen chỉ đó bằng mắt. Tuy nhiên tôi muốn người ta kiểm tra nhanh thao tác đầu tiên của nó bằng các thước đo thực sự, nhằm giúp nó sửa chữa các sai lầm, và để, nếu còn sót lại bề ngoài sai lầm nào đó ở giác quan, thì nó học được cách chấn chỉnh bề ngoài sai lầm ấy nhờ một phán đoán đúng hơn. Ta có những thước đo tự nhiên gần giống nhau ở mọi nơi: Bước chân của một người, sải tay của người ấy, tầm vóc người ấy. Khi đứa trẻ ước lượng chiều cao của một tầng gác, thầy giáo có thể làm thước đo cho nó: Nếu nó ước lượng chiều cao một gác chuông, thì nó hãy đổ bằng các ngôi nhà; nếu nó muốn biết số dặm đường, thì hãy đếm số giờ đi bộ; và cần nhất là đừng làm một việc gì hộ nó, mà nó phải tự làm lấy hết.

Người ta không thể học phán đoán đúng về diện tích và tầm vóc các vật thể, mà không học hiểu biết cả hình dạng của chúng và thậm chí mô phỏng chúng; vì thực ra sự mô phỏng này chỉ nhất thiết liên quan đến luật viễn cận; và người ta không thể ước lượng diện tích dưa trên các vẻ bề ngoài của nó, mà không có một ý thức nào đó về các luật này. Trẻ em, rất hay mô phỏng, đứa nào cũng thử tập vẽ cả: Tôi muốn thằng bé của tôi vun trồng kỹ năng này, không phải vì chính kỹ năng, mà để tập cho mắt nhìn được chính xác và bàn tay được uyển chuyển; và, nói chung, việc nó biết môn tập này hay môn tập nọ rất ít quan trọng, miễn là nó đạt được sự minh mẫn của giác quan và thói quen tốt của thân thể mà người ta thu được nhờ tập luyện môn đó. Vậy tôi hết sức tránh không cho nó một thầy dậy vẽ, ông ta sẽ chỉ cho nó mô phỏng những sự mô phỏng, và chỉ cho nó vẽ dựa trên các bức vẽ mà thôi: Tôi muốn nó không có một thầy nào khác ngoài thiên nhiên, cũng không có hình mẫu nào khác ngoài các vật thể. Tôi muốn nó có trước mắt chính nguyên bản chứ không phải tờ giấy diễn tả nguyên bản, muốn nó phác hoạ một ngôi nhà dựa trên một ngôi nhà, một cái cây dựa trên một cái cây, một con người dựa trên một con người, nhằm về nó tập quen quan sát kỹ các vật thể và các dáng vẻ bên ngoài của vật thể, chứ không quen coi những mô phỏng giả tạo và ước lệ là những mô phỏng thực sự. Thậm chí tôi cần nó đừng phác một cái gì theo trí nhớ khi các đối tượng không có đấy, cho đến bao giờ mà, nhờ những quan sát thường xuyên, hình dạng chính xác của các đối tượng đó in hằn vào trí tưởng tượng của nó; vì sợ rằng, do thay thế sự thực của mọi vật bằng những hình tượng kỳ dị và hư ảo, nó mất đi sự hiểu biết về các tỷ lệ và niềm ưa thích những cái đẹp của thiên nhiên.

Tôi biết là theo cách đó nó sẽ bôi qua một thời gian dài mà chẳng làm nên cái gì có thể nhận ra được, nó sẽ lâu đạt được sự mỹ miều qua dáng hình.Và nét bút nhẹ nhàng của họa sĩ, có lẽ chẳng bao giờ biết phân biệt những hiệu quả ngoạn mục và có được thẩm mỹ tao nhã trong bức vẽ; bù lại, chắc chắn nó sẽ tập dần được một cái nhìn chính xác hơn, một bàn tay vững vàng hơn, sự hiểu biết những quan hệ thực sự về tầm vóc và hình dạng giữa các động vật, các cây cối, các vật thể tự nhiên, và một trải nghiệm nhuệ mẫn hơn về tác riêng của luật viễn cận. Đó chính là những gì tôi muốn làm, và chủ ý của tôi để nó biết mô phỏng các vật không bằng để nó hiểu các vật; tôi thích hơn nếu nó phô ra với tôi một cây ô rô, và vẽ kém đẹp cành lá trên đỉnh một cây cột.

Vả lại, trong môn tập luyện này, cũng như trong tất cả các môn khác, tôi không chủ trương chỉ riêng học trò tôi vui chơi. Tôi muốn làm cho sự tập luyện ấy thành thú vị hơn nữa đối với nó bằng cách không ngừng chia sẻ cùng nó. Tôi không muốn nó có đối thủ nào khác ngoài tôi, nhưng tôi sẽ là đối thủ không ngừng nghỉ và không nguy hiểm; điều này khiến công việc của nó hứng thú, mà không gây ra ghen tị giữa chúng tôi. Tôi sẽ theo gương nó mà cầm cây bút chì; mới đâu tôi sử dụng bút cũng vụng về như nó. Giá như tôi có là một Apelle[105], thì tôi cũng chỉ tự thấy mình là một kẻ bôi quệt. Tôi sẽ bắt đầu bằng việc vẽ một người như những gã hầu vẫn vẽ lên tường; một vạch cho mỗi cánh tay, một vạch cho mỗi bắp chân, và các ngón tay to hơn cánh tay. Rất lâu về sau hoặc thầy hoặc trò chúng tôi sẽ thấy ra tính không tương xứng ấy; chúng tôi sẽ nhận xét rằng bắp chân có bề dày, và bề dày ấy không phải chỗ nào cũng giống nhau; rằng cánh tay có chiều dài nhất định so với thân hình, v.v… Trong sự tiến bộ này, tôi sẽ bước đi nhiều lắm là bên cạnh nó, hoặc tôi sẽ đi trước nó rất ít, thành thử nó luôn dễ dàng đuổi kịp tôi, và nhiều khi vượt quá tôi. Chúng tôi sẽ có các màu, các bút vẽ; chúng tôi sẽ cố gắng mô phỏng sắc màu của các vật thể và toàn bộ vẻ bên ngoài cũng như hình dạng của chúng. Chúng tôi sẽ tô màu, chúng tôi sẽ vẽ, chúng tôi sẽ bôi quệt; nhưng trong mọi sự bôi quệt của mình, chúng tôi không ngừng dò xét thiên nhiên; điều gì chúng tôi cũng sẽ chỉ làm dưới con mắt của bậc thầy mà thôi.

Chúng tôi đang lo đồ trang trí cho gian phòng của chúng tôi, thế là tìm được rồi. Tôi cho đóng khung các bức vẽ của chúng tôi; tôi cho lồng những tấm kính đẹp, để mọi người đừng động vào chúng nữa, và để thấy chúng trong tình trạng chúng tôi sắp đặt, mỗi người đều chú ý không bỏ lơ các bức vẽ của mình. Tôi xếp chúng quanh phòng theo thứ tự, mỗi hình vẽ được lặp lại hai mươi, ba mươi lần, và cho thấy ở mỗi bản bước tiến của tác giả, từ lúc ngôi nhà chỉ là một hình vuông gần như dị dạng, cho đến lúc mà mặt tiền nhà, mặt cắt, các tỉ lệ, các bóng, đều xác thực hết mức. Những bước tiệm tiến này không ngừng bày ra cho chúng tôi những bức tranh thú vị đối với chúng tôi, lạ lung đối với người khác, và luôn kích thích sự ganh đua giữa chúng tôi. Những bức đầu tiên, những bức thô sơ nhất, tôi cho lồng những chiếc khung thật rực rỡ, thếp vàng chói lọi, tôn bức tranh lên; nhưng khi sự mô phỏng trở nên chính xác hơn và bức vẽ thực sự khá, thì tôi chỉ cho nó một khung màu đen rất giản dị; nó không cần một sự trang hoàng nào khác ngoài bản thân nó, và sẽ là tổn thất nếu khung viền lại chia sẻ mất niềm chú ý mà đối tượng xứng đáng được hưởng. Như vậy mỗi người trong chúng tôi đều mong mỏi vinh dự được đóng khung trơn; và khi người này muốn rẻ rúng một bức vẽ của người kia, anh ta liền bắt nó phải chịu chiếc khung thếp vàng. Một ngày nào đó, có lẽ những chiếc khung thếp vàng ấy sẽ chuyển thành ngạn ngữ giữa chúng tôi với nhau, và chúng tôi sẽ tán thưởng bao con người tự thừa nhận tư cách bản thân bằng cách cho đóng khung mình như vậy.

Tôi đã nói rằng môn hình học không vừa sức trẻ em; nhưng đó là lỗi của chúng ta. Chúng ta không cảm thấy rằng phương pháp của trẻ không hề là phương pháp của chúng ta, và cái gì trở thành nghệ thuật suy luận với chúng ta thì với chúng chỉ là nghệ thuật nhìn mà thôi. Thay vì dạy chúng phương pháp của ta, tốt hơn là ta dùng phương pháp của chúng; vì cách ta học môn hình chính là một vấn đề của óc tưởng tượng cũng như của suy luận. Khi định lý được đưa ra, cần phải tưởng tượng sự chứng minh, nghĩa là phải tìm xem định lý ấy là hậu quả của định lý nào đã được biết, và, trong tất cả các hậu quả mà người ta có thể rút ra từ chính định lý ấy, phải chọn đúng hậu quả được bàn tới.

Theo cách này, người suy luận chính xác nhất, nếu không có óc sáng tạo, ắt cũng chịu tắc. Như vậy sẽ xảy ra điều gì từ tình hình trên? Điều đó là, thay vì giúp ta tìm ra các chứng minh, người ta đọc cho ta viết các chứng minh ấy; thay vì dạy ta lập luận, ông thầy lập luận hộ ta và chỉ rèn luyện trí nhớ của ta mà thôi.

Các vị hãy làm những hình thật chính xác, hãy kết hợp chúng, đặt hình nọ lên trên hình kia, hãy khảo sát các tương quan giữa chúng; các vị sẽ tìm ra toàn bộ môn hình học sơ đẳng bằng cách đi từ quan sát này đến quan sát kia, mà không cần đến vấn đề định nghĩa, tính toán, cũng như bất kỳ một hình thức chứng minh nào khác ngoài sự xếp chồng đơn giản. Về phần tôi, thì tôi không hề có ý định dạy môn hình học cho Émile, chính nó sẽ dạy tôi, tôi sẽ tìm kiếm các tương quan, còn nó sẽ tìm ra những tương quan đó; vì tôi sẽ tìm kiếm theo cách nào để giúp cho nó tìm thấy. Thí dụ, thay vì dùng một chiếc compas để vẽ một vòng tròn, tôi sẽ vẽ hình này với một mũi nhọn buộc ở đầu một sợi dây quay xung quanh một cây trụ. Sau đó, khi tôi muốn so sánh các đường bán kính với nhau, Émile sẽ chế nhạo tôi, và nó sẽ làm cho tôi hiểu rằng cùng một sợi dây luôn căng thẳng đó không thể vẽ nên các khoảng cách không bằng nhau.

Nếu tôi muốn đo một góc sáu mươi độ, tôi vẽ từ đỉnh của góc đó, không phải một cung, mà cả một vòng tròn; vì với trẻ em, không bao giờ nên bắt chúng hiểu ngầm một điều gì hết. Tôi thấy rằng phần vòng tròn nằm giữa hai cạnh của góc là một phần sáu của vòng tròn. Sau đó cũng từ đỉnh ấy tôi vẽ một vòng tròn lớn hơn và tôi thấy cung thứ hai này cũng vẫn là một phần sáu vòng tròn của nó. Tôi vẽ vòng tròn thứ ba đồng tâm trên đó tôi làm cũng thí nghiệm trên; và tôi tiếp tục thí nghiệm cho đến khi Émile, thấy chướng vì sự đần độn của tôi, bảo cho tôi biết rằng mỗi cung, lớn hay nhỏ, bao gồm trong cùng một góc, sẽ luôn là một phần sáu vòng tròn của nó, v.v… Thế là chúng tôi sắp sử dụng thước đo độ được rồi.

Để chứng minh rằng các góc liên tiếp bằng hai góc vuông, người ta vẽ một vòng tròn; còn tôi thì trái lại, tôi làm thế nào để Émile chú ý đến điều đó trước tiên trong vòng tròn, rồi tôi bảo nó: Nếu người ta bỏ các vòng tròn và các đường thẳng, các góc có thay đổi về độ lớn không, v.v…

Người ta bỏ qua tính chính xác của các hình, người ta giả định tính chính xác đó và người ta chuyên chú vào việc chứng minh. Giữa chúng tôi, trái lại, sẽ không bao giờ có vấn đề chứng minh; việc quan trọng nhất của chúng tôi sẽ là kẻ những đường thật thẳng, thật chính xác, thật bằng nhau; là vẽ một hình vuông thật hoàn hảo, là phác một vòng tròn thật tròn. Để kiểm tra tính chính xác của hình, chúng tôi sẽ khảo sát hình ấy qua tất cả các đặc tính rõ ràng của nó; và điều này sẽ cho chúng tôi cơ hội để mỗi ngày lại khám phá ra những đặc tính mới. Chúng tôi sẽ gấp theo đường kính hai nửa vòng tròn; theo đường đối giác hai nửa của hình vuông; chúng tôi sẽ so sánh hai hình của chúng tôi xem hình nào mà các mép khít với nhau nhất, do đó là hình được vẽ đúng nhất; chúng tôi sẽ tranh cãi xem sự phân chia bằng nhau ấy có phải bao giờ cũng diễn ra trong các hình bình hành, hình thang hay không, v.v… Đôi khi chúng tôi thử đoán trước thành công của thí nghiệm trước khi làm thí nghiệm; chúng tôi gắng tìm ra các lý do, v.v…

Với học trò tôi, hình học chỉ là kỹ năng sử dụng giỏi thước và compas; nó không được lẫn lộn hình học với hội họa, ở môn này nó sẽ chẳng dùng thứ nào trong các công cụ đó. Thước và compas được cất đi và khóa lại, và người ta chỉ họa hoằn mới cho nó sử dụng, và sử dụng trong thời gian ngắn mà thôi, để nó đừng quen bôi quệt; nhưng đôi khi chúng tôi có thể mang theo các hình trong lúc dạo chơi, và bàn bạc về những gì chúng tôi sẽ làm hoặc muốn làm.

Tôi sẽ không bao giờ quên đã gặp ở Turin một thanh niên thời thơ ấu từng được người ta dạy về tương quan giữa các chu vi và các diện tích bằng cách sáng nào cũng cho chọn trong tất cả các hình những chiếc bánh có chu vi bằng nhau. Chú bé tham ăn đã nghiên cứu đến nơi đến chốn nghệ thuật của Archimède để tìm ra trong hình nào thì có nhiều bánh để ăn nhất.

Khi một đứa trẻ chơi cầu lông, nó tập luyện để mắt và cánh tay được chính xác; khi nó quất một con quay, nó tăng thêm sức lực nhưng không học được gì cả. Đôi khi tôi đã hỏi xem tại sao người ta không cho trẻ em chơi cũng các trò khéo léo mà người lớn chơi: Cầu vợt, cầu vồ, bi-a, bắn cung, bóng, các nhạc cụ. Người ta đã trả lời tôi rằng một vài trò chơi trong số đó vượt quá sức chúng, rằng tứ chi và các khí quan của chúng chưa đủ hình thành cho các trò khác. Tôi thấy những lý do này do: một đứa trẻ không có tầm vóc của một người lớn, thế mà vẫn mặc y phục theo kiểu người lớn. Tôi không có ý nói nó chơi với các hòn bi-a của chúng ta trên một bàn cao ba pied[106]; tôi không có ý nói nó đến chơi tại các sân cầu của chúng ta, hay người ta đặt vào bàn tay bé bỏng của nó một cây vợt đánh cầu; mà muốn nói rằng nó chơi trong một gian phòng có cửa sổ đảm bảo; rằng mới đầu nó chỉ dùng những quả bóng mềm; rằng những cây vợt đầu tiên của nó làm bằng gỗ, sau đó bằng giấy da, và cuối cùng bằng dây ruột căng tùy theo bước tiến của nó. Các vị thích cầu lông hơn, vì trò này ít mệt và không nguy hiểm. Các vị sai vì hai lý do đó. Cầu lông là trò chơi của phụ nữ; nhưng chẳng một phụ nữ nào không làm trượt một quả cầu đang chuyển động. Làn da trắng của các bà không được chai cứng vì những vết bầm dập, và gương mặt các bà chang chờ đã những sự sầy da chảy máu. Nhưng còn chúng ta, được tạo ra để mà cường tráng, ta tưởng trở nên cường tráng mà không vất vả và ta sẽ có khả năng phòng vệ nào chứ, nếu không bao giờ ta bị tấn công.? Người ta luôn luôn chơi một cách lỏng lẻo lười nhác những trò ở đó ta có thể vụng về mà không nguy hiểm: một quả cầu lông rơi chẳng làm đau ai hết; nhưng không gì làm cho cánh tay hết lóng ngóng bằng việc phải che lấy đầu, không gì khiến cái nhìn được chính xác bằng việc phải bảo đảm cho đôi mắt. Lao mình từ đầu một gian phòng sang đầu bên kia, phán đoán trước này của một quả cầu đang còn ở trên không, đánh trả lại bằng bàn tay mạnh mẽ và chắc chắn; những trò chơi như thế phù hợp với con người ít hơn là có tác dụng đào tạo con người.

Người ta bảo rằng các đường gân thớ thịt của đứa trẻ còn quá mềm! Chúng ít khí lực hơn, nhưng vì thế lại uyển chuyển hơn; cánh tay của đứa trẻ yếu, nhưng rốt cuộc đó là một cánh tay; người ta phải làm với cánh tay ấy tất cả những gì ta làm với một cơ quan khác tương tự, theo tỷ lệ thích hợp. Trẻ em không có một sự khéo léo nào ở hai bàn tay; chính vì thế mà tôi muốn ta đem lại cho chúng sự khéo léo: một người lớn được tập luyện cũng ít như chúng sẽ chẳng khéo léo nhiều hơn đâu; chúng ta chỉ có thể biết được cách sử dụng các khí quan của mình sau khi đã dùng chúng. Chỉ có một kinh nghiệm lâu dài mới dạy được cho chúng ta biết lợi dụng bản thân mình, và kinh nghiệm ấy là môn học thực sự mà người ta chẳng thể áp dụng cho chúng ta quá sớm. Tất cả những gì được làm đều làm được. Mà, không gì thông thường hơn việc nhìn thấy những đứa trẻ khéo léo và gọn gàng khỏe khoắn, tay chân cũng lanh lẹ như người lớn. Ở hầu hết các chợ phiên, ta đều thấy những đứa trẻ biểu diễn các trò giữ thăng bằng, đi bằng bàn tay, nhảy, múa trên dây. Ròng rã bao năm những đoàn vũ trẻ em chẳng thu hút khán giả đến Nhà hát Ý vì những vở ba lê của chúng đó sao! Ai không từng nghe nói đến đoàn kịch câm của Nicolini danh tiếng ở Đức và ở Ý? Có ai từng nhận thấy ở những đứa trẻ đó những động tác không phát triển bằng, những tư thái không duyên dáng bằng, tai nghe không chính xác bằng, điệu múa không nhẹ nhàng bằng những vũ công đã được đào tạo hoàn chỉnh? Thoạt tiên người ta có những ngón tay thô, ngắn, di động kém, những bàn tay mập mạp và ít có khả năng nắm chặt cái gì; điều này có ngăn cản chăng nhiều đứa trẻ biết viết hay biết vẽ ở độ tuổi mà nhiều đứa khác còn chưa cầm được bút chì cũng như bút lông? Cả Paris hãy còn nhớ cô bé người Anh chơi đàn clavecin tuyệt diệu ở tuổi lên mười[107]. Tôi đã thấy ở nhà một pháp quan, con trai ông ta, chú bé tám tuổi, được mọi người đặt lên bàn lúc dùng món tráng miệng, như một pho tượng giữa những chiếc khay, đứng tại đó mà chơi một cây đàn vĩ cầm to gần bằng mình, và khiến ngay cả các nghệ sĩ cũng kinh ngạc vì diễn tấu của chú.

Tôi thấy dường như tất cả những thí dụ trên và hàng vạn thí dụ khác chứng tỏ rằng việc giả định trẻ em không có khả năng với những môn luyện tập của chúng ta chỉ là tưởng tượng, và nếu người ta thấy chúng không thành công trong một vài môn, đó là vì người ta chưa bao giờ cho chúng tập hết.

Người ta sẽ bảo tôi rằng ở đây, đối với thân thể, tôi rơi vào khuyết điểm của việc giáo dục non sớm mà tôi chê trách ở trẻ em, đối với trí óc. Sự khác biệt rất lớn; vì một trong hai sự tiến bộ chỉ là bề ngoài, còn tiến bộ kia thì có thực. Tôi đã chứng minh rằng tài trí mà trẻ em tỏ ra là có, thì chúng không có, trong khi những gì chúng tỏ ra là làm, thì chúng làm. Vả lại, bao giờ ta cũng phải nghĩ rằng tất cả những điều đó chỉ là hoặc chỉ nên là trò chơi, là sự điều khiển dễ dàng và tự nguyện các động tác mà thiên nhiên đòi hỏi ở trẻ, là nghệ thuật đa dạng hóa các trò vui của chúng để những trò ấy trở nên thú vị hơn với chúng, không bao giờ để sự ép buộc nhỏ nào biến những trò đó thành công việc; vì, rốt cuộc, có cái gì chúng chơi đùa mà tôi lại không thể làm thành một đề tài giáo dục đối với chúng? Và nếu tôi không thể, thì miễn là chúng chơi đùa mà không có gì bất lợi, miễn là thời gian trôi đi, bước tiến của chúng trong mọi điều chẳng quan trọng xét về hiện tại; trong khi, nếu nhất định phải dạy chúng cái này hay cái khác, thì dù người ta tiến hành theo cách nào, cũng chẳng bao giờ làm được mà không có ép uổng, không có giận dỗi, và không buồn chán.

Những gì tôi đã nói về hai giác quan mà việc sử dụng là liên tục hơn cả và quan trọng hơn cả, có thể dùng làm thí dụ cho việc luyện tập các giác quan khác. Thị giác và xúc giác áp dụng cả trên các vật thể ngưng nghỉ và các vật thể chuyển động; nhưng vì chỉ có sự rung chuyển của không khí mới làm xúc động được thính giác, nên chỉ có một vật thể đang cử động mới tạo nên tiếng động hoặc âm thanh; còn nếu như tất cả đều ở trạng thái ngưng nghỉ, chúng ta sẽ không bao giờ nghe thấy gì hết. Vậy ban đêm, vì bản thân ta chỉ chuyển động chừng nào ta muốn, nên ta chỉ phải sợ những vật thể chuyển động, thì ta cần phải có cái tai nhanh nhạy, và có thể phán đoán, qua cảm giác tác động đến mình, liệu vật thể gây nên cảm giác đó lớn hay nhỏ, xa hay gần; liệu sự rung chuyển của nó mạnh hay yếu. Không khí rung chuyển có những phản hướng dội chiếu nó, và, trong khi phản hướng, lặp lại cảm giác, và khiến người ta nghe được vật thể gây nên tiếng động hoặc âm thanh tại một nơi khác với nơi vật thể đang ở. Tại một đồng bằng hay một thung lũng, nếu áp tai xuống đất, ta sẽ nghe được tiếng người nói và bước chân ngựa xa hơn rất nhiều so với nếu ta vẫn đứng. “

Vì chúng tôi đã so sánh thị giác với xúc giác, cũng nên so sánh thị giác với thính giác, và nên biết xem trong hai tác động, xuất phát đồng thời từ cùng một vật thể, tác động nào đến với khí quan của nó sớm nhất. Khi ta nhìn thấy ánh lửa từ một khẩu đại bác, ta hãy còn có thể nấp tránh; nhưng nếu vừa nghe thấy tiếng nổ, thì không còn kịp nữa, lên đạn đã ở đó rồi. Ta có thể phán đoán về khoảng cách nơi có sấm sét nhờ quãng thời gian trôi qua từ ánh chớp đến tiếng nổ. Các vị hãy làm sao cho đứa trẻ biết được tất cả các thí nghiệm đó; sao cho nó làm những thí nghiệm vừa sức nó, và nó tìm ra các thí nghiệm khác nhờ quy nạp, song tôi thích nó không biết những điều đó hơn gấp trăm lần nếu các vị cần phải bảo cho nó.

Chúng ta có một khí quan đáp lại thính giác, đó là khí quan của tiếng nói; chúng ta không có khí quan như thế để đáp ứng thị giác, và chúng ta không phản hồi các màu sắc như các âm thanh. Đó lại là một phương tiện nữa để vun trồng khí quan thứ nhất, bằng cách tập luyện khí quan chủ động và khí quan thụ động cái nọ nhờ cái kia.

Con người có ba loại giọng, giọng nói hay là giọng rõ ràng, giọng hát hay là giọng du dương và giọng cảm động hay là giọng nhấn mạnh, dùng làm ngôn ngữ cho các đam mê, và đem sinh khí đến cho tiếng hát và lời nói. Đứa trẻ cũng có ba loại giọng ấy như người lớn, song không biết kết hợp các giọng như người lớn; đứa trẻ cũng có như chúng ta tiếng cười, tiếng kêu, tiếng than, tiếng cảm thán, tiếng rền rĩ, nhưng nó không biết hòa trộn các biến hóa của giọng này với hai giọng kia. Một điệu nhạc hoàn hảo là điệu nhạc kết hợp được hay nhất cả ba giọng đó. Trẻ em không có khả năng về loại nhạc này, và tiếng hát của chúng không bao giờ có hồn. Cũng như vậy, trong giọng nói, ngôn ngữ của chúng không hề có trọng âm, chúng kêu to, nhưng chúng không nhấn mạnh; và bởi trong lời lẽ của chúng có ít điểm nhấn, nên trong giọng nói của chúng có ít khí lực. Học trò của chúng ta sẽ có cách nói bình dị hơn nữa, giản đơn hơn nữa, bởi lẽ các đam mê của nó, do chưa thức tỉnh, sẽ không hề xen ngôn ngữ của chúng vào ngôn ngữ của nó. Vậy các vị đừng cho nó học những vai trong bị kịch hay hài kịch, cũng đừng muốn dạy nó ngâm thơ. Nó sẽ có quá nhiều lương tri thành thử chẳng biết đem lại một âm điệu cho những điều mà nó không sao hiểu nổi, và đem lại ý tứ cho những tình cảm mà nó sẽ không bao giờ cảm thấy.

Các vị hãy dạy nó nói một cách bình dị, rõ ràng, dạy nó phát âm rõ, đọc đúng và không điệu bộ, dạy nó hiểu và chú ý đến trọng âm về ngữ pháp và văn pháp, bao giờ cũng nói khá lớn để mọi người nghe được, nhưng không bao giờ lớn hơn mức cần thiết; khuyết điểm thông thường ở trẻ em dược nuôi dạy tại các trường trung học: Không một điều gì thừa trong mọi sự.

Cũng như vậy, trong khi hát, hãy làm cho giọng nó đúng, đều, vang, uyển chuyển; làm cho tai nó cảm nhận được nhịp điệu và hòa âm, nhưng chỉ thế thôi. Nhạc mô phỏng và sân khấu không hợp lứa tuổi nó; thậm chí tôi không muốp nó hát các lời ca; nếu nó muốn hát các lời, tôi sẽ cố gắng làm những cảm thấy khúc dành riêng cho nó, thú vị đối với lứa tuổi nó, và cũng đơn sơ như các ý tưởng của nó.

Hẳn mọi người nghĩ rằng đã chẳng vội vàng gì dạy nó đọc chữ viết, tôi cũng sẽ không vội dạy nó đọc nhạc. Ta hãy gạt khỏi bộ não của nó mọi sự chú ý quá vất vả, và đừng hấp tấp bắt trí óc nó chăm chú vào những ký hiệu ước lệ. Tôi thú thực rằng điều này dường như có sự khó khăn của nó; vì, nếu việc hiểu các nốt nhạc mới đầu không có vẻ cần thiết để biết hát bằng việc hiểu các chữ để biết nói, thì tuy nhiên có điều khác biệt này, là khi nói chúng ta diễn tả các ý tưởng của chính chúng ta, còn khi hát chúng ta hầu như chỉ diễn tả các ý tưởng của người khác mà thôi. Mà, muốn diễn tả những ý tưởng, cần phải đọc được chúng.

Nhưng, thứ nhất, thay vì đọc chúng, ta có thể nghe, và một khúc hát đến với tai còn trung thành hơn đến với mắt. Hơn nữa, để hiểu rõ âm nhạc, thì diễn tả nhạc chưa đủ, còn phải soạn nhạc, và việc nọ phải học cùng với việc kia, nếu không người ta sẽ không bao giờ hiểu rõ nhạc hết. Vậy mới đầu hãy tập cho nhạc sĩ tí hon của các vị làm những câu ngắn, thật đều đặn, thật nhịp nhàng; sau đó liên kết chúng bằng một biến điệu rất đơn giản, cuối cùng biểu thị các quan hệ khác nhau giữa chúng bằng một sự ngắt câu đúng đắn; điều này được thực hiện nhờ chọn lựa đúng các nhịp và các sự ngưng nghỉ. Đặc biệt đừng bao giờ có khúc hát kỳ dị, đừng bao giờ bi ai cũng đừng biểu cảm. Một giai điệu luôn véo von và đơn giản, luôn khai thác từ những dây chủ yếu của thanh điệu, và luôn chỉ ra giọng trầm rõ đến mức nó cảm nhận thấy và đệm nhạc dễ dàng bởi, muốn luyện giọng và tai, bao giờ nó cũng chỉ được hát theo đàn clavecin mà thôi.

Để biểu thị rõ hơn các âm thanh, người ta phát âm chúng khi đọc lên; từ đó mà có tập quán xướng âm bằng một số âm tiết. Để phân biệt các bậc, cần phải đặt tên cho các bậc ấy và cho các hạn giới cố định khác nhau của chúng; từ đó mà có tên gọi các âm trình (intervalle), và cả những chữ cái đánh dấu các phím đàn và các nốt nhạc của thang âm. C và A chỉ những âm thanh cố định không đổi bao giờ cũng do cùng những phím đó diễn tả. Ut và la lại khác. Ut luôn luôn là chủ âm của một điệu thức trưởng, hoặc là bậc thứ ba (médiante) của một điệu thức thứ. La luôn luôn là chủ âm của một điệu thức thứ, hoặc là nốt nhạc thứ sáu của một điệu thức trưởng. Như vậy các chữ đánh dấu những hạn giới bất biến trong các quan hệ của hệ thống âm nhạc của chúng ta, còn các âm tiết đánh dấu những hạn giới đối ứng trong các quan hệ tương tự qua những thanh điệu khác nhau. Các chữ chỉ các phím của bàn phím, còn các âm tiết chỉ các bậc của điệu thức. Các nhạc sĩ Pháp đã trộn lẫn một cách kỳ lạ những sai phân biệt này, họ đã lẫn lộn ý nghĩa của các âm tiết với ý nghĩa của các chữ; và, trong khi nhân đôi một cách vô ích các ký hiệu của những phím đàn, họ không hề để lại ký hiệu để diễn tả các dây của những thanh điệu; thành thử đối với họ út và C bao giờ cũng là cùng một điều; không phải như vậy, và không được như vậy, vì nếu thế thì C sẽ dùng để làm gì? Vì thế cách xướng âm của họ cực kỳ khó mà chẳng có một ích lợi gì, chẳng đem lại cho trí óc một ý niệm rõ rệt nào hết, bởi, theo phương pháp đó, thì hai âm tiết út và mi chẳng hạn, có thể có nghĩa một quãng ba trưởng, hay thứ, thêm, hay giảm, thế nào cũng được cả. Vì một định mệnh lạ lùng nào mà xứ sở tại đó người ta viết ra những cuốn sách hay nhất về âm nhạc lại chính là xứ sở tại đó người ta học nhạc một cách khó khăn nhất?

Chúng ta hãy cùng với học trò của mình theo một phương pháp đơn giản hơn và rõ ràng hơn; làm sao cho đối với nó chỉ có hai điệu thức, quan hệ giữa hai điệu thức đó bao giờ cũng vẫn là những quan hệ ấy và bao giờ cũng được chỉ ra bằng vẫn những âm tiết ấy. Dù hát hay chơi một nhạc chỉ nó hãy biết xác lập điệu thức của mình trên môi thanh điệu trong mười hai thanh điệu có thể làm cơ sở cho mình, và, dù người ta chuyển điệu D hay C hay G v.v… Thì kết bao giờ cũng là la hay út, tùy điệu thức. Theo cách đó, bao giờ nó cũng sẽ hiểu các vị; các quan hệ chủ yếu của điệu thức để hát và chơi đúng sẽ luôn hiện diện trong trí óc nó, diễn tấu của nó sẽ minh xác hơn và sự tiến bộ sẽ nhanh chóng hơn. Không có gì kỳ cục hơn là cái mà người Pháp gọi là xướng âm theo tự nhiên; đó là tách các ý niệm ra xa sự vật để thay thế bằng những ý niệm lạ bên ngoài chỉ gây lầm lạc. Không gì tự nhiên hơn là xướng âm qua chuyển giọng, khi điệu thức được chuyển giọng. Nhưng thế là đã nói quá nhiều về âm nhạc: Các vị hãy dạy nhạc như các vị muốn, miễn rằng bao giờ đó cũng chỉ là một sự vui chơi mà thôi.

Thế là chúng ta đã được biết rõ về trạng thái của các vật thể bên ngoài so sánh với thân thể chúng ta, về trọng lượng của chúng, về hình dạng, về màu sắc, về thể tích, về tầm vóc, về khoảng cách, về nhiệt độ, về sự ngưng nghỉ, về sự vận động của chúng. Chúng ta đã biết được những vật thể nào mình nên đến gần hay tách ra xa, cách thức ta cần xử trí để thắng sự đề kháng của chúng, hoặc để đem đối lập với chúng một sự đề kháng tránh được cho ta khỏi bị chúng làm tổn hại, nhưng như thế chưa đủ; chính thân thể của chúng ta không ngừng hao mòn, nó cần được đổi mới không ngừng. Mặc dù chúng ta có năng lực biến đổi các thực chất khác thành thực chất của chính chúng ta, song việc lựa chọn chẳng phải là không can hệ gì: Không phải mọi thứ đều là thực phẩm cho con người; và trong những chất có thể là thực phẩm, có những chất thích hợp nhiều hơn hay ít hơn, tùy theo cấu tạo của chủng loại người, tùy theo khí hậu nơi con người ở, tùy theo khí chất riêng của anh ta, và tùy theo cách sống do trạng thái của anh ta quy định cho anh ta.

Chúng ta sẽ chết vì đói hay vì bị ngộ độc, nếu để chọn những thực phẩm phù hợp với mình, ta phải chờ đợi kinh nghiệm dạy cho ta hiểu biết chúng và lựa chọn chúng; nhưng lòng nhân hậu của đấng tối cao, do đã khiến cho niềm thích thú của những sinh thể có cảm giác thành phương tiện bảo tồn chúng, nên báo cho ta biết cái gì thích hợp với dạ dày ta qua những gì làm khẩu vị của ta thích thú. Với con người không hề có thầy thuốc nào linh diệu một cách tự nhiên hơn sự ngon miệng của bản thân anh ta; và, xét con người ở trạng thái nguyên sơ, tôi tin rằng lúc đó những thức ăn mà anh ta thấy thú vị nhất chính là những thức ăn lành nhất với anh ta.

Còn hơn thế nữa. Tạo hóa không chỉ cung cấp cho những nhu cầu do tạo hóa đem lại cho chúng ta, mà còn cho cả những nhu cầu chúng ta tự đem lại cho mình; và chính vì để trong chúng ta ham muốn luôn ở cạnh nhu cầu, mà tạo hóa làm cho các thị hiếu của chúng ta thay đổi và biến chất cùng với cách sống của chúng ta. Ta càng xa rời trạng thái tự nhiên, thì ta càng mất đi các thị hiếu tự nhiên; hay nói đúng hơn là thói quen tạo cho ta một bản tính thứ hai mà ta đem thay thế cho bản tính thứ nhất nhiều đến nỗi chẳng ai trong chúng ta còn biết đến bản tính thứ nhất nữa.

Từ đó mà thấy rằng những thị hiếu tự nhiên nhất ắt cũng là những thị hiếu đơn giản nhất; vì đó là những thị hiếu biến đổi dễ dàng nhất; thay vì trở nên sâu sắc hơn, kích thích hơn do các ý ngông của chúng ta, những thị hiếu này lại mang lấy một hình thái không thay đổi nữa. Con người chưa thuộc một xứ sở nào sẽ dễ dàng thích nghi với tập quán của bất kỳ xứ sở nào; còn con người của một xứ sở không trở thành con người của một xứ sở khác.

Tôi thấy điều này dường như đúng theo mọi nghĩa, và còn đúng hơn nữa, khi áp dụng vào thị hiếu theo nghĩa vị giác. Thức ăn đầu tiên của chúng ta là sữa; chúng ta chỉ tập quen dần với các vị mạnh; thoạt tiên những vị này khiến chúng ta thấy gớm. Trái cây, rau, cỏ, và cho cùng một ít thịt nướng, không gia vị không muối, là tiệc tùng của những con người đầu tiên[108]. Lần đầu tiên một con người hoang dã uống rượu vang, anh ta nhăn mặt và nhố rượu đi; và ngay cả trong chúng ta, ai đã sống đến tuổi hai mươi mà chưa hề nếm các chất nước có men thì không thể tập quen được nữa; tất cả chúng ta sẽ kiêng rượu nếu mọi người không cho chúng ta uống vang từ khi ta còn nhỏ. Cuối cùng, thị hiếu của chúng ta càng đơn giản, thì chúng càng phổ quát; những sự gớm ghét thông thường nhất rơi vào các món ăn phức hợp. Ta có bao giờ thấy ai gớm ghét nước cũng như bánh mì đâu? Đó là vết tích của tự nhiên, vậy đó cũng là quy tắc của chúng ta. Chúng ta hãy giữ cho đứa trẻ thị hiếu nguyên sơ của nó đến hết mức có thể; sao cho thức ăn của nó thông thường và đơn giản, sao cho khẩu vị của nó chỉ quen với những vị ít đậm ít cay, và không hình thành một thị hiếu chấp nhất.

Ở đây tôi không khảo sát xem liệu cách sống này có lành mạnh hơn hay không, tôi không xem xét nó theo cách ấy. Để ưa chuộng nó, tôi chỉ cần biết đó là cách sống phù hợp nhất với tự nhiên, và là cách sống có thể phục tùng dễ dàng nhất bất kỳ cách sống nào khác. Tôi thấy những người nói cần phải tập cho trẻ em quen với các thực phẩm mà chúng sẽ sử dụng khi trưởng thành dường như lập luận không đúng. Tại sao thức ăn của đứa trẻ và người lớn phải giống nhau, trong khi cách sống của họ lại hết sức khác biệt? Một người lớn kiệt sức vì công việc, vì các nỗi lo âu, vất vả, cần các thực phẩm ngon bổ đưa những tinh chất mới mẻ đến não; một đứa trẻ vừa mới nô đùa nhảy nhót, và thân thể đang nảy nở, cần một thức ăn dồi dào tạo cho nó nhiều dưỡng trấp. Vả lại người trưởng thành đã có địa vị của mình, chức nghiệp của mình, trú sở của mình; nhưng ai có thể chắc chắn về những gì mà vận mệnh rủi may dành cho đứa trẻ? Trong mọi sự ta đừng đem lại cho nó một hình thái xác định đến nỗi nó phải trả giá quá đắt khi cần phải thay đổi. Ta đừng làm cho nó chết đói ở những xứ sở khác, nếu như nó không lôi theo khắp nơi một đầu bếp người Pháp, cũng đừng làm cho một ngày nào đó nó bảo rằng chỉ ở Pháp người ta mới biết ăn mà thôi. Bàn ngoài đề một chút, đó thật là một lời khen kỳ cục! Về phần tôi, tôi sẽ nói ngược lại rằng chỉ những người Pháp mới không biết ăn, vì phải cần đến một nghệ thuật đặc biệt đến thế để làm cho các món thành ra có thể ăn được đối với họ.

Trong những cảm giác khác nhau của chúng ta, thì vị giác đem lại những cảm giác thường ảnh hưởng đến chúng ta nhiều hơn cả. Bởi thế chúng ta quan tâm phán đoán đúng về những thực thể phải tham dự vào thực thể của chúng ta, hơn là về những thực thể chỉ bao quanh chúng ta mà thôi. Hàng ngàn vật chẳng can hệ với xúc giác, thính giác, thị giác; nhưng hầu như chẳng có gì không can hệ đối với vị giác.

Hơn nữa, hoạt động của giác quan này hoàn toàn mang tính nhục thể và vật chất; nó là giác quan duy nhất chẳng nói gì với trí tưởng tượng hết, ít ra cũng là giác quan mà trí tưởng tượng ít đi vào các cảm nhận nhất; trong khi sự mô phỏng và trí tưởng tượng thường xen lẫn cái tinh thần vào cảm tưởng của mọi giác quan khác. Nên, nói chung, những trái tim đa tình và ưa khoái lạc, những tính cách đam mê và thực sự mẫn cảm, dễ xúc động bởi các giác quan khác, lại khá hững hờ với giác quan này. Chính ngay từ điều này, cái điều dường như đặt vị giác xuống dưới các giác quan khác, và khiến khuynh hướng buông mình cho vị giác thành đáng khinh hơn, tôi lại kết luận trái ngược rằng phương kế thích hợp nhất để chi phối trẻ em là dẫn dắt chúng bằng cái miệng. Động cơ của sự tham ăn đặc biệt đáng ưa chuộng hơn động cơ của sự khoe khoang, ở chỗ động cơ thứ nhất là một thèm muốn của tự nhiên, liên quan trực tiếp đến giác quan, còn động cơ thứ hai là một tác phẩm của dư luận, phụ thuộc sự trái tính trái nết của những con người và đủ loại lạm dụng. Tham ăn là đam mê của tuổi thơ; đam mê này chẳng đứng vững trước bất kỳ đam mê nào khác; nó tiêu tan trước sự cạnh tranh nhỏ nhất. Này! Xin hãy tin tôi, đứa trẻ sẽ chỉ ngừng quá sớm việc nghĩ đến những gì nó ăn; và khi lòng nó quá bận rộn, thì khẩu vị của nó sẽ chẳng khiến nó bận tâm là mấy. Sau này khi nó lớn, hàng ngàn tình cảm dữ dội sẽ đánh lừa sự tham ăn, và sẽ chỉ kích thích sự khoe khoang mà thôi; vì duy nhất đam mê này lợi dụng các đam mê khác, và cuối cùng nuốt chửng mọi đam mê. Tôi đã đôi lần quan sát những người coi trọng miếng ăn ngon, vừa thức dậy là nghĩ đến những gì sẽ ăn trong ngày, và miêu tả một bữa ăn còn chính xác hơn Polybe[109] miêu tả một trận chiến; tôi thấy tất cả những vị bảo là người lớn ấy chỉ là những đứa trẻ tứ tuần, không có khí lực không có sự vững chắc, fruges consumere nati[110]. Tham ăn là tật xấu của những người không có tố chất. Tâm hồn một kẻ tham ăn ở hết khẩu vị của anh ta; anh ta chỉ được tạo ra để mà ăn; trong tình trạng bất tài đần độn của anh ta, chỉ bên bàn ăn anh ta mới ở vị trí của mình, anh ta chỉ biết xét đoán các món ăn mà thôi; ta hãy để công việc ấy cho anh ta đừng tiếc; thà anh ta làm công việc ấy còn tốt hơn làm công việc khác, với chúng ta cũng như với sợ tính tham ăn bắt rễ ở một đứa trẻ có khả năng nào đấy là một sự cẩn thận của đầu óc nhỏ hẹp. Ở tuổi thơ người ta chỉ nghĩ đến những gì mình ăn mà thôi; đến tuổi thanh niên, người ta không nghĩ đến điều ấy nữa; cái gì với ta cũng ngon cả, và ta còn nhiều việc khác. Tuy nhiên tôi không muốn người ta sử dụng một cách thô lỗ một động cơ thấp đến thế, cũng không muốn lấy miếng ăn ngon làm chỗ dựa cho vinh dự thực hiện một hành động cao đẹp. Nhưng tôi không hiểu, khi toàn bộ tuổi thơ là hoặc chỉ nên là trò chơi và vui đùa nô giỡn, thì tại sao những sự tập luyện thuần túy thể chất lại không có một phần thưởng vật chất và hữu hình. Khi một chú bé người đảo Majorque, nhìn thấy một chiếc giỏ ở cao trên cây, dùng ná cao su bắn rơi nó, thì chẳng thật công bằng hay sao nếu chú hưởng lợi vì việc này, và một bữa ăn ngon tu bổ sức lực chú dùng để kiếm được bữa ăn ấy[111]? Khi một thiếu niên người Sparte, vượt qua nguy cơ bị đánh một trăm roi, khéo léo lẻn vào một nhà bếp; khi cậu ta ăn trộm ở đó một con cáo non còn sống nguyên, khi cho nó vào trong áo mang đi cậu bị nó cào, cấu, chảy máu, và, để khỏi chịu nỗi nhục bị bắt chợt, cậu bé điềm nhiên để mình bị xé rách phủ tạng không chau mày, không kêu lấy một tiếng, thì chẳng thật công bằng hay sao khi cuối cùng cậu được hưởng con mồi và ăn thịt nó sau khi đã bị nó ăn thịt? Một bữa ăn ngon không bao giờ nên là một giải thưởng; nhưng tại sao đôi khi nó không là kết quả của những lo toan người ta đã bỏ ra để kiếm được nó? Émile không hề coi chiếc bánh ngọt tôi để trên hòn đá là phần thưởng vì đã chạy giỏi; nó chỉ biết rằng phương kế duy nhất để có cái bánh ấy là đến được chỗ đó sớm hơn một kẻ khác.

Điều này không hề mâu thuẫn với những châm ngôn tôi vừa đưa ra về sự đơn giản của các món ăn, vì, để chiến sự thèm ăn của trẻ em, vấn đề không phải là kích thích khoái cảm ở chúng, mà chỉ là thỏa mãn khoái cảm đó; và điều này sẽ đạt được nhờ những thứ thông thường nhất trên đời, nếu ta không ra công làm cho vị giác chúng thành tinh tế. Sự thèm ăn liên tục ở chúng, do nhu cầu tăng trưởng kích thích, là một gia vị hữu hiệu thay thế cho rất nhiều gia vị khác. Trái cây, sữa, vài miếng bánh nướng ngon hơn bánh mì thường ngày một chút, nhất là nghệ thuật phân phát tất cả những thứ đó một cách chừng mực: Thế là có thể dẫn dắt hàng đoàn trẻ em đến tận cùng thế giới mà chẳng khiến cho chúng ưa thích những vị nồng đậm, cũng không có nguy cơ làm khẩu vị chúng bị nhàm chán.

Một trong những bằng chứng rằng thị hiếu ăn thịt không mang tính tự nhiên ở con người, là sự thờ ơ của trẻ em đối với món ăn đó, và sự ưa chuộng của tất cả trẻ em đối với các thức ăn từ thực vật, như sữa, bánh ngọt, trái cây v..v…Cần nhất là đừng làm biến chất thị hiếu nguyên sơ này, và đừng khiến trẻ em thành thích ăn thịt; nếu không vì sức khỏe của chúng, thì vì tính cách của chúng; bởi, dù người ta giải thích thí nghiệm theo cách nào, thì điều chắc chắn là những kẻ ăn rất nhiều thứ nói chung thường tàn ác và hung bạo hơn những người khác; nhận xét này thuộc mọi nơi chốn và mọi thời đại. Ai cũng biết sự dã man của người Anh[112]; người Gaure, trái lại, là những con người hiền hậu nhất[113]. Tất cả những người hoang dã đều tàn nhẫn; song phong tục của họ không hề hướng họ đến điều ấy: Sự tàn nhẫn này xuất phát từ thức ăn của họ. Họ ra trận như thể đi săn, và đối xử với những con người như với những con gấu. Ở nước Anh ngay cả những người đồ tể cũng không được ra làm chứng[114], cũng như các thầy thuốc ngoại khoa. Những kẻ đại gian ác dạn dày với việc giết người bằng cách uống máu. Homère đã thể hiện các Cyclope[115] ăn thịt là những kẻ gớm guốc, còn những người Lotophage[116] là một dân tộc đáng yêu đến mức, hễ người ta vừa thử giao tiếp với họ, là người ta quên cả đến xứ sở của mình để sống cùng họ.

“Ngươi hỏi ta, Plutarque[117] nói, tại sao Pythagore kiêng ăn thịt thú vật; nhưng ta thì ta hỏi ngươi ngược lại rằng cái kẻ đầu tiên đưa lại gần miệng hắn một thứ thịt bầm đập, cái kẻ dùng răng cắn vỡ xương một con vật đang hấp hối, cái kẻ sai dọn lên trước mặt hắn những thi thể chết, những cái xác và nuốt chửng vào dạ dày hắn những bộ phận lúc trước còn kêu be be, còn rống lên, còn bước đi và nhìn thấy, cái kẻ đó có sự can đảm nào thuộc con người? Làm thế nào mà bàn tay hắn có thể đâm lưỡi dao vào trái tim một sinh thể có cảm giác? Làm thế nào mà mắt hắn có thể chịu được một vụ tàn sát? Làm thế nào hắn có thể nhìn cắt tiết lột da, xẻ thịt một con vật tội nghiệp vô phương tự vệ? Làm thế nào mà hắn có thể chịu được cảnh thịt da còn thoi thóp giãy giụa? Làm thế nào mà mùi của những thứ đó không làm hắn buồn nôn? Làm thế nào mà hắn không thấy tởm lợm, gớm ghét, ghê sợ, khi hắn sờ mó chất nhơ bẩn của những vết thương ấy, rửa máu đen và đông cứng che phủ vết thương?

Những lớp da bị lột lết lê trên mặt đất,

Những xiên thịt nướng gầm gào bên lửa cháy;

Con người chẳng thể ăn mà không run rẩy,

Và nghe những thịt da kia rền rĩ trong lòng.

Đó là những gì hắn ắt phải tưởng tượng và cảm thấy trong lần đầu tiên hắn vượt qua tự nhiên để thực hiện bữa ăn gớm guốc đó, lần đầu tiên hắn thèm một con thú đang sống, hắn muốn ăn một con vật còn đang gặm cỏ, và hắn bảo cần cắt tiết xẻ thịt, nấu chín như thế nào con cừu đang liếm tay hắn. Chính về những kẻ khởi đầu các bừa tiệc tàn ác này, chứ không phải về những kẻ rời các bữa tiệc đó, mà người ta có lý do để ngạc nhiên: Vậy mà những kẻ đầu tiên ấy còn có thể biện giải cho sự dã man của họ bằng những lý do bào chữa mà sự dã man của chúng ta lại không có được, và tình trạng không có lý do này khiến cho chúng ta thành dã man hơn họ gấp trăm lần.

Những con người đầu tiên ấy sẽ bảo chúng ta rằng: Hỡi những người được thần linh yêu quý, hãy so sánh các thời đại, hãy xem các người sung sướng biết bao nhiêu còn chúng tôi khốn khổ biết bao nhiêu! Trái đất mới hình thành và không khí nặng trĩu những hơi nước hãy còn ương ngạnh chẳng theo trật tự của các mùa; dòng cháy bất định của sông ngòi huỷ hoại bờ bãi khắp chốn; những ao, những hồ, những đầm lầy sâu làm chìm ngập ba phần tư diện tích thế giới; một phần tư kia thì che phủ bằng những khu rừng cằn cỗi. Mặt đất chẳng sản sinh thứ quả ngon nào; chúng tôi chẳng có dụng cụ canh tác nào; chúng tôi chẳng biết cách sự dụng chúng, và thời kỳ gặt hái chẳng bao giờ đến với kẻ không gieo trồng gì hết. Bởi thế cái đói không rời chúng tôi. Mùa đông, rêu và vỏ cây là thức ăn thường ngày của chúng tôi. Vài rễ tươi cỏ gà hay thạch thảo là yến tiệc đối với chúng tôi; và khi con người tìm được trái dẻ gai, hò đào, dễ rừng, thì họ vui mừng nhảy múa quanh một cây sồi hay cây dẻ gai theo một khúc ca mộc mạc nào đó, gọi đất là vú nuôi mình, là mẹ của mình: Đó là lễ hội duy nhất của họ; đó là trò chơi độc nhất của họ; toàn bộ phần còn lại của đời người chỉ là đau đớn, buồn lo và khốn khổ.

Cuối cùng, khi mặt đất bị lột trần trụi không tặng cho chúng tôi gì nữa hết buộc phải xúc phạm thiên nhiên để tự bảo tồn, chúng tôi đành ăn nhưng bạn bầu chung nỗi khổn khổ với mình còn hơn là chê đi cùng những bạn bầu ấy. Còn các người, những con người tàn ác, ai buộc các người làm đổ máu? Hãy nhìn xem bao nhiêu là của cải vây quanh các người! Mặt đất sản sinh cho các người biết bao nhiêu hoa trái! Đồng ruộng và vườn nho đem lại cho các người biết bao thứ quý giá! Bao nhiêu là súc vật tặng sữa chúng để nuôi dưỡng các người và lông chúng để làm áo quần cho các người! Các người còn đòi hỏi chúng gì nữa? Và cơn điên nào khiến các người phạm bao nhiêu vụ tàn sát, trong khi no chán của cải và đầy ứ lương thực? Tại sao các người dối trá chống lại mẹ mình bằng cách kêu tội mẹ không nuôi được các người? Tại sao các người lại phạm tội với Cérès[118] sáng tạo các luật thiêng, với Bacchus[119] dễ thương an ủi những con người? Cứ như thể những tặng vật do các thần ban phát không đủ cho việc bảo tồn loài nguồi! Làm sao các người nỡ lòng trộn lẫn vào hoa trái ngọt ngào của các thần những hài cốt trên bàn ăn của các người, và nỡ lòng ăn cùng với sữa máu huyết của những con vật cho các người sữa ấy? Hổ, báo và sư tử, mà các người gọi là thú dữ, bắt buộc phải theo bản năng, và giết những con vật khác để mà sống. Nhưng còn các người, dữ tợn gấp trăm lần chúng, chẳng cần thiết mà các người vẫn chống lại bản năng, để buông mình vào những khoát lạc tàn ác của các người. Những con vật mà các người ăn thịt không thuộc loại ăn thịt những con vật khác: Các người không ăn chúng, những động vật ăn thịt ấy, các người bắt chước chúng; các người chỉ thèm khát những con vật vô tội và hiền lành chẳng làm hại ai, chúng quyến luyến các người, phục vụ các người, và các người ngấu nghiến chúng để đền công cho chúng.

Ôi kẻ tàn sát phản tự nhiên! Nếu ngươi khăng khăng chống chế rằng tự nhiên đã tạo ra ngươi để ăn sống nuốt tươi đồng loại, những thực thể bằng xương bằng thịt, có cảm giác và sống động như ngươi, vậy hãy bóp nghẹt nỗi ghê sợ mà tự nhiên khơi gợt nơi ngươi đối với những bữa ăn gớm guốc đó; tự ngươi hãy giết những con vật ấy, ta bảo là tự chính bàn tay ngươi, không còng sắt không dao phay; hãy xé chúng bằng móng tay người, như hổ như gấu vẫn làm; hãy cắn tan xác con bò kia; hãy cắm sâu móng vuốt của ngươi vào lớp da của nó; hãy ăn tươi nuốt sống con cừu non kia, hãy ngấu nghiến thịt nó còn nóng hổi, hãy uống linh hồn nó cùng vớt máu của nó. Ngươi rung mình ư! Ngươi không dám cảm thấy một da thịt sống động phập phồng nảy giật dưới răng mình! Con người tồi tệ! Ngươi bắt đầu bằng việc giết chết con vật và rồi ngươi ăn nó, như để làm nó chết hai lần. Thế chưa đủ: Thịt chết hãy còn làm ngươi gớm, phủ tạng ngươi không chịu được thịt ấy; cần phải biến hóa nó nhờ lửa, luộc nó, rán nó, nêm các gia vị để thay hình đổi dạng cho nó: Ngươi cần những người hàng thịt, những đầu bếp, những thợ quay thịt, cần những kẻ để cất đi hộ ngươi mối kinh sợ của vụ giết chóc và tô điểm hộ ngươi những hình hài chết, sao cho vị giác, được những trò ngụy trang ấy đánh lừa, không phun ra những gì lạ lùng với nó, và thú vị thưởng thức những thây ma mà ngay con mắt cũng khó chịu đựng được cảnh tượng. “

Mặc dù đoạn trên ở bên ngoài đề tài của tôi, song tôi đã không cưỡng nổi cám dỗ chép ra đây, và tôi nghĩ rằng sẽ ít độc giả không bằng lòng với tôi về điều đó.

Vả lại, dù các vị cho trẻ ăn theo chế độ nào đi nữa, miễn là các vị chỉ tập cho chúng quen với những món ăn thông thường và đơn giản, thì xin cứ để chúng ăn, chạy, chơi đùa tùy thích; thế rồi xin cứ tin chắc rằng chúng sẽ không bao giờ ăn quá nhiều và sẽ không hề bị chứng đầy bụng khó tiêu; nhưng nếu các vị bắt chúng chịu đói một nửa thời gian, và chúng tìm được cách thoát khỏi sự trông nom cẩn thận của các vị, thì chúng sẽ gắng hết sức tự đền bù, chúng sẽ ăn đến no ứ, đến mệt lử. Sự thèm ăn của chúng ta chỉ vô độ bởi vì chúng ta muốn bắt nó theo những quy tắc khác với các quy tắc của tự nhiên; luôn luôn điều chỉnh, quy định, thêm, bớt, ta làm gì cũng với chiếc cân trong tay; nhưng chiếc cân đó phù hợp với các ý ngông của chúng ta, chứ không phù hợp với dạ dày chúng ta. Về chuyện này tôi vẫn cứ trở lại với các thí dụ của mình. Ở nhà những người dân quê, thùng đựng bánh và giá để trái cây bao giờ cũng mở, vậy mà trẻ em, cũng như người lớn, chẳng biết đầy bụng khó tiêu là gì.

Tuy nhiên nếu xảy ra chuyện một đứa trẻ ăn quá nhiều, tôi không tin là với phương pháp của tôi chuyện này có thể xảy ra, thì với các trò vui hợp thị hiếu của nó ta rất dễ khiến nó khuây lãng, thành thử ta sẽ làm được cho nó kiệt sức vì đói lả mà nó chẳng hề nghĩ đến. Làm sao mà những phương kế công hiệu đến thế và dễ dàng đến thế lại bị tất cả các ông thầy bỏ qua? Hérodote kể rằng những người dân Lydie[120], bị một nạn đói cực độ thúc bách, bèn sáng tạo ra các trò chơi và những môn giải trí khác để đánh lừa cái đói, và trải qua những ngày dài trọn vẹn chẳng nghĩ đến ăn[121]. Những ông thầy uyên bác của các vị có lẽ đã đọc đoạn này hàng trăm lần, mà chẳng thấy có thể áp dụng nó với trẻ em. Có lẽ một ông thầy nào trong số đó sẽ bảo tôi rằng một đứa trẻ chẳng vui lòng rời bỏ bữa ăn tối để đi học bài. Thầy có lý đấy: Tôi không nghĩ tới trò vui ấy.

Khứu giác đối với vị giác giống thị giác đối với xúc giác; khứu giác báo trước cho vị giác, bảo cho vị giác biết cách thức mà chất này hay chất nọ ắt sẽ ảnh hưởng đến nó, và chuẩn bị để tìm hay tránh chất ấy, tùy theo cảm tưởng mà người ta nhận trước được. Tôi từng nghe nói những người hoang dã có khứu giác chịu ảnh hưởng một cách rất khác chúng ta, và xét đoán khác hẳn về các mùi thơm và mùi hôi. Về phần tôi, thì tôi tin điều ấy. Bản thân các mùi là những cảm giác yếu; chúng lay chuyển trí tưởng tượng nhiều hơn là giác quan, và gây ảnh hưởng vì những gì chúng đem lại không nhiều bằng những gì chúng khiến người ta chờ đợi. Giả định như vậy rồi, thì thị hiếu của số người này, do cách sống của họ mà trở nên rất khác biệt với thị hiếu của số người khác, ắt phải khiến họ có những phán đoán trái ngược hẳn về các vị, và do đó về các mùi báo trước những vị ấy. Một người Thát Đát ắt phải hít ngửi một miếng thịt ngựa chết hôi thối với niềm thích thú ngang với một nhà săn bắn của chúng ta hít ngửi một con chim trĩ đã rữa phân nửa.

Những cảm giác phù phiếm của chúng ta, thí dụ như được ướp hương thơm của một vườn hoa, ắt phải trơ trơ vô cảm đối với những người đi bộ quá nhiều thành thử chẳng thích đi dạo, và làm việc chẳng đủ nhiều để coi nghỉ ngơi là một khoái lạc. Những người bao giờ cũng đói không thể có niềm thích thú lớn lao trước những mùi hương chẳng báo trước cái gì để ăn hết.

Khứu giác là giác quan của trí tưởng tượng; do đem lại cho thần kinh một trạng thái mạnh hơn, nó ắt phải lay động não rất nhiều chính vì thế mà nó làm tâm tính phấn chấn một khoảnh khắc, và về lâu dài khiến tâm tính suy kiệt đi. Trong tình yêu khứu giác có những tác động được biết khá rõ; hương thơm êm dịu của một phòng trang điểm không phải một cái bẫy yếu ớt như người ta tưởng; và tôi chẳng biết nên ca ngợi hay nên phàn nàn cho con người khôn ngoan và ít nhạy cảm mà mùi những bông hoa tình nương mang trên bầu ngực chẳng bao giờ làm cho hồi hộp.

Vậy khứu giác ắt không hoạt động mạnh trong tuổi ấu niên, ở tuổi này trí tưởng tượng hãy còn ít niềm đam mê làm cho phấn khích, nên không dễ xúc động mấy, và con người cũng chưa có đủ kinh nghiệm để nhờ vào một giác quan mà đoán trước được điều một giác quan khác hứa hẹn. Bởi thế hậu quả này hoàn toàn được sự quan sát khẳng định; và chắc chắn rằng ở đa số trẻ em khứu giác hãy còn trì độn và gần như ngây dại. Chẳng phải là ở trẻ em cảm giác không tinh tế bằng mà có lẽ còn tinh tế hơn ở người lớn, nhưng vì trẻ không kết hợp vào đó một ý tưởng nào hết, nên chúng không dễ dàng bị nhiễm một cảm tưởng thích thú hay buồn khổ, và chúng chẳng thấy vui long hay bị tổn thương vì điều đó như chúng ta. Tôi nghĩ rằng, chẳng ra khỏi hệ thống này, và chẳng nhờ đến giải phẫu học so sánh giữa các giới, ta cũng dễ dàng tìm ra lý do vì sao phụ nữ nói chung chịu ảnh hưởng của các mùi mạnh hơn nam giới.

Người ta bảo rằng những người hoang dã ở Canada từ tuổi thiếu niên đã làm cho khứu giác mình thành tinh vi đến mức, dù có nuôi chó, họ vẫn không thèm dùng chó để đi săn, và tự mình làm chó cho bản thân. Quả thực, tôi hiểu được rằng, nếu người ta dạy trẻ em đánh hơi bữa ăn tối của chúng, như con chó đánh hơi thú săn của nó, thì có lẽ người ta hoàn thiện được khứu giác cho trẻ đến cùng mức độ như thế; nhưng thực ra tôi không thấy người ta có thể khai thác từ giác quan này một sự sử dụng thật hữu ích, nếu chẳng phải là để cho trẻ biết quan hệ của khứu giác với vị giác. Thiên nhiên đã cẩn thận bắt chúng ta phải thông hiểu những quan hệ đó. Thiên nhiên đã khiến cho hoạt động của vị giác hầu như không tách rời hoạt động của khứu giác, bằng cách làm cho hai khí quan của chúng ở gần nhau, và đặt trong miệng một mối lien thông trực tiếp giữa hai khí quan, thành thử ta chẳng nếm thứ gì mà không hít ngửi thứ đó. Tôi chỉ muốn người ta đừng làm biến chất các mối quan hệ tự nhiên này để đánh lừa một đứa trẻ, thí dụ như che đậy vị đắng của một thứ thuốc bằng một hương liệu dễ chịu; vì khi đó tình trạng bất hòa giữa hai giác quan quá lớn thành thử không thể lừa được nó; do giác quan hoạt động hơn hấp thu hết tác dụng của giác quan kia, nên đứa trẻ chẳng bớt ghê tởm khi uống thuốc; niềm ghê tởm này lan ra tất cả các cảm giác tác động đến nó cùng lúc ấy; khi cảm giác yếu ớt hơn xuất hiện, thì trí tưởng tượng khiến nó nhớ lại cả cảm giác kia; hương thơm thật êm dịu chỉ còn là một mùi tởm lợm đối với nó; và chính bằng cách ấy mà các sự dụng tâm vô ý tứ của chúng ta gia tăng tổng số các cảm giác khó chịu làm thiệt hại cho các cảm giác dễ chịu.

Trong những cuốn sách sau tôi còn phải nói đến việc tu dưỡng một loại giác quan thứ sáu, có tên gọi là lương tri thông thường, vì nó là thông thường chung cho tất cả mọi người thì ít hơn vì nó là kết quả của việc sử dụng rất đúng quy tắc các giác quan khác, và nó dạy cho ta biết bản chất các sự vật nhờ sự trợ giúp của tất cả các vẻ bề ngoài của sự vật. Do đó giác quan thứ sáu này không hề có khí quan riêng: Nó chỉ ở trong não, và các cảm giác của nó, thuần túy nội tại, có tên là tri giác hay ý niệm. Chính qua con số các ý niệm này mà tầm quảng bác của kiến thức chúng ta được ước lượng; chính sự rành mạch, sự sáng sủa của các ý niệm ấy làm nên tính đúng đắn của trí tuệ; chính nghệ thuật đối chiếu so sánh các ý niệm này với nhau được gọi là lý tính của con người. Như vậy điều mà tôi gọi là lý tính cảm giác hay lý tính trẻ thơ là tạo nên những ý niệm đơn giản nhờ vào nhiều cảm giác; còn điều mà tôi gọi là lý tính trí tuệ hay lý tính con người là tạo nên những ý niệm phức hợp nhờ vào nhiều ý niệm đơn giản.

Giả định rằng phương pháp của tôi chính là phương pháp của tự nhiên, và tôi không lầm lẫn trong việc áp dụng, thì chúng ta đã dẫn học trò của chúng ta, qua các xứ sở của cảm giác, đến giới hạn của lý tính trẻ thơ: Bước đầu tiên chúng ta sắp bước sang bên kia phải là một bước chân người lớn. Nhưng, trước khi đi vào con đường mới này, chúng ta hãy nhìn một lát con đường mà ta vừa đi hết. Mỗi độ tuổi, mỗi trạng thái của đời sống có sự hoàn hảo thích đáng với nó, có kiểu thành thục riêng của nó. Chúng ta đã thường nghe nói đến một con người trưởng thành; nhưng ta hãy xem xét một đứa trẻ trưởng thành; cảnh tượng này sẽ mới mẻ hơn với chúng ta, và có lẽ không kém phần dễ chịu.

Cuộc đời của những con người đã hết hy vọng thật nghèo nàn và thật thiển cận thành thử, khi ta chỉ thấy cái đang tồn tại, ta chẳng bao giờ xúc động. Chính những ảo tưởng hão huyền tô điểm cho các vật thể có thực; và nếu trí tưởng tượng không thểm một sức mê hoặc vào những gì khiến ta xúc động, thì niềm vui thích khô cằn chỉ giới hạn ở khí quan, và vẫn để trái tim lạnh lẽo. Mặt đất, được điểm trang bằng những báu vật của mùa thu[122], bày ra một sự trù phú mà con mắt ngưỡng mộ: Nhưng niềm ngưỡng mộ này không hề cảm động; nó đến từ suy nghĩ hơn là từ tình cảm. Vào mùa xuân, miền quê gần như trơ trụi còn chưa được gì che phủ, rừng không hề cho bóng mát, lá xanh chỉ vừa mới nhú, thế mà lòng lại cảm động được cảnh đó. Nhìn thiên nhiên tái sinh như vậy, người ta cảm thấy bản thân mình sống lại; hình ảnh của niềm hoan lạc vây quanh ta; những giọt nước mát ngọt ngào, bầu bạn của khoái cảm, luôn sẵn sàng kết hợp với bất kỳ cảm giác tuyệt diệu nào, đã rưng rưng trên bờ mi ta; còn cảnh hái nho tha hồ nhộn nhịp, sống động, dễ thương, bao giờ ta cũng nhìn cảnh ấy bằng con mắt vô tình.

Tại sao có sự khác biệt ấy? Là vì quang cảnh mùa xuân được trí tưởng tượng kết hợp với quang cảnh của những mùa ắt phải theo sau nó; bên những mầm non mà mắt nhìn thấy, trí tưởng tượng thêm vào những hoa, những quả, những bóng cây, đôi khi cả những bí ẩn mà bóng cây có thể che phủ. Trí tưởng tượng tụ hội vào một điểm các mùa sẽ tiếp nối nhau, và nhìn các vật thể như chúng sẽ tồn tại ít hơn là nhằm tưởng tượng mong muốn, bởi lẽ việc lựa chọn những vật thể ấy tùy thuộc trí tưởng tượng. Vào mùa thu, trái lại, người ta chỉ còn cái đang tồn tại để mà nhìn thấy. Nếu ta muốn đến với mùa xuân, thì mùa đông ngăn ta lại, và trí tưởng tượng lạnh buốt tắt thở trên tuyết và sương giá.

Đó là cội nguồn của niềm say mê thú vị khi ta ngắm một tuổi thơ đẹp đẽ hơn là ngâm trạng thái hoàn hảo của tuổi thành niên. Khi nào ta nếm trải một niềm vui thực sự lúc nhìn một người trưởng thành? Đó là khi ký ức về các hành động của người ấy khiến ta thụt lùi trên cuộc đời người ấy, và có thể nói là làm người ấy trẻ lại trước mắt ta. Nếu ta buộc phải xem xét người ấy như người ấy đang là, hoặc phải giả định như người ấy sẽ là ở tuổi già, thì ý nghĩ về bản chất đang suy thoái xóa hết niềm vui nơi ta. Chẳng hề có niềm vui khi nhìn một người sải bước tiến đến nấm mồ của mình, và hình ảnh cái chết làm tất cả xấu xí đi.

Nhưng khi tôi hình dung một đứa trẻ từ mười đến mười hai tuổi, lành mạnh, cường tráng, được rèn luyện tốt đối với tuổi của nó, thì không một ý tưởng nào mà nó làm nảy sinh trong tôi lại không dễ chịu, hoặc về hiện tại, hoặc về tương lai: Tôi nhìn thấy nó sôi nổi, hăng hái, phấn khích, chẳng có ưu tư giày vò, chẳng có niềm lo xa dài dằng dặc và nặng nề, toàn tâm toàn ý cho bản thể hiện tại của mình, và vui hướng một sự sống viên mãn dường như muốn phát huy ra bên ngoài nó. Tôi đoán trước nó ở một độ tuổi khác, sử dụng lương tri, tài trí, các sức lực đang phát triển từng ngày từng ngày, mà mỗi lúc nó lại cho thấy những chứng tích mới mẻ; tôi ngắm nó đang là đứa trẻ, và nó khiến tôi vui lòng; tôi tưởng tượng nó là người lớn, và nó càng khiến tôi vui lòng hơn; nhiệt huyết của nó dường như sưởi nóng máu huyết tôi; tôi tưởng mình đang sống cuộc sống của nó, và sự hăng hái nơi nó khiến tôi trẻ lại.

Giờ học đến, thật là cả một sự biến đổi! Tức khắc mặt nó mờ đi, sự vui vẻ biến mất; giã từ niềm vui, giã từ các trò nô giỡn. Một người nghiêm khắc và cáu kỉnh nắm lấy tay nó, trịnh trọng bảo nó: Này cậu, ta đi thôi, rồi dẫn nó đi. Trong căn phòng họ đi vào, tôi thoáng nhìn thấy những cuốn sách. Những cuốn sách! Cách bày biện buồn tẻ làm sao đối với tuổi của nó! Thằng bé tội nghiệp để cho người ta lôi mình theo, ngoái mắt nhìn nuối tiếc tất cả những gì xung quanh mình, lặng thinh, và ra đi, mặt ứ những giọt lệ mà nó không dám để rơi, lòng đầy những tiếng thở dài mà nó không dám phả ra.

Ôi em, em chẳng có gì tương tự để mà sợ, với em chẳng thời khắc nào trong đời là thời khắc ngại ngùng và buồn chán, em nhìn ngày đến không lo ngại, nhìn đêm đến không nôn nóng, và chỉ đếm giờ khắc bằng các niềm vui thú của mình, hãy lại đây, chú học trò hạnh phúc, dễ thương của thầy, lại đây an ủi chúng ta bằng sự hiện diện của em, về sự ra đi của cậu bé rủi ro kia; hãy lại đây. Nó lại, và tôi cảm thấy, khi nó lại gần, một nỗi vui mừng mà tôi thấy nó cũng chia sẻ. Đây là người bạn của nó, bằng hữu của nó, đây là người cùng chơi đùa với nó mà nó đang đến gần; nhìn thấy tôi, nó tin rất chắc rằng nó sẽ chẳng ở lâu mà không có trò vui; chúng tôi không bao giờ phụ thuộc lẫn nhau, nhưng chúng tôi luôn luôn đồng ý với nhau, và ở với ai chúng tôi cũng không dễ chịu bằng ở cùng với nhau.

Gương mặt nó, tư thế của nó, thái độ của nó, chứng tỏ sự an tâm và niềm hài lòng; sức khỏe rạng ngời trên mặt nó; những bước đi vững chắc đem lại cho nó một vẻ cường tráng; làn da nó, hãy còn mỏng mảnh nhưng không nhạt nhẽo, chẳng có chút gì là nhu nhược ẻo lả; nắng gió đã in lên đấy dấu ấn vẻ vang của giới nó; các bắp thịt hãy còn tròn trịa, bắt đầu làm nổi rõ vài nét của một dung mạo mới hình thành; cặp mắt, mà ánh lửa tình cảm còn chưa làm phấn khích, ít ra cũng còn toàn bộ niềm thanh thản bẩm sinh[123], những buồn đau triền miên còn chưa làm u tối cặp mắt ấy, những giọt lệ không dứt chưa hề hằn vết trên đôi má nó. Hãy xem, trong các động tác nhanh nhẹn nhưng vững chắc của nó, sự hăng hái của lứa tuổi nó, tính độc lập kiên quyết, kinh nghiệm của những cuộc luyện tập gia tăng. Nó có vẻ cởi mở và tự do, nhưng không xấc xược cũng không kiêu căng: gương mặt, dù không bị dính chặt vào sách vở, nên không hề gục xuống bụng; người ta không cần phải bảo nó: Hãy ngẩng đầu lên; không bao giờ sự hổ thẹn hay nỗi sợ sệt làm nó cúi đầu xuống.

Chúng ta hãy dành chỗ cho nó giữa cử tọa: Thưa các vị, xin hãy quan sát nó, hãy hoàn toàn tin tưởng gạn hỏi nó; xin đừng sợ những sự quấy rầy của nó, những lời bẻo lẻo, những câu hỏi vô ý vô tứ của nó. Xin đừng sợ nó túm lấy các vị đòi các vị chỉ quan tâm đến một mình nó, và các vị không làm sao gỡ ra được nữa.

Các vị cũng đang chờ đợi ở nó những lời lẽ đẹp lòng, cũng đừng đợi nó nói với mình những điều tôi xui nó; các vị hãy chỉ chờ đợi ở nó sự thật chất phác và giản đi, không tô điểm, không trau chuốt, không khoe khoang: Nó sẽ nói với các vị điều sai trái nó đã làm hay nó đang nghĩ, hoàn toàn thoải mái như nói về điều hay, chẳng bối rối chút nào về tác động của điều nó nói đối với các vị: Nó sẽ sử dụng lời nói với toàn bộ tính giản dị của chế định ban đầu.

Người ta thích dự đoán tốt đẹp về trẻ em, và người ta luôn luôn phải hối tiếc trước vô số điều ngu xuẩn hầu như luôn lật đổ những hy vọng mà người ta những muốn khai thác từ một câu nói hay ho nào đó tình cờ rơi vào miệng chúng. Nếu thằng bé của tôi ít khi gây những hy vọng như thế, thì nó cũng không bao giờ gây ra nỗi hối tiếc trên; vì nó không bao giờ nói một lời vô bổ, và không nhọc sức cho một tràng bẻo lẻo mà nó biết là chẳng ai nghe. Các ý tưởng của nó thiển cận, nhưng rành rọt; nếu nó không thuộc lòng điều gì, thì nó lại biết rất nhiều điều do kinh nghiệm; nếu nó đọc không giỏi bằng một đứa khác trong sách vở của chúng ta, thì nó lại đọc giỏi hơn trong cuốn sách của thiên nhiên; trí tuệ nó không phải ở miệng lưỡi nó, mà ở trong đầu nó; nó ít trí nhớ hơn là phán đoán; nó chỉ biết nói một ngôn ngữ, nhưng nó hiểu những gì nó nói; và nếu nó nói không giỏi bằng những đứa khác, thì bù lại, nó làm giỏi hơn chúng.

Nó không biết thế nào là lối mòn, lệ thường, tập quán; những gì nó đã làm ngày hôm qua không hề ảnh hưởng đến những gì nó làm hôm nay[124]: Nó không bao giờ theo công thức, và không hề nhượng bộ trước uy quyền cũng như trước tấm gương, mà chỉ hành động chỉ nói năng theo cách nó thấy là thích đáng. Bởi thế các vị đừng chờ đợi ở nó những lời lẽ được truyền phán cũng như những cung cách được sắp đặt, mà bao giờ cũng là sự diễn tả trung thực các ý tưởng của nó và là cách xử sự nảy sinh từ các khuynh hướng của nó.

Các vị thấy ở nó một số ít các khái niệm đạo lý liên quan đến trạng thái hiện tại của nó, mà không một khái niệm nào về trạng thái quan hệ của người lớn: Và những khái niệm này giúp gì cho nó chứ, bởi một đứa trẻ chưa phải là một thành viên hoạt động của xã hội? Các vị hãy nói với nó về tự do, về sở hữu, cả về giao ước nữa; nó có thể hiểu biết được đến đó, nó biết tại sao cái gì của nó là của nó, và tại sao cái gì không phải của nó là không của nó: Vượt quá chỗ đó, nó không biết gì nữa hết. Các vị nói với nó về bổn phận, về sự vâng lời, nó chẳng biết các vị muốn nói gì; các vị sai khiến nó việc gì đó, nó sẽ không hiểu các vị; nhưng các vị hãy bảo nó: Nếu em làm cho thầy vui lòng như thế, thầy sẽ đáp lại em khi có dịp; lập tức nó sẽ sốt sắng chiều lòng các vị, vì nó không đòi hỏi gì hơn là mở rộng lĩnh vực của nó và đạt được đối với các vị những quyền mà nó biết là bất khả vi phạm. Cũng có thể nó không phiền long khi được giữ một vị trí, được dự phần, được kể như có ý nghĩa nào đó; nhưng nếu như có động cơ sau cùng này, thì đó là nó đã ra ngoài tự nhiên rồi, và đó là các vị đã không đóng được cho kín tất cả các cánh cửa của thói khoe khoang.

Về phần nó, nếu nó cần một sự giúp đỡ nào đó, nó sẽ nhờ người nào nó gặp trước tiên không hề phân biệt; nó sẽ nhờ nhà vua cũng như nhờ người hầu cận: Tất cả mà người hãy còn bình đẳng trước mắt nó. Qua thái độ cầu khẩn của nó, các vị thấy là nó cảm nhận rằng người ta không nợ gì mình hết; nó biết điều mình yêu cầu là một ân huệ. Nó cũng biết là lòng nhân từ xui khiến ban ân huệ. Lời lẽ của nó giản dị và ngắn gọn. Giọng nói, ánh nhìn, cử chỉ của nó, là của một người đã quen cả với sự chiều lòng cả với sự từchối. Đó không hề là sự phục tùng luồn cúi và hèn hạ của một nô lệ, cũng không phải giọng điệu hách dịch của một chủ nhân; đó là một niềm tin khiêm nhường ở người đồng loại của mình, đó là sai dịu dàng cao quý và cảm động của một con người tự do, nhưng nhạy cảm và yếu đuối, đang van xin sự trợ giúp của một con người tự do, nhưng mạnh mẽ và có lòng từ thiện. Nếu các vị cho nó những gì nó yêu cầu, nó sẽ không cám ơn các vị, nhưng nó sẽ cảm thấy nó đã mắc một món nợ. Nếu các vị từ chối những gì nó yêu cầu, nó sẽ không hề phàn nàn, nó sẽ không hề nài nỉ, nó biết rằng làm thế sẽ là vô ích. Nó sẽ không hề tự nhủ: Họ đã từ chối mình; mà nó sẽ tự nhủ: Điều đó là không thể được; và, như tôi đã từng nói, người ta ít khi chống đối lại sự tất yếu đã được thừa nhận rõ rệt.

Các vị hãy để nó tự do một mình, hãy nhìn nó hành động mà không bảo gì nó hết; hãy quan sát những gì nó sẽ làm và cách nó làm như thế nào. Vì không cần tự chứng minh rằng mình tự do, nên nó không bao giờ làm một điều gì khinh xuất, và chỉ để tỏ ra là mình có quyền với bản thân; nó lại chẳng biết rằng nó luôn được tự chủ hay sao? Nó nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, thư thái; các động tác của nó mang tất cả tính hăng hái của thời nó, nhưng các vị chẳng thấy một động tác nào là không có mục đích. Dù nó muốn làm gì đi nữa, nó cũng sẽ không bắt tay vào một việc quá sức nó, vì nó đã thử thách kỹ và biết rõ sức lực của mình, các phương tiện của nó sẽ luôn luôn thích ứng với các dự định của nó, và nó sẽ ít khi hành động mà không chắc chắn thành công.. Nó sẽ có con mắt chăm chú và chính xác; nó sẽ không ngốc nghếch đi hỏi han những người khác về tất cả những gì nó trông thấy; mà nó sẽ tự xem xét và sẽ mệt nhọc để tìm ra những gì nó muốn biết, trước khi hỏi. Nếu nó rơi vào những trắc trở bất ngờ, nó sẽ ít bối rối hơn một đứa trẻ khác; nếu có sự nguy hiểm, nó cũng sẽ ít hoảng sợ hơn. Vì trí tưởng tượng của nó hãy còn chưa hoạt động, và vì người ta chưa làm gì để kích thích trí tưởng tượng ấy, nên nó chỉ thấy cái gì đang tồn tại, chỉ đánh giá các mối nguy hiểm đúng như chúng đáng giá, và bao giờ cũng giữ được bình tĩnh. Sự tất yếu đè nặng lên nó quá thường xuyên thành thử nó không còn kháng cự lại nữa; nó mang cái ách này từ khi ra đời, giờ đây nó đã rất quen rồi; nó luôn sẵn sàng chịu đựng mọi sự.

Dù nó bận việc hay nó chơi đùa, cả hai điều đều như nhau đối với nó; các trò chơi của nó là các công việc của nó, nó không cảm thấy có sự khác biệt nào ở đó. Nó đặt vào tất cả những gì nó làm một mối quan tâm khiến ta bật cười và một sự tự do khiến ta vui thích, bằng cách biểu lộ đồng thời khí thế của nó và phạm vi hiểu biết của nó. Chẳng phải là cảnh tượng của tuổi ấy, một cảnh tượng dễ thương và êm ái hay sao, khi nhìn thấy một đứa trẻ xinh xắn, ánh mắt sắc sảo và vui tươi, dáng vẻ hài lòng và thanh thản, diện mạo cởi mở và tươi cười làm những điều nghiêm túc nhất trong lúc nô đùa, hoặc chú tâm sâu xa vào những trò chơi tầm phào nhất?

Bây giờ các vị có muốn xét đoán nó bằng sự so sánh không? Hãy để nó lẫn vào những đứa trẻ khác, và để nó hành động. Các vị sẽ thấy ngay đứa nào được thực sự rèn luyện hơn cả, đứa nào đến gần hơn cả sự hoàn hảo của lứa tuổi chúng. Trong đám trẻ thành thị, không đứa nào khéo léo hơn nó, nhưng nó khỏe hơn bất cứ đứa nào. Trong đám trẻ thôn quê, nó ngang bằng chúng về sức lực và vượt chúng về sự khéo léo. Trong tất cả những gì vừa tầm với tuổi thơ, nó phán đoán, nó lập luận, nó tiên đoán giỏi hơn hết thảy bọn trẻ. Có vấn đề vận động, chạy, nhảy, lay chuyển các vật thể, nhấc lên các khối, ước lượng các khoảng cách, bày đặt ra các trò chơi, giành các giải thưởng chăng? Cứ như thể tạo vật theo lệnh nó, vì nó biết dễ dàng khiến mọi điều phục tùng ý muốn của nó. Nó được tạo ra để hướng dẫn, để chỉ huy những người đồng đẳng với mình: Ở nó, tài năng, kinh nghiệm thay thế cho quyền hạn và uy lực. Các vị cứ cho nó y phục và tính danh nào tùy ý, điều đó không mấy quan trọng, ở đâu nó cũng sẽ vượt bậc, ở đâu nó cũng sẽ trở thành chỉ huy của các trẻ khác; chúng sẽ luôn cảm thấy ưu thế của nó đối với chúng; dù không muốn điều khiển, nó vẫn sẽ là chủ nhân; dù không nghĩ là mình vâng lời, chúng vẫn sẽ vâng lời.

Nó đã đi tới độ chín của tuổi thơ, nó đã sống cuộc sống của một đứa trẻ, nó đã không hề mua sự hoàn hảo của mình mà làm thiệt hại cho hạnh phúc của mình; trái lại, hai điều ấy đã giúp đỡ lẫn nhau. Trong khi đạt được toàn bộ lý trí của tuổi nó, nó đã được hạnh phúc và tự do đến hết mức mà thể chất nó cho phép. Nếu lưỡi hái tiền định đến gặt đi ở nó tinh hoa của những kỳ vọng nơi chúng ta, thì chúng ta sẽ không phải vừa khóc cho cuộc sống vừa khóc cho cái chết của nó, chúng ta sẽ không làm cho những nỗi đau của mình thành chua xót và hồi tưởng lại những nỗi đau do mình gây ra cho nó; chúng ta sẽ tự nhủ: ít ra nó đã vui hưởng tuổi thơ của nó; ta đã không làm nó bị mất đi chút nào về những gì mà tạo hóa đã ban cho nó.

Điều bất tiện lớn của sự giáo dục đầu tiên này là sự giáo dục ấy chỉ rõ rệt với những người sáng suốt, và ở một đứa trẻ được giáo dục với bao công sức lo toan như vậy, những con mắt tầm thường chỉ nhìn thấy một thằng ranh tinh nghịch. Một gia sư nghĩ đến lợi ích của mình nhiều hơn đến lợi ích của đồ đệ mình; ông ta chuyên chú chứng tỏ rằng mình không hoài phí thì giờ, và mình xứng đáng kiếm đồng tiền mà người ta trả cho mình; ông cung cấp cho học trò một học vấn dễ phô trương và có thể bày ra khi nào muốn; điều ông dạy nó hữu ích không quan trọng, miễn là điều ấy dễ nhìn thấy. Ông chất chứa, không chọn lọc, không phân biệt, hàng trăm đống lộn xộn trong trí nhớ của nó. Khi vấn đề là sát hạch đứa trẻ, thì người ta cho nó bày hàng hóa của nó ra; nó phô trương hàng hóa, mà người hài lòng; sau đó nó xếp lại kiện hàng, và ra đi. Học trò của tôi không giàu có đến thế, nó không hề có kiện hàng để bày ra, nó chỉ có bản thân nó để phô bày thôi. Mà một đứa trẻ, cũng như một người lớn, không tự bộc lộ trong một khoảnh khắc. Đâu là những nhà quan sát biết nắm bắt qua cái nhìn đầu tiên những nét đặc trưng cho tính cách nó? Có những người như thế, nhưng ít; và trên mười vạn ông bố, sẽ chẳng có được một ông trong số người này.

Các câu hỏi quá nhiều gây phiền muộn và chán ngán cho tất cả mọi người, huống hồ là trẻ em. Sau vài phút, sự chú ý của chúng mệt mỏi, chúng chẳng nghe điều mà một người hay lục vấn đang hỏi chúng nữa, và chỉ còn trả lời lếu láo gặp chăng hay chớ. Cái cách sát hạch trẻ như thế là vô bổ và thông thái rởm; nhiều khi một lời lẽ chợt nghe được lại diễn tả ý thức và trí tuệ của trẻ rõ hơn những diễn ngôn dài dòng; nhưng cần lưu ý để lời lẽ đó không phải được truyền bảo cũng không phải là tình cờ. Bản thân ta cần có rất nhiều sức phán đoán để đánh giá sức phán đoán của một đứa trẻ.

Tôi từng được nghe ngài Hyde quá cố kể lại rằng một ông bạn của ngài, từ nước Ý trở về sau ba năm vắng nhà, muốn khảo sát sự tiến bộ của cậu con trai chừng chín đến mười tuổi. Một buổi chiều các ngài đi dạo cùng cậu bé và thầy giáo của cậu tại một dải đồng bằng nơi các tiệc sinh đang chơi thả diều. Ông

bố bảo con khi đi qua: Chiếc diều có cái bóng này ở đâu nhỉ. Không ngần ngừ, không ngẩng đầu, cậu bé bảo: Trên đường cái lớn. Và quả thật, ngài Hyde nói thêm, đường cái lớn ở giữa Mặt trời và chúng tôi. Nghe lời nói ấy, ông bố ôm hôn con trai, kết thúc cuộc khảo sát ở đó, và bỏ đi chẳng nói năng gì. Ngày hôm sau ông già cho thầy giáo chứng thư về một khoản phụ cấp suốt đời ngoài số tiền lương.

Ông bố ấy là con người đặc biệt biết chừng nào! Và ông sẽ có được cậu con trai đặc biệt biết chừng nào! Câu hỏi thật đúng với lứa tuổi: Câu trả lời rất giản dị; nhưng hãy xem có câu trả lời ấy tất phải có một sức phán đoán trẻ thơ minh xác biết chừng nào! Chính bằng cách ấy mà người học trò của Anstote thuần dưỡng được con tuấn mã chưa một kỵ sĩ nào từng chế ngự nổi[125].


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.