Nước Nhật mua cả thế giới

I – Phần 2



Các cỗ pháo ngoại bang phá toang những cửa khẩu Nhật Bản

Trên thực tế, không một ai có thể giải thích được các bước phiêu lưu đen tối của Nhật Bản từ sau những năm 30 chỉ bằng một vài luận điểm nặng tính chỉ trích. Để hiểu, cần phải trở lại một chút với lịch sử. Từ thế kỷ thứ VII, Nhật Bản đã mang dáng dấp một xã hội tinh tế được cai trị bằng luật pháp. Bộ luật Taiho đã có hiệu lực trong một thời gian rất dài: từ năm 701 đến năm 1885. Biểu tượng cho sự thống nhất nhà nước và sự trường cửu của dân tộc Nhật là một “Thiên hoàng”, người có uy quyền tuyệt đối trên các thần dân của mình. Theo mô hình Trung Hoa và do ảnh hưởng sâu đậm của Khổng giáo, nước Nhật đã có cả một hệ thống các trường trung học và đại học chuyên đào tạo các quan chức nhà nước và quan lại địa phương. Từ đó, hệt như một con sò, quần đảo Nhật Bản đã đóng chặt cửa với thế giới bên ngoài trong suốt nhiều thế kỷ. Từ thế kỷ thứ XIX, nước Nhật đã bước vào giai đoạn cải cách rất thức thời. Bởi vì sự cô lập khiến cho nước Nhật lạc hậu khủng khiếp so với thế giới Tây phương đến mức, vào năm 1543, xứ sở Mặt trời mọc đã phải hoảng hốt trước một khẩu đại bác trên con tàu Bồ Đào Nha. Sau đó, vào năm 1853, nước Nhật đã lại một lần khiếp nhược khi các cỗ pháo Hoa Kì và Anh phá toang các cửa khẩu để đòi Nhật Bản mở cửa giao thương với thế giới bên ngoài.

Năm 1859, ba cửa khẩu đã được mở ra cho Anh, Pháp, Hà Lan, Nga và Hoa Kỳ. Nhưng đó cũng chính là lúc chấm dứt chế độ tướng quân Tokugawa vốn ngự trị ở Nhật từ hơn 250 năm trước, và là lễ đăng quang cho thời đại Minh trị. Trước mỗi đe dọa của ngoại bang dọc theo bờ biển, Nhật Bản đứng trước một sự lựa chọn khó khăn. Ở Tokyo, người ta đã sớm hiểu rằng chống chọi với sức mạnh quân sự và kĩ thuật của phương Tây là điều vô ích. Điều đó, không nghi ngờ gì nữa, sẽ dứt khoát dẫn đến thảm họa. Dưới áp lực của ngoại bang, cả hai hoàng đế Nhật và Trung Hoa đều đã phải đi đến cùng một quyết định: mở cửa. Nhưng giữa Trung Hoa và Nhật Bản lại có một sự khác biệt căn bản: nước Trung Hoa với trật tự ngàn xưa bị phá vỡ vĩnh viễn bởi sự xuất hiện của người Tây phương, đã không bao giờ biết thích nghi với thế giới bên ngoài. Nhật Bản, ngược lại, đã quyết định từ bỏ thái độ cố chấp và tìm cách khai thác những tinh túy của phương Tây. Để giữ lấy bản sắc dân tộc và tâm hồn tổ quốc, Minh Tri Thiên Hoàng đã cho rằng cần giới hạn tối đa sự hiện diện của ngoại bang trên đất Nhật. Để làm được điều đó, nước Nhật cần phải hùng mạnh để xóa bỏ sự cách biệt về quân sự, khoa học và kĩ thuật so với các nước ngoại bang. Cần phải làm sao để nước Nhật cũng hùng cường như họ và có đủ sức để chống lại họ. Nhưng, để thực hiện được điều này, xã hội Nhật Bản cần phải được cách tân và thu thập mọi kiến thức tốt nhất của phương Tây.

Lập tức, Minh Trị quyết định bãi bỏ chế độ đẳng cấp, nền tảng của chế độ phong kiến. Các võ sĩ đạo không còn chủ để mà phục vụ. Họ trở thành những cán bộ mới của nước Nhật hiện đại: giáo sư, luật sư, viên chức cao cấp, nhà quản lý. Nhiều phái đoàn Nhật Bản được cử sang châu Âu và Mỹ để nghiên cứu tinh hoa của các nên văn minh này. Các phái đoàn ấy đã trở về với những kiến thức quý báu, đã được chọn lọc, phân tích, so sánh. Nước Nhật không sao chép. Nó chỉ thu nhận, tiêu hóa, biến đổi và thích ứng với những gì phù hợp với mình. Nhật Bản đã mô phỏng hệ thống giáo dục của Pháp, mô hình hải quân Hoàng gia Anh. Một bộ luật dân sự mới được soạn thảo chủ yếu từ bộ luật của Đức và luật hình sự của Pháp. Nhật Bản đã nhanh chóng thiết lập một thứ chủ nghĩa dân tộc không phục vụ cho cá nhân như ở phương Tây, mà phục vụ cho dân tộc và ở một chừng mực nhất định, cho tập thể. Đó không phải là chủ nghĩa tự do, mà đúng hơn, là chủ nghĩa gia trưởng độc quyền. Với một nền quân chủ lập hiến và một bộ máy nhà nước hiệu quả, nước Nhật đã bước vào thời kì phát triển rực rỡ.

Bài học của Nhật Bản là cần biết chọn lựa những công cụ cụ thể của một nhà nước Tây phương hiện đại mà không hề làm biến dạng tinh thần Nhật Bản. Phương châm này, cho đến tận ngày nay, vẫn giữ nguyên giá trị. Nước Nhật, cường quốc kinh tế, chàng khổng lồ về tài chính, nhà vô địch về kĩ thuật…, bên trong lớp sơn Tây phương, vẫn tiếp tục là một quốc gia với những truyền thống dân tộc mạnh mẽ. Chớ nên lầm lẫn: nước Nhật vẫn luôn xa lạ với thứ văn minh của Mac Donald. Bởi lẽ, bất chấp những xu hướng mới của giới trẻ, tâm hồn Nhật Bản vẫn hầu như không thay đổi trong đa số người Nhật.

Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi vốn đã dẫn nước Nhật đến sự bại trận phải chăng là một định mệnh của lịch sử? Từ lâu trong lịch sử, nước Nhật đã nuôi dưỡng một thứ mặc cảm tự ti trước để quốc Trung Hoa rộng lớn và hùng mạnh. Mặc cảm ấy đã tạo ra một thứ phản xả tự về và cô lập, mang đậm màu sắc dân tộc chủ nghĩa. Vậy phải chăng cú sốc phương Tây vào cuối thế kỷ XIX đã gây ra những phản ứng tương tự trong giới lãnh đạo ở Tokyo? Sáu mươi năm sau thời Minh Trị và thời kì mở đầu xây dựng một nước Nhật hiện đại, sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc lại đã mở đường cho những người chủ trương đóng cửa (sakoku) giành thắng lợi. Những người này tán thành việc tống cổ bọn “man di” ra khỏi đất nước và đối nghịch hẳn với khuynh hướng ngược lại là mở cửa (kaikoku) và quốc tế hóa nước Nhật. Năm 1872, Hinomaru lá cờ Nhật Bản khi được đưa ra, vốn được dân chúng ngưỡng mộ như một biểu tượng của mặt trời mọc lại như tỏa sáng trên toàn thế giới. Hình tượng Hinomaru đã cuốn hút người Nhật như một thứ bùa mê và hướng họ tới những xu hướng dân tộc và bài ngoại dữ dội nhất. Năm 1888, bài quốc ca đã được đưa vào Hiến pháp. Đó là bài Kimigayo, “Triều đại của hoàng đế.” Năm 1890, nước Nhật đã chọn lễ Kigensetsu làm ngày quốc khánh. Lễ này kỷ niệm việc lên ngôi của Jimmu, vị hoàng đế đầu tiên của Nhật Bản, vào năm 660 trước công nguyên. Đó là những biểu tượng. Còn việc lên ngôi của hoàng đế Showa (Hirohito) vào năm 1926 đã đánh dấu việc chuyển hướng nhanh chóng của nước Nhật sang chủ nghĩa quân phiệt và phát xít, vốn đã đẩy đất nước xuống vực thẳm.

Đầu năm 1945, đế quốc bại trận này đã lâm vào tình trạng tuyệt vọng. Hơn một trăm thành phố chỉ còn là những đống tro tàn. Từ mùa xuân, Tokyo đã bị dội bom liên tục. Ngày 9 tháng 3, chỉ trong một đêm, nhiều quận đã bị san bằng. Trong vài giờ, 700.000 quả bom lửa đã được các máy bay B-29 của Hoa Kỳ ném xuống Tokyo. Dân chúng đã hoài công vô ích để dập tắt ngọn lửa; chỉ một quả bom thôi cũng đủ biến các ngôi nhà gỗ Nhật Bản thành than trong vài phút. Ngày 10 tháng 3 lại đến phiên Nagoya. Ngày 14, Osaka. Ngày 17, Kobe. Ngày 18, các máy bay dội bom của Hoa Kỳ đã tiến công cụm đảo Kyushu và Shikoku. Ngày 14 tháng 5 là trận dội bom thứ hai xuống Nagoya. Ngày 24 tháng 5, Tokyo lại rực cháy và tiếp tục đỏ lửa suốt hai đêm 25 và 26. Trong ba ngày, 8.500 tấn bom Mỹ dội xuống thành phố này. Ngày 28 tháng 5, đến phiên thành phố cảng Yokohama rực lửa. Giới quân sự Nhật Bản thay vì chịu khuất phục, lại đã động viên dân chúng vào một cuộc tự sát tập thể.

Ngày 6 tháng 8, lúc 8 giờ 16 phút, cuộc chiến leo thang đến đỉnh cao của sự kinh hoàng: Hiroshima đã bị xóa sổ trên bản đồ chỉ trong vài giây. “Little Boy”, một quả bom uranium 235 đã được ném xuống thành phố 320.000 dân này từ một chiếc máy bay B-29. Trong một tích tắc sau đó, cả thành phố đã biến thành tro bụi. Ba phút sau, trái nấm nguyên tử đã dâng cao lên bầu trời đến 10.000 mét. Ngày 9 tháng 8, lúc 11 giờ 02 phút, “Fat Man” – một quả bom plutonium 22 kilotonne – đã tàn phá cả thành phố Nagasaki. Sau này, Tom Ferebee, người đã nhấn nút thả trái bom xuống Hiroshima đã tuyên bố: “Đó là một việc phải làm và người ta đã làm.” Theo tổng kết chính thức mới đây của chính phủ Nhật,[2] hai quả bom này đã giết chết cả thảy 295.956 người. 38.000 người đã bị giết ngay tại chỗ. Những người khác, những hibakusha (nạn nhân của bom), đã bị chết sau đó do những căn bệnh ghê rợn. Khoảng 10.000 người trong số các hibakusha nhiều năm sau đó, đã chết dần chết mòn bởi chứng ung thư và các căn bệnh khác gây ra do nhiễm phóng xạ. Vào lúc đó, tổng thống Mỹ Harry Truman và chính phủ của ông ta đã bào chữa cho việc sử dụng bom nguyên tử bằng cách nói rằng các quả bom này đã cứu mạng sống cho từ 500.000 đến 1 triệu người Mỹ nhờ buộc được Nhật Bản phải đầu hàng ngày tức khắc. Hiệp định ngừng bắn được ký ngày 15 tháng 8.

[2] Điều tra do Bộ Y tế Nhật công bố ngày 16 tháng 5 năm 1990.

Bản tống kết chiến tranh

Tổng kết của 44 tháng chiến tranh thật khủng khiếp: Nhật Bản thừa nhận có 657.000 binh lính bị thiệt mạng. Hoa Kỳ ước tính con số thực thụ lên đến 1,2 triệu quân nhân và 600.000 thường dân bị chết. Nếu tính số người chết trong toàn bộ hoạt động quân sự của Nhật ở châu Á từ đầu những năm 30 thì chỉ riêng Trung Hoa đã có nhiều triệu người bị chết. Chính phủ Trung Hoa ước tính có khoảng 20 triệu người chết (cả quân nhân lẫn thường dân) do cuộc xâm lược của Nhật Bản ở nước này. Con số này đã bị Tokyo bác bỏ. Dù sao, bà Takako Doi, chủ tịch Đảng Xã hội Nhật Bản cũng đã khẳng định vào tháng 5 năm 1990, rằng cuộc chiến Thái Bình Dương đã làm chết hơn 20 triệu người.[3]

[3] Phỏng vấn của báo Asahi Shimbun ngày 14 tháng 5 năm 1990.

Phải mất nhiều năm sau đó, dân chúng Nhật mới hiểu được đầy đủ những nỗi đau khổ mà đất nước họ đã gây ra cho châu Á. Ngay hiện nay, đề tài này vẫn tiếp tục là điều cấm kỵ và các thông tin về những năm tháng khủng khiếp ấy rất khó thu thập. Cuộc xám hối tập thể của dân tộc Nhật Bản vẫn còn chưa kết thúc. Những con quỷ vẫn chưa hoàn toàn bị trừ khử. Những chấn động đã để lại các dấu vết không thể tẩy xóa nổi. Những vết thương lại đột ngột bị tấy lên vào tháng 8 năm 1990, nhân việc thảo luận về việc gửi quân Nhật sang Trung Đông để cùng các nước trong liên quân buộc Irak rút khỏi Koweit. Sau chiến tranh, nước Nhật đã cam kết vĩnh viễn không sử dụng vũ lực để giải quyết các xung đột quốc tế. Phải chăng người Nhật đã xét lại lời thế của mình? Ngày 6 tháng 11 năm 1990, một cuộc thăm dò dư luận đã cho thấy một đa số áp đảo đến 78 % người Nhật chống lại việc sửa đổi Hiến pháp và cho phép gửi các lực lượng “phòng vệ” ra nước ngoài.

“Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, Nhật Bản đã gây ra những tai họa thảm khốc cho biết bao quốc gia đến mức chúng tôi không bao giờ có thể xin lỗi họ cho đủ. Sau những thể nghiệm như thế, chúng ta vĩnh viễn không thể tự cho phép hướng mũi súng của mình ra nước ngoài, dù là để chống lại người Irak.[4] Đó là tuyên bố của Michiko Goto, ứng cử viên Đảng Xã hội tại Quốc hội Nhật Bản.

[4] New York Time, ngày 4-11-1990.

Năm 1945, các thành phố Nhật Bản là cả một cảnh tượng bi thảm.

“Ông hỏi tôi về tình trạng của Tokyo ư? Để tôi kể cho ông nghe chuyện này. – Guillain nói – Tòa nhà của Sứ quán Pháp đã bị thiêu rụi. Tòa nhà này cũng tương đối nhỏ thôi, thế mà một mình nó đã phải chịu những 35 quả bom! Nó bốc cháy và chỉ còn lại một căn hầm dưới đất, nơi trú ẩn của một nhân viên làm bếp của chúng tôi. Ông ta đã ở đó với hàng tá đồ hộp dự trữ. Từ nhà ga Ueno, tôi đã phải đi bộ một quãng đường năm cây số mới đến được sứ quán. Quận Azabu nằm trên một ngọn đồi, nơi đặt sứ quán và nơi trước đây đã mọc lên những ngôi nhà san sát nằm dọc những khu phố hẹp. Khi đến đó, giữa các ngôi nhà đổ nát và ngay trên con đường mà tôi từng đi lại hàng ngàn lần… tôi đã lạc đường. Không một thứ gì còn đứng vững ở đây cả. Một lần khác, tôi đã đi đến Yokohama. Để đến đó, tôi phải băng qua suốt Tokyo từ Bắc đến Nam. Để đi như thế, tôi đã phải mất hai giờ trên xe Jeep và suốt quãng thời gian đó tôi thấy không còn một ngôi nhà nào cả. Tất cả, tuyệt đối tất cả, đều bình địa.”

Về những lợi ích mà Nhật Bản tự cho rằng đã mang lại cho khối “Đại thịnh vượng” ở châu Á, quả cũng phải nói rằng, trong một vài trường hợp, các viên chức Tokyo đã có thực hiện một số thay đổi. Họ thậm chí còn thiết lập cả một số cơ sở cho công nghiệp hóa. Cho nên, ở Đài Loan, số người Hoa lớn tuổi thường không mấy gay gắt khi hồi tưởng lại thời kì thống trị của Nhật Bản. Sự thống trị này đã đem lại trật tự cho chính quyền sở tại và Đài Loan đã được hưởng những lợi lộc của một chính sách phát triển kinh tế nói chung là tích cực. Ở đây, người Nhật đã không tiến hành những hoạt động khủng bố như ở Trung Hoa lục địa. Tuy nhiên, ở những nơi khác, ký ức về hành động vơ vét của quân đội Nhật vẫn còn rất đậm nét. Dần dần, những chuyện ấy cũng đã được dân chúng Nhật biến đến. Các phóng viên Nhật Bản muốn phá vỡ bức tường im lặng, đã lên đường săn lùng các tài liệu và nhân chứng cho một giai đoạn lịch sử mà rõ ràng chính quyền Tokyo cố tình bưng bít.

Một nữ đạo diễn trẻ người Nhật, Noriko Sekiguchi, đã dành năm năm sống ở Papua-Tân Guinée để tìm hiểu sự thật về một trong những khía cạnh chưa được biết đến trong cuộc chiến Thái Bình Dương. Noriko Sekiguchi đã công bố một tài liệu mang tên “Những cô gái thời chiến” mà, ngay khi vừa được tung ra vào tháng 4 năm 1990 đã gây nên một cuộc bút chiến gay gắt. Cô đã thuật lại câu chuyện về hàng chục ngàn thiếu nữ Triều Tiên và Nhật Bản bị bắt cóc và cưỡng ép đến những ngôi nhà đóng kín, được canh gác kĩ lưỡng bởi những người lính Nhật. Các cô gái bị bắt đi đều hãy còn trinh để tránh bị bệnh hoa liễu. Họ được đưa đến từ các tàu chiến và bị đối xử như một món hàng thô thiển. Các cô gái Nhật được dành cho sĩ quan, còn các cô gái Triều Tiên thì được giao cho binh lính. Trước khi chết ít lâu, một bác sĩ từng chứng kiến những cảnh tượng này đã thuật lại cho Noriko Sekiguchi biết khách sạn Cosmopolitan của Rabaul ở Papua – Tân Guinée đã bị biến thành một nhà chứa lớn nhất của Nhật Bản ở Nam – Thái Bình Dương. Giá một lần đi khách là hai yên. Mỗi quân nhân Nhật đều có một ca-pốt, bên trên có ghi dòng chữ “Hãy chọc thủng những phòng tuyến đầu tiên.” Mỗi khách chơi đều không được ở quá ba mươi phút với gái điếm, và buộc phải đi ra ngay sau khi xuất tinh nếu không muốn bị “kỷ luật quân sự.”

Đối với Triều Tiên, cuộc đô hộ của Nhật Bản đã để lại những vết thương vô cùng sâu sắc. Trong những lần đến Nam và Bắc Triều Tiên, trái tim tôi đã se lại trước cảnh tượng một nền văn minh với bao kì công tuyệt đẹp đã bị phá hủy bởi quân đội Nhật hoàng trong thời gian từ 1910 – 1945. Trong toàn bộ lịch sử của mình, Triều Tiên chưa bao giờ biết đến một tai họa khủng khiếp đến như vậy. Trong giai đoạn đó, hơn hai triệu người Triều Tiên đã bị bắt sang Nhật làm khổ sai trong các phân xưởng để đóng góp cho tiềm lực chiến tranh của Nhật Bản. Do đó, có gì đáng ngạc nhiên khi hầu hết những người Triều Tiên ở lứa tuổi có thể nhớ được, đều nuôi trong lòng một sự nghi ngờ sâu sắc, nếu không muốn nói là một thái độ thù địch công khai, đối với Nhật Bản?

Ngày 15 tháng 8 năm 1945, thời đại của chủ nghĩa đế quốc quân phiệt Nhật đã chấm dứt. Đế chế Nhật Bản đã phải từ bỏ những dự định điên rồ của mình. Liệu có cần nhắc lại những vết nhục nhã sâu sắc của người Nhật?

“Một cảm giác thua cuộc hoàn toàn, thất bại tuyệt đối đã bao trùm lên nước Nhật. – Guillain nhấn mạnh – Nhưng cảm giác ấy cũng lại đi kèm với cả những tiếng thở dài thoát nạn: chiến tranh đã chấm dứt. Đã chấm dứt những cuộc không tập khủng khiếp và chấm dứt luôn những đạo quân chết tiệt. Cuối cùng, người Nhật đã hiểu rằng mình đã bị lừa dối. Và họ đã lâm vào cảnh nghèo khổ và đói kém trong một thời gian dài.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.