Tình Yêu Thời Thổ Tả
Chương 13
Có một đêm, sau khi đi dạo trở về cô cảm thấy xốn xang, trước một sự thật hiển nhiên: người ta có thể sống hạnh phúc không cần đến tình yêu kể cả khi cưỡng lại tình yêu. Sự thật hiển nhiên ấy khiến cô phải ngạc nhiên bởi vì một trong số những cô chị em họ đã nghe lỏm được cuộc nói chuyện giữa cha mẹ cô ta với Lôrenxô Đaxa. Trong cuộc nói chuyện ấy, Lôrenxô Đaxa định gả con gái mình cho một thanh niên, người thừa kế gia sản kếch xù của gia đình. Clêophat Môxcôtê. Phecmina Đaxa có biết chàng ta. Cô từng nhìn thấy chàng ta luyện đàn ngựa tuyệt vời trên quảng trường, chàng ta điệu bộ và điển trai, có mái tóc thơ mộng phủ xuống trước trán từng khiến đá cũng phải mủi lòng, nhưng cô đã so sánh chàng ta với hình ảnh Phlôrêntinô Arixa ngồi trước bóng những cây hạnh đào ở vườn hoa, nghèo và rách rưới, với cuốn sách thơ để trước mặt, và cô không tìm thấy trong trái tim mình một mảy may bóng tối cũng như lòng hoài nghi trước tình yêu của hai người, cậu và cô.
Trong những ngày ấy, Hiđêbranda Sanchêt đi lại mà người cứ ngây ngấy sướng vui trước những ảo tưởng sau chuyến đi thăm một bà thầy bói mà cái tài bói toán của bà ta từng khiến cô phải ngạc nhiên. Hoảng hốt trước những mưu toan của của cha mình, Phecmina Ðaxa cũng đến nhờ bà ta xem hậu vận cho mình. Quân bài đã mách cho cô biết rằng trong tương lai của mình cô sẽ không gặp bất kỳ một trắc trở nào để xây dựng cuộc sống vợ chồng dài lâu và hạnh phúc và thế là cô hoàn toàn yên lòng với lời đoán số ấy, bởi vì cô vẫn không dự tính được rằng một số phận cực kỳ may mắn kia chỉ có thể có được với một người đàn ông hoàn toàn khác hẳn với người cô đang yêu tha thiết. Hân hoan trước niềm tin ấy cô hoàn toàn sống theo sở nguyện của mình. Cô sống như vậy còn vì mối liên hệ giữa cô với Phlôrêntinô Arixa bằng điện tín đã trở thành một bản giao hưởng những dự định và những lời ước hẹn tốt đẹp và chính điều đó đã khiến cô lại trở nên một cô gái điềm đạm và hoạt bát hơn bao giờ hết. Hai người cùng định ngày, cùng sắp đặt các hình thức, cùng lo lắng cho cuộc sống mai sau của mình với một quyết tâm chung: sẽ cưới nhau ngay sau khi họ gặp lại, mà không cần phải xin ý kiến ai, mà không cần biết ở đâu và sẽ sống như thế nào. Phecmina Đaxa rất tôn trọng lời hẹn ước ấy đến mức trong cái đêm cha cô cho phép cô đi dự một buổi khiêu vũ của nam nữ thanh niên tại làng Phôxêca thì cô áy náy thấy mình không đứng đắn nếu như đi dự khiêu vũ mà không được sự đồng tình của người yêu. Ðêm ấy, Phlôrêntinô Arixa ở khách sạn đang chơi bài cùng với Lôtariô Tugut thì được người ta báo cho biết cậu có điện tín khẩn cấp.
Ðó là điện tín gọi từ bưu điện Phôxêca được nối qua bảy bưu cục trung chuyển để Phecmina Ðaxa xin phép cậu được đi dự buổi khiêu vũ đầu tiên của đời cô. Nhưng khi nhận được tín hiệu của cậu rồi, cô vẫn không bằng lòng với lời đáp đồng ý một cách đơn giản mà còn yêu cầu một bằng chứng tỏ rằng quả thật Phlôrêntinô Arixa là người đang ấn cần manip ở đầu dây bên kia. Với tâm trạng mừng ít mà ngạc nhiên nhiều hơn, cậu truyền đi một câu nói đích thực của mình “Hãy nói với cô ấy rằng tôi xin thề trước nữ thiên thần được tấn phong”. Phecmina Ðaxa nhận ra ngôn ngữ của cậu và thế là đêm ấy cô dự khiêu vũ đến lúc bảy giờ sáng ngày hôm sau khi cần phải thay y phục để đi dự lễ misa. Ở thời kỳ ấy, dưới đáy hòm của mình, cô có số thư và điện tín nhiều hơn số thư mà cha cô đã tước mất, cô cũng tự rèn tập để có được phong độ một người phụ nữ đã có chồng. Lôrenxô Đaxa giải thích những thay đổi đột biến trong cung cách ứng xử của con gái như là một bằng chứng hiển nhiên tỏ rằng thời gian và sự xa cách đã khiến cô gái từ bỏ những ý nghĩ quái đản của tuổi trẻ trong tình yêu, nhưng không bao giờ ông nói cho cô biết kế hoạch của ông trong việc dựng vợ gả chồng cho cô. Trong không khí lãnh đạm mà cô tạo ra giữa hai cha con kể từ khi ông đuổi bà cô Excôlaxtica đi, quan hệ giữa hai cha con đã bớt căng thẳng và điều đó cho phép cha con cô chung sống hết sức êm đẹp đến mức không một ai có thể nghi ngờ rằng cuộc sống ấy không dựa vững chắc trên cơ sở tình thương yêu.
Đó cũng là thời kỳ trong các bức thư của mình, Phlôrêntinô Arixa quyết định sẽ kể cho cô biết việc cậu đang tìm cách vớt kho của trong chiếc tàu bị đắm để mang về. Quả là có thế thật và ý định ấy nảy nở trong cậu như một cơn gió thoảng đầy hi vọng vào một buổi chiều rực sáng, biển óng ánh sáng bạc xác những con cá chết vì bả cây bacbaxcô[34]. Chim trời vui sướng kéo nhau về đây bay lượn làm ồn ĩ cả khung cảnh mặt biển nổi xác cá và những ngư dân phải dùng mái chèo chiến đấu với chúng để bảo vệ thành quả của vụ đánh cá bằng b cây bacbaxcô từng bị cấm ngặt. Việc dùng lá cây bacbaxcô thả xuống nước để đánh cá, vốn chỉ làm cho cá say rồi chết, từng bị luật cấm từ thời thuộc địa Tây Ban Nha, nhưng ở vùng Caribê vẫn được sử dụng công khai cho đến khi nó được thay bằng mìn. Trong lúc chuyến đi của cha con Phecmina Đaxa kéo dài hết ngày này sang tháng khác, một trong những thú tiêu khiển của Phlôrêntinô Arixa là đứng trên những mỏm đá bên bờ biển mà ngắm nhìn các dân chài dùng những chiếc thuyền cađucô chở những thúng lớn đựng đầy cá say. Cũng lúc ấy, một bầy trẻ nhỏ đang bơi lội dưới nước như những con cá mập yêu cầu những kẻ tò mò hãy ném cho chúng những đồng tiền kim loại để chúng lặn xuống đáy nước mò lên. Ðó cũng chính là những đứa trẻ với tài nghệ bơi lặn bậc thầy từng bơi ra tận những con tàu vượt đại dương mà ở Mỹ và châu Âu người ta từng viết nhiều ký sự, nhiều truyện kể về các chuyến du lịch của chúng. Phlôrêntinô Arixa vốn quen chúng từ lâu, trước cả khi cậu yêu Phecmina Ðaxa nhưng chưa bao giờ cậu nghĩ rằng chúng có đủ khả năng vớt số của cải giàu sụ bị đắm cùng chiếc tàu nọ. Ý tưởng ấy nảy ra trong cậu ngay buổi chiều đó và kể từ ngày chủ nhật sau đó cho đến ngày Phecmina Ðaxa trở về, không lúc nào cậu không háo hức trong công việc tìm kiếm số của cải bị chôn sâu dưới đáy biển kia. Êuclidêt là tên một trong những đứa trẻ biết bơi tài nghệ ấy. Nó cũng háo hức như cậu với ý tưởng khai quật dưới lòng biển, một ý tưởng có được sau cuộc nói chuyện với Phlôrêntinô Arixa không đầy mười phút đồng hồ. Phlôrentinô Arixa không nói cho nó biết cái gì về sự thật của công việc mình định làm mà chỉ hỏi kĩ về khả năng bơi lặn của nó. Cậu hỏi Êuclidêt rằng liệu nó có thể lặn sâu xuống dưới nước hai mươi mét không thì nó trả lời rằng thừa sức. Cậu hỏi Êuclidêt rằng liệu nó có dám một mình một thuyền, không có phương tiện nào khác ngoài lòng tin vào khả năng của mình ở ngoài khơi vào đúng lúc biển nổi giông bão không thì nó trả lời cậu rằng: dám lắm. Cậu hỏi Êuclidêt rằng liệu nó có biết xác định chính xác một địa điểm cách hòn đảo lớn của quần đảo Xôtavêntô về phía tây bắc mười sáu dặm biển không thì nó trả lời cậu rằng biết. Cậu hỏi Êuclidêt rằng liệu nó có thể bơi thuyền trong đêm tối giữa biển khơi mà không bị lạc không thì nó trả lời cậu rằng có thể lắm. Cậu hỏi Êuclidêt rằng liệu có bằng lòng đúng số tiền công mà những ngư dân đã trả công cho nó trong lúc giúp họ đánh bắt cá không thì nó trả lời cậu rằng nó bằng lòng nhưng những ngày chủ nhật phải trả thêm năm đồng rêan nữa. Cậu hỏi Êuclidêt rằng liệu nó có biết chống cự lại cá mập không thì nó trả lời cậu rằng nó biết vì nó có những thủ đoạn kỳ bí để đuổi cá mập từ xa. Cậu hỏi Êuclidêt rằng liệu nó có đủ sức chịu đựng được mọi ngón tra khảo trên bàn tra tấn của tòa án pháp đình tôn giáo để mà không khai báo điều bí mật không thì nó trả lời rằng nó thừa sức chịu đựng vì nó rất gan lì để không một ngón đòn nào buộc nó nói có thành không, và nó đủ khả năng nói có cũng như nói không một cách tỉnh khô khiến không ai nghi ngờ lời nói nó nói ra. Cuối cũng nó tính toán cho cậu những tốn kém cần thiết để thuê thuyền caducô, thuê mái chèo, thuyền lưới đánh cá để không ai nghi ngờ công việc của họ. Ngoài ra còn phải mang cơm, mang thùng nước ngọt để uống, một ngọn đèn dầu, một mẩu nến và một chiếc tù và để khi gặp nguy hiểm thổi lên cầu cứu người đến giúp.
[34] Một thứ cây lá rất độc.
Êuclidêt lên mười hai tuổi, một cậu bé nhanh nhẹn và mưu trí, với một cơ thể mềm mại như thân lươn có thể lách qua những cửa tò vò. Nắng gió vùng biển làm cho da nó cháy xạm, khó có thể mường tượng được nước da đích thực của nó và cái màu da này càng làm cho đôi mắt màu đồng thau của nó sáng rực lên. Phlôrêntinô Arixa quyết định ngay rằng nó là một người đồng mưu như ý của mình trong chuyến mạo hiểm đi tìm số của cải kia và bọn họ liền bắt đầu ngay vào chủ nhật sau đó.
Vào lúc trời rạng sáng, hai người đã chèo thuyền vượt qua cảng của ngư dân đúng như dự định và chuyến đi được chuẩn bị rất chu đáo. Êuclidêt gần như ở truồng vì nó chỉ đóng mỗi chiếc khố, lâu nay vẫn dùng, trong khi đó Phlôrêntinô Arixa lại ăn mặc rất chỉnh tề: áo đuôi tôm, mũ tránh sương, ủng màu be, cổ thắt một dải nơ kiểu nơ nhà thơ vẫn hay dùng, tay cầm một cuốn sách thơ để giải trí lúc đi đường đến quần đảo Xôtavêntô. Ngay từ ngày chủ nhật đầu tiên, Phlôrêntinô Arixa nhận thấy Êuclidêt là một thủy thủ giỏi, là một người bơi lặn tài nghệ và rằng thằng bé có cái nhìn rất thơ trước khung cảnh thiên nhiên của biển khơi cũng như có hiểu biết tỉ mỉ về những đống thép gỉ rải rác đây đó khắp vịnh. Thằng bé có thể nói tất cả những suy tư nhỏ nhặt của nó về chuyện của từng chiếc vỏ tàu bị ôxi hóa, nó biết rõ tuổi của từng chiếc phao, biết rõ nguồn gốc của bất kỳ một đống đổ nát nào, biết rõ con số những sợi xích sắt mà người Tây Ban Nha dùng để rào lối vào vịnh. Vì sợ rằng thằng bé cũng sẽ biết được mục đích của chuyến mạo hiểm này nên Phlôrêntinô Arixa liền giả vờ hỏi nó mấy câu hỏi bâng quơ và nhờ vậy cậu tin rằng Êuclidêt không hề biết tí gì về con tàu chở cả kho báu bị đắm dưới đáy biển.
Ngay từ ngày đầu tiên nghe lỏm được câu chuyện về kho báu kia ở trong khách sạn, Phlôrêntinô Arixa đã tìm mọi cách để nhận diện ra từng loại tàu thuyền từng có trong lịch sử thương thuyền. Cậu biết rằng con tàu Xăng Hôxê không nằm một mình dưới đáy biển. Đúng vậy, nó là một chiếc tàu mang cờ hiệu của Hạm đội Tiêra Phirmê[35] đến đây khoảng sau tháng năm năm 1708. Chiếc tàu này xuất phát từ hội chợ nổi tiếng Portôbêdô, thuộc Panama, và chở theo một phần của cải của nước này gồm ba trăm chiếc thùng đựng đầy bạc ròng xứ Pêru và xứ Vêracrut thuộc Mêhicô và một trăm mười thùng đựng đầy hạt quý được thu lượm ở đảo Côntađora. Trong cái tháng dài tưởng như không chấm dứt khi nó đậu lại ở đây, ngày nào cũng vậy, đều có hội mừng của dân chúng. Con tàu Xăng Hôxê còn chở nốt số của cải định cứu Vương triều Tây Ban Nha khỏi phải khánh kiệt gồm một trăm mười sáu thùng đựng đầy ngọc lục bảo khai thác ở Muxô và Xômôđêcô[36] và ba mươi triệu đồng tiền vàng.
[35] Nghĩa: Đất liền.
[36] Tên các địa phương ở ngoi ô thủ đô Bôgata ngày nay.
Hạm đội Tiêra Phirmê gồm không ít hơn mười hai chiếc tàu to nhỏ khác nhau hợp thành và nó cùng nhổ neo đi khỏi hải cảng này cùng với một đội tàu chiến Pháp được vũ trang rất tốt nhưng đội tàu chiến này đã không thể cứu nó thoát khỏi lưới lửa chính xác của đội tàu chiến Anh dưới sự chỉ huy của tư lệnh Caclô Vagơne đang phục kích nó ở quần đảo Xôtavêntô ngay ở cửa vịnh. Vậy là tàu Xăng Hôxê không phải là chiếc tàu duy nhất bị đắm mặc dù rằng không một tài liệu chính xác nào dám khẳng định rằng có bao nhiêu chiếc tàu bị đánh đắm, bao nhiêu chiếc tàu thoát khỏi lưới lửa của đội tàu chiến Anh. Có điều chắc chắn là con tàu mang cờ hiệu Tiêra Phirmê là con tàu bị đánh đắm đầu tiên cùng với toàn bộ thủy thủ và người chỉ huy chết cứng trong tháp quan sát, và nó là chiếc duy nhất mang số của cải kếch xù kia.
Nhờ nghiên cứu tài liệu, Phlôrêntinô Arixa từng biết rõ đường đi của những chiếc tàu thời ấy và cậu những tưởng rằng mình biết rõ địa điểm xảy ra vụ đắm tàu ấy. Bọn họ rời vịnh đi giữa hai pháo đài Bôca Chica, và sau bốn giờ bơi thuyền họ đi vào vùng biển phía trong quần đảo. Biển ở khu vực này rất nhiều tôm đến mức có thể lấy tay bắt được những con tôm đang ngủ dưới đáy biển san hô. Không khí nơi đây thực dịu nhẹ, biển hiền hòa và trong suốt như pha lê khiến Phlôrêntinô Arixa có cảm giác nó như thể là sự phản ánh của chính mình trong nước. Sau hai giờ bơi khỏi hòn đảo lớn, họ tới địa điểm tàu đắm.Trời nóng như đổ lửa, lại mặc bộ quần áo dự đám tang nên mặt Phlôrêntinô Arixa đỏ bừng bừng như bị sung huyết. Cậu bảo Êuclidêt lặn xuống sâu hai mươi mét và hãy mang lên cho mình bất kỳ thứ gì gặp được ở dưới đáy biển. Nước trong vắt đến mức nhìn rõ thằng bé đang bơi lặn ở dưới như một con cá mập bên những con cá mập khác nhưng những con này không hề tấn công nó. Sau đó cậu thấy thằng bé khuất bóng giữa rừng san hô và ngay đúng lúc cậu nghĩ nó sẽ không còn hơi thì nghe thấy có tiếng nói ở phía sau lưng. Êuclidêt đã nằm ngửa trên mặt nước, hai cánh tay giơ lên trời. Vậy là bọn họ cứ tiếp tục tìm kiếm ở những vùng biển sâu hơn nữa, luôn luôn đi về phía bắc, tiếp tục bơi trên những rừng rong mềm mại, bơi qua những bãi mực cho đến khi Êuclidêt nhận thấy bọn họ đang để mất thời gian.
– Nếu không nói cho tôi biết cái mà anh đang muốn tìm thì tôi không biết làm thế nào để tìm được nó, – Êuclidêt nói với cậu.
Nhưng Phlôrêntinô Arixa vẫn không nói. Thế là Êuclidêt bảo cậu hãy cởi quần áo ra, cùng lặn xuống với nó dù chỉ để nhìn một bầu trời khác ở dưới nước, đó là những bãi san hô. Nhưng Phlôrêntinô Arixa chỉ nói rằng Thượng đế sáng tạo ra biển chỉ để cho người ta đứng bên cửa sổ mà ngắm nhìn và không bao giờ cậu tập bơi. Sau đó ít lâu, trời chiều đầy mây, không khí trở nên lạnh và ẩm, đêm tối ập đến rất nhanh đến mức bọn họ phải hướng theo ngọn đèn để bơi thuyền về hải cảng. Trước khi thuyền vào vịnh, họ nhìn thấy một con tàu khác của hãng hàng hải Pháp đi ngay bên cạnh họ. Nó to hết cỡ và trắng lốp. Nó đi về phía trước để lại một vệt nước sủi bọt và gợn sóng.
Họ đã để mất ba ngày chủ nhật trôi đi mà không giành được kết quả gì và chắc chắn rằng họ sẽ để mất tất cả các ngày chủ nhật sau nếu Phlôrêntinô Arixa không nói cho Êuclidêt biết điều bí mật của mình. Thế là thằng bé bổ sung thêm cho kế hoạch tìm kiếm nhiều chi tiết quan trọng và hai người lại bơi thuyền theo đường đi cũ của các tàu thuyền trước đây, đó là vùng nước cách địa điểm Phlôrêntinô Arixa dự tính về phía đông bắc chừng hai mươi dặm biển. Khi công việc tìm kiếm gần được hai tháng, có một buổi chiều mưa ngoài khơi, Êuclidêt ở dưới đáy biển lâu hơn mọi khi rất nhiều và con thuyền caducô bị trôi dạt đi rất xa đến mức khi ngoi lên mặt nước thằng bé phải bơi mất nửa giờ mới tới được thuyền. Chả là vì Phlôrêntinô Arixa không biết dùng mái chèo để bơi và lái con thuyền lại gần thằng bé. Khi thằng bé bơi đến thuyền nó lấy từ trong mồm ra và đưa cho cậu hai hộp trang sức của phụ nữ, coi đó như là chiến thắng của lòng kiên nhẫn.
Ðiều mà thằng bé kể lại hết sức hấp dẫn đến mức Phlôrêntinô Arixa hứa sẽ tập bơi và học lặn với tất cả sức lực để lặn nơi có thể lặn tới, để tận mắt chứng kiến điều thằng bé kể lại. Thằng bé kể lại rằng ở chỗ ấy, chỉ sâu mười tám mét nước thôi, có rất nhiều tàu thuyền cổ nằm giữa rừng san hô đến mức khó có thể tính được số lượng và chúng nằm rải rác trong một khoảng không gian mắt không thể nhìn thấy hết. Thằng bé kể rằng điều đáng ngạc nhiên hơn cả là không một chiếc tàu nổi trên mặt nước nào vẫn thường gặp ở vịnh có nước sơn mới như những chiếc tàu đắm sâu dưới nước. Thằng bé kể rằng có vài chiếc thuyền carabênia[37] vẫn còn nguyên những chiếc buồm mới, và rằng những tàu thuyền đắm có thể được nhìn rõ ở dưới đáy biển bởi dường như chúng bị đánh đắm cùng một lúc với thời gian và không gian của chúng, vì thế mà chúng vẫn được soi sáng bởi chính thứ ánh sáng rực rỡ nắng vàng vào lúc mười một giờ trưa thứ bảy mồng chín tháng sáu, ngày và giờ chúng bị đắm. Thằng bé kể bằng chính cái giọng nghẹn ngào đầy cảm động trước ấn tượng của mình rằng con tàu dễ nhận ra nhất là con tàu Xăng Hôxê mà tên của nó nổi rõ mồn một ở trước mũi với những chữ đắp nổi bằng vàng, nhưng đồng thời nó cũng là con tàu bị đạn pháo của người Anh làm hỏng nặng nhất. Thằng bé kể rằng nó đã nhìn thấy một con bạch tuộc già tới ba thế kỷ nằm ở bên trong tàu mà những chiếc vòi của nó thò qua những lỗ thông hơi nhưng vì nó đã lớn lên kinh khủng ở trong phòng ăn của con tàu nên muốn lôi nó ra có lẽ phải phá nát thân tàu. Thằng bé kể rằng nó đã nhìn thấy xác vị chỉ huy mặc quân phục nổi nghiêng người ở bên trong phòng chỉ huy và rằng nếu như việc nó không tiếp tục lặn sâu vào những nơi có của cải là vì nó không còn đủ hơi. Đây là những bằng chứng: một chuỗi vòng hạt ngọc lục bảo, một tấm huy hiệu Thánh bà Đồng Trinh với chuỗi xà tích bị han gỉ.
[37] Một loại thuyền buồm thân thon thả dễ đi với tốc độ nhanh.
Ðó là tin tức đầu tiên Phlôrêntinô Arixa báo cho Phecmina Đaxa biết trong một trong những bức thư cậu gửi đến làng Phônxêca trước ngày cô trở về ít lâu. Đối với Phecmina Ðaxa câu chuyện chiếc tàu bị đắm cùng với số của cải kếch xù kia không phải là chuyện xa lạ gì, bởi vì nhiều lần cô nghe thấy người ta kể cho Lôrenxô Ðaxa nghe và ông này cũng hao tiền tốn của trong việc giao dịch với các nhóm bơi lặn người Đức để họ cùng ông ta đi vớt số của cải bị chìm ấy lên. Ðáng lẽ ra họ đang tiến hành công việc nhưng họ đã không làm vì có vài vị thành viên trong Viện hàn lâm lịch sử đã thuyết phục Lôrenxô Đaxa để ông tin rằng câu chuyện về chiếc tàu đắm kia chẳng qua chỉ là một sự bịa đặt của một vài vị Phó vương nhằm cướp đoạt của cải của Triều đình mà thôi. Dù thế nào đi nữa, Phecmina Đaxa biết rõ rằng con tàu ấy ở độ sâu 200 mét nước mà không một ai có thể lặn tới được chứ không phải ở độ sâu hai mươi mét nước như Phlôrêntinô Arixa đã nói trong thư. Nhưng vì Phecmina Ðaxa đã quá quen thuộc với những tưởng tượng thái quá đầy chất thơ của cậu đến mức cô chúc mừng cú mạo hiểm tìm kiếm chiếc tàu đắm và coi đó như là một trong những thành tựu lớn nhất của cậu. Tuy nhiên, khi tiếp tục nhận được những lá thư với những tình tiết còn quái đản hơn nữa và chúng được viết với tất cả tính chất nghiêm chỉnh như những lời ước hẹn của cậu thì cô gái buộc phải thú nhận với Hindêbranđa nỗi lo lắng của mình về việc người yêu có thể đã mất trí khôn.
Cũng vào những ngày này, Êuclidêt đã ngoi lên khỏi mặt nước với nhiều bằng chứng chứng thực sự tồn tại của con tàu đắm đến mức vấn đề của cậu không dừng lại ở việc chỉ đi lượm lặt những vòng ngọc và những chiếc nhẫn vương vãi đâu đó giữa những cây san hô dưới đáy biển mà là phải tiến hành ngay công việc to lớn nhằm vớt cho được hàng chục chiếc tàu đắm mang trong chúng là cả một kho báu lớn vô cùng. Thế là đã xảy ra cái điều sớm muộn rồi cũng phải xảy ra và Phlôrêntinô Arixa đã yêu cầu mẹ giúp đỡ tiền bạc để mình tiếp tục như thường lệ công việc đầy mạo hiểm của mình. Bà Tranxitô Arixa chỉ việc dùng răng cắn vào những chiếc nhẫn vàng và dùng mắt nhìn vào mặt ngọc các hạngọc là bà đã biết ngay đó là của giả và có kẻ đã lợi dụng lòng say mê của con bà để làm giàu. Êuclidêt quỳ gối trước mặt Phlôrêntinô Arixa mà thề rằng chẳng có gì mờ ám trong việc nó làm nhưng nó đã không để cho Phlôrêntinô Arixa gặp mặt nó ở bến cảng của ngư dân vào chủ nhật sau đó và sẽ chẳng bao giờ nó chịu để cho cậu gặp nó ở bất kỳ nơi nào nữa.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.