Phía đông vườn địa đàng
Chương 23
Sau khi Aron đã đi học đại học, Abra tới lui với gia đình của chàng. Nàng thấy mình tin cậy ông Adam và yêu mến chú Lee hơn cả cha ruột của nàng. Ở trường về nàng thường ghé lại nhà ba của Aron, ngồi bên cạnh chú Lee, đọc cho chú nghe lá thư mà Aron gửi về cho nàng hàng ngày.
Đối với Cal nàng không biết nên đối xử thế nào cho phải. Đôi khi Cal chọc nàng phát giận, có khi làm nàng đau khổ và có khi khiến nàng tò mò. Anh ta như lúc nào cũng chống nghịch với nàng. Nàng không biết anh ta có cảm tình nào với mình hay không, vì thế nàng cũng không thích gì anh ta.
Ở Stanford, Aron rất cô đơn. Những lá thư của chàng đều nói lên nỗi cô đơn đó và tỏ tình thương nhớ người yêu. Từ đại học, cách đó 90 dặm đường, chàng thương nhớ Abra mãnh liệt, sống tách biệt hẳn với cuộc sống quanh mình. Chàng học hành, ăn uống ngủ nghỉ và viết thư cho Abra. Cuộc sống của chàng chỉ quanh quẩn chừng đó.
Độ này cứ chiều chiều Abra thường đến ngồi dưới nhà bếp với chú Lee, giúp chú bóc đậu. Nàng thường ở lại ăn cơm tối luôn chứ ít khi về nhà ăn với cha mẹ nàng. Nàng không biết chuyện gì để nói với chú Lee
Chú Lee thường mỉm cười trong khi hai tay thoănthoắt làm việc. Mỗi người lặng lẽ một góc chẳng nói năng gì với nhau. Chú cũng mến Abra lắm và thấy nàng là một thiếu nữ tốt bụng và đầy sinh lực.
Một buổi chiều Abra tâm sự với chú Lee:
– Cháu khám phá ra một điều này ở Aron. Lúc nào anh ấy cũng có vẻ như người què quặt trong tâm hồn, có lẽ vì anh ấy không có mẹ.
Chú Lee mở to mắt ngạc nhiên vì nhận xét đó của Abra rồi sụp mi xuống, gật đầu!
– Tôi cũng nghĩ vậy. Cô có nhận thấy ở Cal điều đó không?
– Không.
– Tại sao cô thấy ở Aron điều đó mà ở Cal thì không?
– Có lẽ, có những điều mà người này thì thấy cần nhiều hơn còn ở người kia thì lại không cần mấy. Chẳng hạn ba tôi không thích củ cải, món này làm ông ngấy và tởm hết sức. Trong lúc đó má tôi thì lại khoái, bà nấu cả nồi củ cải, rắc nhiều tiêu và thêm pho mát vào cả lớp dày. Ba tôi không để ý khi ăn hết nửa đĩa ông mới hỏi là món gì. Lúc đó má tôi mới tiết lộ là món củ cải. Thế là ông ném đĩa củ cải xuống đất đứng dậy bỏ đi. Chắc ông không tha thứ má tôi về chuyện đó.
Chú Lee khúc khích cười:
– Ba của cháu sẽ tha thứ má cháu vì bà ấy đã nói thật đó là món củ cải. Nhưng giả sử khi ấy ông hỏi mà má cháu lại nói dối là một món gì khác, để rồi sau đó ông khám phá ra sự thật thì Abra thử tưởng tượng xem sự thể sẽ ra sao? Dám ông ấy sẽ giết chết má cháu lắm chứ không phải chơi đâu.
– Cháu cũng nghĩ vậy. Nhưng dù sao cháu cũng nghĩ rằng Aron cần một người mẹ hơn Cal nhiều.
– Vì sao vậy?
– Cháu cũng không hiểu, nhưng cháu tin như vậy. À cháu có thể giúp được việc gì bây giờ đây?
– Cháu cầm giùm bột mì rồi đổ ra trên cái nắp tròn kia cho chú.
– Này chú Lee, chú có nghĩ rằng Aron sẽ trở thành một tu sĩ được không?
– Làm sao chú biết được? Có thể đó chỉ là một ý nghĩ.
– Cháu hi vọng rằng anh ấy sẽ không trở thành tu sĩ.
Nói xong câu đó Abra vội ngậm môi lại ngay vì biết mình đã nói hớ.
Chú Lee kéo khay bột lại và lấy ra miếng thịt đỏ và cái rây bột để bên cạnh nói:
– Cháu hãy dùng bề sống của con dao mà dàn thịt. À, tại sao cháu lại không muốn Aron trở thành tu sĩ?
– Đáng lẽ cháu không nên nói như vậy.
– Cháu có quyền nói bất cứ điều gì mình nghĩ. Cháu khỏi cần giải thích làm gì, chú hỏi cho vui vậy thôi.
Chú trở lại ghế ngồi của mình. Abra rây bột lên thịt rồi bằm thịt bằng một con dao lớn nghe cộp cộp đều đặn và nói:
– Đáng lẽ cháu không nên nói như vậy.
Chú Lee xoay mặt qua chỗ khác để nàng đỡ áy náy. Nàng ngừng dao băm thịt lại, nét mặt tươi trẻ của nàng bỗng cau lại đầy đau khổ, nàng nói:
– Chú Lee, có lẽ cháu không hợp với Aron lắm thì phải?
– Cháu nói vậy nghĩa là thế nào?
– Cháu không nói đùa đâu. Hình như anh ấy đã nặn ra một mẫu đàn bà lí tưởng rồi muốn cháu rập đúng theo khuôn mẫu đó. Nhưng cháu không thể nào giống như vậy không thể nào rập theo một khuôn mẫu có sẵn kiểu đó.
– Mẫu đàn bà lí tưởng đó như thế nào?
– Phải thuần khiết, thuần khiết một cách tuyệt đối. Thuần khiết đến độ không một khuyết điểm. Cháu không thể nào đạt đến độ đó.
– Không ai có thể đạt đến mức đó. – Chú Lee nói.
– Anh ấy không hiểu cháu. Anh ấy không hề muốn hiểu cháu. Anh ấy chỉ muốn bóng ma nhợt nhạt kia thôi.
Nàng bước lại chỗ bàn chú Lee đang ngồi nói:
– Chú Lee, cháu ước mong…
– Đừng làm đổ bột xuống sàn nhà. Nào, cháu ước mong gì nào?
– Cháu nghĩ thế này, vì Aron không có mẹ nên anh ấy đã tưởng tượng ra tất cả những đức tính tốt đẹp để gán cho đàn bà.
– Có lẽ đúng như vậy. Do đó cháu nghĩ rằng Aron muốn gán cho cháu tất cả những đức tính mà cậu ấy đã tưởng tượng ra.
Nàng trố mắt nhìn chú Lee trong khi nàng khẽ lướt mấy ngón tay của mình lên lưỡi dao bén, và vừa nghe chú nói tiếp:
– Và cháu muốn tìm cách gạt bỏ những điều mà Aron muốn gán ép cho mình chứ gì?
– Dạ đúng như vậy.
Chú Lee nói:
– Chú chưa thấy ai vô duyên ưa xỏ mũi vào chuyện của người khác như chú, trong khi chú là hạng người không bao giờ giải quyết dứt khoát được một vấn đề nào. À, cháu sẽ băm tiếp mớ thịt đó hay để chú làm?
Nàng lại tiếp tục làm rồi hỏi:
– Chú có buồn cười khi thấy cháu nghĩ đến toàn những chuyện đâu đâu trong khi cháu chưa học hết bậc trung học không?
– Chú không thấy chuyện đó có gì đáng thắc mắc hết. Sự chín chắn thường đến sau, cũng như những chiếc răng khôn thường mọc sau cùng, ở cháu sự khôn ngoan chín chắn vì những va chạm với thực tế phũ phàng đã đến hơi sớm một chút vậy thôi.
Tiếng dao băm thịt tăng nhanh gấp bội theo một nhịp điệu cuồng loạn và mất bình tĩnh. Chú Lee sắp năm hạt đậu li-ma khô thành ba hình thể khác nhau, một đường thẳng, một cái góc rồi một đường cong.
Tiếng băm thịt dừng lại. Abra đột ngột hỏi:
– Bà Trask còn sống không chú Lee?
Ngón tay trỏ của chú Lee khựng lại phía trên một hạt đậu xuống cuối chữ O để làm thành cái đuôi chữ Q. Chú biết Abra đang nhìn từng cử chỉ của mình. Chú Lee nói như lạc giọng hẳn đi:
– Chúng ta nói chuyện với nhau đã nhiều, nhưng hình như chú nhớ rằng chúng ta chưa hề nói gì về chú thì phải.
Chú mỉm cười ngượng ngùng nói tiếp:
– Này Abra để chú nói cho cháu nghe về chú nhé. Chú chỉ là một người giúp việc cho gia đình Trask. Chú đã già. Chú là một người Trung Hoa. Chú mệt mỏi và vụng về.
– Không phải vậy đâu… – Nàng cãi.
– Cháu đừng cãi. Chú là thằng hèn. Chú không xứng đáng mó tay vào một miếng bánh nhân thịt nào.
Abra mỉm cười nhìn chú nói:
– Chú có muốn cháu thử tưởng tượng tiếp không?
– Cháu muốn tưởng tượng thế nào tùy ý vì chú tự thấy là kẻ hèn nhát chẳng được tích sự gì. Cháu đừng buồn gì chú nhé!
Abra vòng qua bàn dựa những ngón tay đầy bột của mình sờ lên lưng bàn tay của chú Lee. Chú nhìn xuống những vệt trắng do những ngón tay dính đầy bột của Abra vừa để lại.
– Ba cháu muốn có một đứa con trai. – Abra nói. – Cháu tin rằng ông ghét món củ cải cũng như ghét con gái. Ông từng giải thích với mọi người vì sao ông đã đặt cho cháu một cái tên kệch cỡm rằng: “Đáng lẽ tôi định đặt một cái tên con trai, nhưng rồi nó ra đời nên đành đặt đại là Abra.”
Chú Lee mỉm cười nhìn nàng nói:
– Cháu là một cô gái rất ngoan. Nếu tối mai cháu chịu tới đây ăn tối, chú sẽ nấu món củ cải.
Abra dịu dàng, lập lại câu hỏi hồi nãy:
– Mẹ của Aron còn sống không chú?
– Còn. – Chú Lee trả lời.
Có tiếng cửa lớn đóng mạnh. Cal đi xuống nhà bếp nói:
– Chào Abra, chào chú Lee, có ba tôi ở nhà không?
– Không, ba cậu chưa về. Cậu hỏi ông có việc gì vậy?
Cal chìa tấm chi phiếu cho chú Lee:
– Phần của chú đó.
Chú Lee nhìn tấm chi phiếu nói:
– Tôi không quan tâm gì về chuyện này.
– Như vậy tốt hơn. Khi nào cần, có thể tôi sẽ mượn lại sau. Này chú Lee, tôi muốn nhân dịp lễ Tạ ơn có Aron về thăm nhà, tôi sẽ làm một chuyện
– Chuyện gì vậy? – Abra hỏi.
– Tôi sẽ tặng ba tôi một món quà.
– Quà gì vậy? – Abra hỏi.
– Tôi chưa có thể tiết lộ bây giờ được. Đợi đến lúc đó Abra sẽ biết.
– Tôi chưa thấy Cal hí hửng như vậy bao giờ. Tôi tưởng sẽ không bao giờ thấy được chuyện lạ này.
Tự nhiên nàng cũng thấy vui lây với Cal.
Sau khi Abra đã ra về, Cal ngồi xuống ghế nói:
– Tôi không biết nên trao món quà đó cho ba tôi trước hay sau lễ Tạ ơn.
– Nên để sau lễ thì hơn. – Chú Lee nói. – Cậu đã có được món tiền đó thật sao?
– Mười lăm ngàn Mỹ kim. Chúng ta sẽ uống Cham-pagne. À này, có lẽ chúng ta nên trang hoàng phòng ăn cho đàng hoàng một chút. Chắc Abra có thể giúp được việc này.
– Cậu có chắc ba cậu cần tiền không đã!
– Sao lại không hả chú?
– Tôi hi vọng cậu có lí.
Hôm sau, vừa mãn buổi học, Abra đã hối hả ra khỏi cổng trường để bắt kịp Cal.
– Chào Abra, – Cal nói. – Chú Lee khen Abra quá xá. Abra nói những gì mà chú ấy chịu dữ vậy?
– Tôi mến chú ấy lắm.
Rồi nàng nói sang chuyện khác:
– Tôi muốn hỏi Cal một câu. Cal có hiểu tại sao anh Aron lạ vậy không?
– Abra định hỏi gì?
– Hình như anh ấy chỉ nghĩ tới anh ấy thôi.
– Tôi không thấy điều đó có gì lạ cả. Abra có chuyện cãi nhau với anh ấy rồi phải không?
– Không. Nhưng Cal này, lúc này anh ấy đang viết cho tôi những lá thư thật ướt át tình cảm, nhưng tôi cứ tưởng anh ấy viết cho người nào khác chứ không phải cho tôi.
– Vậy chứ anh ấy viết cho ai?
– Hình như những lá thư ấy chỉ được viết ra cho chính anh ấy.
– Cô hãy chờ xem. Chắc anh ấy vẫn bình thường mà.
– Tôi không biết mình có bình thường không, Cal có thấy rằng tôi có hay nghĩ bậy lắm không?
– Làm sao tôi biết được.
Abra im lặng chừng một phút rồi hỏi tiếp:
– Cal, tôi nghe đồn Cal hay đi lang thang giữa đêm khuya và có khi ghé vào cả những chỗ tai tiếng nữa phải không?
– Có. Đúng như vậy. Aron đã nói với cô điều đó phải không?
– Không, không phải Aron nói đâu. Nhưng tại sao lại tới những chỗ như vậy?
Cal lặng lẽ bước đi bên cạnh Abra nhưng không nói gì cả. Abra hỏi dồn:
– Cal hãy nói cho tôi biết có phải tại bản tính xấu của Cal mà ra không?
– Cô hỏi gì mà lạ vậy.
– Bản tánh tôi cũng không tốt đẹp gì.
– Cô nói khùng quá. Aron sẽ gội sạch tánh xấu đó ra khỏi cô.
– Cal tin anh ấy có thể làm được chuyện đó không?
– Tin chứ sao không.
Trong mùa đông đầu tiên đó của cuộc chiến, chúng tôi không có nhiều đoàn quân tại Pháp, nhưng chúng tôi có nhiều triệu người đang được huấn luyện sẵn sàng lên đường.
Tại Salinas chúng tôi đã làm tất cả những điều không thể tránh được trong một cuộc chiến tranh và chúng tôi đã nghĩ những ý nghĩ kì cục. Lương hướng và vật giá leo thang. Một tin đồn về sự khan hiếm thực phẩm cũng đủ làm cho chúng tôi đổ xô đi mua hàng để tích trữ. Những phu nhân yêu kiều không lắm điều có khi chỉ vì tranh nhau một hộp cà chua cũng đủ nhào vào cấu xé nhau.
Nhưng không phải tất cả chỉ toàn những chuyện xấu xa, rồ dại và thiếu bình tĩnh. Cũng có những gương anh dũng nữa. Ngoài một số người có thể tránh gia nhập quân đội, một số khác chống đối chiến tranh vì những lí do tinh thần hay tôn giáo, họ chọn con đường đi lên đồi Golgo-tha như chúa Jésus ngày xưa theo lối riêng của họ. Cũng có những người đã hi sinh tất cả những gì họ có cho cuộc chiến vì đó là cuộc chiến cuối cùng, muốn thắng nó chúng tôi không có cách nào hơn là phải đẩy mạnh chiến tranh cũng như phải nhổ một cái gai khỏi lớp thịt của thế giới.
Chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể thấy rõ tất cả điều đó tại Salinas, kể cả sự buồn thảm.
Ông Adam Trask được mời vào Ủy ban động viên. Ông là người rất thích hợp với công tác đó. Nhà máy nước đá không chiếm của ông bao nhiêu thì giờ, ông đã được giải ngũ với một bản tướng mạo quân vụ tốt.
Ông Adam làm việc rất siêng năng, đàng hoàng tuy không vui vẻ gì. Ông không thể nào gạt bỏ được ý nghĩ rằng những thanh niên mà ông gọi nhập ngũ chẳng khác bị kêu án tử hình.
Một hôm ông Adam ngồi ở chiếc bàn ăn giữa nhà bếp hỏi chú Lee:
– Này chú Lee, giả sử chúng ta cho một đứa con vào quân đội rồi chẳng may nó bị tử trận thì chúng ta có chịu trách nhiệm gì về việc đó không?
– Ông cứ nói rõ hơn, tôi sẽ nói lên ý kiến của mình.
– Được rồi, giả sử chúng ta có con trai tới tuổi nhập ngũ, chúng ta gửi nó vào quân đội và rồi chẳng may nó bị chết.
– Tôi hiểu ý ông rồi. Ông định hỏi mình có trách nhiệm gì trong việc đó không chứ gì?
– Tôi không muốn bị lương tâm cắn rứt.
– Ông Adam, đôi khi trách nhiệm không phải tốt đẹp hết. Nó thường đưa người ta tới tính ích kỉ không mấy hay ho.
– Tôi cũng đã nghĩ đến vấn đề đó từ dạo ông Sam Hamilton, chú và tôi bàn cãi về một từ ngữ. À, từ ngữ đó là gì hả Lee?
– Tôi nhớ ra rồi! Đó là từ ngữ “Timshel”.
– “Timshel.” Và chú có nói…
– Tôi có nói rằng từ ngữ đó mang lại cho người ta sự cao thượng nếu người đó biết dùng nó.
– Tôi còn nhớ ông Sam Hamilton thích từ ngữ đó lắm.
– Tôi không ràng buộc gì ông ấy cả. Tôi chỉ gợi ý để ông ta toàn quyền quyết định tự tách mình phân biệt với kẻ khác.
– Như vậy sẽ đơn độc lắm.
– Những việc lớn và cao quí đều được hoàn thành trong đơn độ
– Chú thử nhắc lại ý nghĩa của tiếng đó xem.
– “Timshel.” Ngươi có thể.
Ông Adam trông chóng đến lễ Tạ ơn, ngày Aron từ đại học về thăm nhà để xem thử nó ra sao. Dù Aron xa nhà chưa được bao lâu, ông Adam cũng tưởng tượng chắc nó đã có nhiều thay đổi lớn lao rồi. Đối với kẻ nào mà ta quá yêu thương, ta thường có cảm tưởng như vậy. Tính ít nói của ông cũng vì sự vắng nhà của Aron, bất cứ chuyện buồn phiền nhỏ nhặt nào ông cũng bắt nguồn từ sự vắng mặt đó. Ông thường nói chuyện với nhiều người về sự thông minh của cậu con, nhất là chuyện nó đã học băng được một lớp.
Trong lúc đó, Aron không thấy sung sướng chút nào khi sống giữa một căn phòng đầy đủ tiện nghi tại Palo Alto. Những gì mà chàng mong tìm thấy ở đại học đường rất đẹp đẽ và huyền ảo…
Chàng tưởng tượng ở đó có những chàng trai trẻ mắt sáng long lanh và những thiếu nữ xinh như mộng, xúng xính trong những chiếc áo dài hàn lâm. Mỗi buổi tối thường tụ tập trong một tòa lâu đài trên chỏm một ngọn đồi có nhiều cây cối. Nét mặt người nào cũng rạng rỡ tươi đẹp. Nhưng đại học đường Leland Stanford University không giống như vậy chút nào. Trường ốc chỉ là một khóm nhà bằng sa nham màu nâu vuông vức nằm giữa một đồng cỏ khô cằn. Các phòng học thì làm bằng loại gỗ thông đánh véc-ni. Đó là cả một thế giới ưa gây gổ, đánh đá nhau đến nỗi phải có những thông cáo kêu gọi đến tình huynh đệ, và những sinh viên thiên thần trong mộng tưởng của Aron chỉ là những gã trai trẻ bận những chiếc quần vải thô có sọc nổi và bẩn thỉu.
Aron trước kia không hề nghĩ rằng mình có một mái nhà, bây giờ bỗng cảm thấy nhớ gia đình đến nôn nao cả tâm hồn. Chàng không thiết để ý gì đến cuộc sống chung quanh hoặc tham dự vào đó. Đối với Abra, chàng dệt những giấc mơ thanh khiết, tự vẽ ra một hình ảnh riêng trong trí để tơ tưởng đến nàng. Khi hình ảnh của Abra càng trở nên rạng rỡ, thanh khiết và mĩ miều trong tâm hồn mình, Aron càng thấy rào rạt niềm vui sướng theo quan điểm bệnh hoạn riêng của chàng. Chàng gợi ra tất cả những ý tưởng xấu xa trong trí rồi loại bỏ hết. Kết quả là những lá thư tình chứa đầy khát vọng và giọng điệu cao siêu của chúng đã làm cho Abra rất hoang mang.
Chàng đã sai lầm khi đến Stanford. Vào ngày lễ Tạ ơn chàng sẽ về nhà và có thể sẽ không bao giờ trở lại đó nữa. Chàng nhớ rằng đã có lần Abra đề nghị về sống ở nông trại, điều này đã trở thành giấc mơ của chàng. Chàng nhớ đến cây sồi cao lớn, những làn gió trong lành trên các ngọn đồi. Chàng tưởng tượng Abra đang đứng trên đó, dưới bóng cây đợi chàng đi làm về. Buổi tối sau một ngày làm việc đồng áng chàng có thể sống một cách thơ thới yên lành với cuộc đời. Trong bóng đêm chàng có thể xa mọi ô trọc.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.