Phía đông vườn địa đàng

Chương 24



Cả chú Lee và Cal đều cố khuyên ông Adam vào ngày lễ Tạ ơn đừng ra ga đón chuyến tàu đêm Lark từ San Francisco đến Los Angeles. Ông Adam lí luận:

– Tôi muốn thấy mặt nó lúc vừa xuống xe lửa. Chắc nó đã thay đổi nhiều. Tôi muốn xem nó thay đổi ra sao.

– Cậu ấy chỉ mới xa nhà có hai tháng mà. – Chú Lee nói:

– Nhưng chắc nó đã thay đổi nhiều. Những kinh nghiệm mới đã làm nó thay đổi nhiều hơn ta tưởng.

Dưới sự thúc giục của ông Adam, họ đã đến nhà ga Southern Pacific Depot sớm hơn giờ tàu đến ngót nửa tiếng đồng hồ. Abra đã chờ sẵn ở đó.

– Chắc cháu sốt ruột lắm nhỉ? – Chú Lee hỏi.

– Còn chú thì sao?

– Chú cũng vậy. Để ý nhìn kĩ xem trụ đèn hiệu đã bật qua màu lục chưa.

Thời biểu của các chuyến tàu hỏa là một lí do hãnh diện hay lo ngại của hầu hết mọi người. Chợt từ xa, trụ đèn hiệu từ màu đỏ chuyển qua màu lục và mấy ngọn đèn ở đầu máy của đoàn tàu xuất hiện ở chỗ quanh và rọi thẳng tới sân ga. Nhiều người nhìn vào đồng hồ tay trầm trồ: “Đúng giờ.” Mấy tiếng đó vừa nói lên niềm hãnh diện vừa tỏ vẻ hài lòng. Giây phút đó rất quan trọng đối với chúng tôi.

Chiếc tàu hỏa Lark chạy xộc tới như không định dừng lại. Chỉ đầu máy và các toa hàng hóa đã qua khỏi, còi mới ré lên và cần thắng mới siết chặt cho con tàu dừng lại.

Phải một hai phút sau cả nhà mới nhìn thấy Aron đứng chỗ nào. Trông chàng có vẻ lớn hơn hai tháng trước nhiều.

Chàng đội một chiếc mũ hẹp vành bằng phẳng ở phía trên đầu rất lịch sự. Khi thấy những người thân ra đón, chàng vừa chạy vừa giở mũ ra phất. Họ nhận thấy mái tóc ngời sáng của chàng đã được cắt cao như những sợi bàn chải dựng ngược lên. Cặp mắt chàng sáng rỡ khiến cả nhà cười lớn một cách thích thú khi nhìn thấy chàng, Aron đặt va li hành lí xuống nhấc Abra lên khỏi mặt đất. Sau khi đặt nàng xuống, Aron mừng rỡ bắt tay ông Adam và Cal rồi chàng choàng tay quanh vai chú Lee siết chặt làm chú ê cả người.

Họ rảo bước dọc theo đường phố chính Main Street rẽ qua góc Central, ngang qua lò bánh mì Reynand với cả đống bánh mì loại Pháp, ở cửa sổ. Bà Reynaud với mái tóc đen vẫy bàn tay dính bột chào họ khi họ bước vào nhà.

– Có cà phê chứ chú Lee? – Ông Adam hỏi.

– Tôi đã pha sẵn trước khi chúng ta rời khỏi nhà.

Chú cũng đã bày sẵn đĩa tách. Cả nhà xum họp vui vẻ. Aron và Abra, ngồi trên chiếc ghế trường kỉ. Ông Adam ngồi trong ghế dựa dưới ánh đèn, chú Lee rót cà phê cho từng người và Cal thì đứng trước cửa. Ông Adam lên tiếng:

– Ba muốn nghe về công việc học hành của con mấy tháng nay ra sao. Con vẫn đạt kết quả tốt chứ?

– Tháng tới mới tới kì thi ba ạ.

– Ồ, vậy à. Tốt. Ba tin rằng con sẽ đạt một kết quả tốt.

Trên nét mặt của Aron thoáng vẻ khó chịu.

– Chắc con đi đường xa còn mệt, – ông Adam nói. – Để ngày mai chúng ta hãy nói chuyện nhiều.

Chú Lee góp ý:

– Theo tôi đoán thì chưa hẳn Aron mệt, nhưng có lẽ cậu ấy không thích bận bịu.

Abra tìm cách giải quyết vấn đề một cách tế nhị:

– Em không được phép vắng nhà lâu. Anh Aron, đưa giùm em về nhà được không?

Ngoài đường, Aron khoác vai đi sát vào Abra, chàng run vì lạnh và nói:

– Sắp có sương xuống nên hơi lạnh.

– Về nhà anh thấy vui chứ?

– Vâng. Anh vui lắm. Anh có nhiều chuyện cần nói.

– Hôm nào anh lại đi?

– Trễ nhất là đến tối chủ nhật.

– Chúng ta còn nhiều thì giờ. Chiều mai khoảng năm giờ em sẽ đến. Tối nay, anh đừng vào nhà em nhé! Ba em vừa mắng em một trận.

– Vì ông không thích anh phải không?

– Phải.

Chàng bỗng thấy ngại ngùng. Nàng cảm nghiệm được điều đó khi bàn tay của chàng nới lỏng ra trên cánh tay mình, và trong thầm lặng nàng có thể thấy rõ điều đó trên nét mặt hơi ngước lên của chàng.

– Em sẽ không nói với anh về chuyện đó tối nay đâu.

– Em nên cho anh biết sự thật. – Chàng ôn tồn nói. – Em vẫn còn muốn làm bạn đường với anh chứ?

– Dạ còn.

– Vậy là được rồi. Thôi anh về. Mai chúng ta sẽ nói nhiều.

Chàng tạm biệt Abra ở trước cổng nhà với một chiếc hôn phớt trên môi nàng.

Tối hôm ấy trong phòng riêng, Aron ngồi khom người ở mép giường nhìn sửng xuống hai bàn tay đặt giữa hai đầu gối. Chàng cảm thấy tuyệt vọng và bị phủ kín như một quả trứng bọc trong chiếc khăn vải là tham vọng của cha mình. Mãi đến tối này, chàng mới nhận ra mãnh lực đó. Chàng tự hỏi không biết mình có đủ nghị lực thoát ra khỏi mãnh lực tuy êm ái nhưng bền bỉ đó không. Chàng đứng lên và nhẹ nhàng mở cửa phòng. Dưới cửa phòng của Cal còn ánh đèn. Chàng gõ cửa rồi bước vào, không đợi trả lời.

Cal đang ngồi bên một chiếc bàn giấy mới và đang loay hoay với tờ giấy mỏng và một sợi ruy băng màu đỏ. Khi Aron vào, Cal vội lấy một tờ giấy thấm lớn đậy lên vật gì trên bàn.

Aron mỉm cười hỏi: “Quà tặng hả?”

– Vâng. – Cal trả lời không để ý đến công việc đó nữa.

– Anh muốn nói chuyện một chút được không?

– Được chứ! Anh cứ vào tự nhiên. Nói nho nhỏ kẻo ba vào la. Ông không thích làm ồn.

Aron ngồi lên giường nói:

– Này Cal, anh không muốn tiếp tục học ở đại học đó nữa.

Cal xoay đầu lại hỏi dồn:

– Anh không thích học ở đó nữa à? Sao vậy?

– Anh chỉ thấy không thích nữa, có vậy thôi.

– Anh chưa nói gì với ba chứ? Ba muốn anh đi học nữa.

– Ba muốn không phải là tao muốn.

Cal nhìn sửng vào anh mình, mái tóc màu nhạt của Aron giống mái tóc của bà Kate, cặp mắt mở lớn cũng giống mắt bà. Đột nhiên Cal hiểu vì sao cha mình thương Aron hơn mình, không còn nghi ngờ gì nữa. Cal nói nhanh:

– Tùy ý anh. Nhưng ít ra anh cũng nên học xong khóa học. Bây giờ khoan có quyết định gì đã.

Aron đứng dậy bước về phía cửa và hỏi:

– Quà tặng ai vậy?

– Quà để tặng cho ba. Trưa mai, sau bữa ăn anh sẽ biết.

Khi Aron trở về phòng riêng. Cal giở gói quà ra. Chàng đếm mười lăm tờ giấy một ngàn đô mới một lần nữa. Chúng còn mới và rít lại với nhau nên gây những tiếng sột soạt khi đếm. Ngân hàng Monterey County Bank phải gởi đến San Francisco mới đổi được những tờ giấy bạc đó, và phải nhờ anh Will Hamilton xác nhận nhà ngân hàng mới tin rằng số tiền đó đúng là của Cal.

Cal gói những tờ giấy bạc đó trong một miếng vải lụa và buộc chặt bằng một sợi ruy băng đỏ cuối cùng kết lại thành một cái gút trông như một cái nơ. Cậu ta giấu gói quà dưới mớ áo sơ mi trong bàn làm việc của mình rồi đi ngủ. Cậu ta dợt trước những gì mình định sẽ nói.

– Con có cái này cho ba.

– Cái gì vậy?

– Một món quà.

Cal không biết sau đó việc gì sẽ xảy ra.

Sáng hôm sau khi chú Lee rót cà phê cho mình và cho Cal, thì Aron bước vào, cặp mắt chàng còn ngái ngủ và hỏi:

– Chú Lee định cho ăn tối vào lúc mấy giờ?

– Ồ, tôi chưa biết. Có lẽ vào khoảng ba giờ rưỡi hay bốn giờ gì đó.

– Để năm giờ chú hãy dọn được không?

– Cũng được. Mà chi vậy Aron?

– Tôi muốn đợi Abra hẹn đến giờ đó mới có thể tới được. Tôi có một dự tính muốn trình bày với ba tôi và muốn có mặt nàng vào lúc đó.

– Được rồi, tôi sẽ làm theo lời đề nghị của Aron.

Cal vội đứng dậy trở về phòng riêng của mình. Cậu ta ngồi vào bàn, bật ngọn đèn học lên, nghĩ ngợi một cách tức tối. Tự nhiên Aron đã cướp mất ngày lễ Tạ ơn đầy ý nghĩa của mình và biến thành ngày quan trọng riêng của Aron. Đột nhiên Cal cảm thấy hổ thẹn một cách cay đắng. Cậu đưa hai bàn tay lên ôm mặt và thốt lên: “Đúng là do lòng ganh tị. Mình đang ganh tị, thật không xứng đáng chút nào.” Cậu cao giọng lặp lại mấy tiếng: “Ganh tị! Ganh tị! Ganh tị!” làm như cứ la lớn lên như vậy là có thể diệt được tính xấu đó ngay.

Cal đã thấy bình tĩnh trở lại. Cứ tặng món tiền một cách lặng lẽ. Đừng hi vọng điều gì cả. Đừng nghĩ đến chuyện gì khác. Đem tặng xong rồi quên phứt đi. Chỉ biết đến việc đem tặng là xong.

Cal có cảm tưởng ngày hôm đó dài bất tận. Cậu ta muốn rời khỏi nhà nhưng không được. Lúc 11 giờ trưa, ông Adam ra văn phòng động viên đang đóng cửa để xét qua mấy danh sách thanh niên mới được chuyển tới.

Aron hoàn toàn trầm tĩnh. Chàng ngồi trong phòng khách xem tranh hí họa trong các tập san cũ “The Review Reviews”. Mùi gà tây rô-ti từ dưới nhà bếp tỏa lên thơm phức khắp nhà.

Cal vào phòng riêng của mình lấy gói quà ra đặt lên bàn, lựa lời viết thử một tấm thiệp để gắn lên gói quà: “Caleb gửi cho ba” – “Của Caleb Trask gửi cho Ô. Adam Trask”. Tự nhiên Cal thấy hồi hộp muốn nghẹn thở lòng bàn tay rịn ướt và khớp sợ. Cậu sực nhớ lại buổi sáng mà cha cậu đến lãnh cậu ra khỏi phòng giam. Cậu nhớ đến những tình cảm ấm áp, gần gũi và lòng tin cậy của cha mình. Chính ông đã nói lên điều đó mà: “Ba tin cậy ở con.”

Cal cảm thấy nhẹ nhõm dễ chịu khi nhớ đến câu đó.

Khoảng ba giờ chiều, Cal nghe tiếng chân ông Adam trở về và nghe có tiếng nói chuyện thì thầm ở phòng khách. Cal bước ra góp mặt với cha và anh ở đó. Ông Adam lên tiếng:

– Thời thế đã thay đổi. Một thanh niên phải trở thành một chuyên viên nếu không nó sẽ không có tương lai gì cả. Chính vì vậy mà ba hài lòng khi thấy con theo học đại học.

– Con cũng thắc mắc về điều đó. – Aron nói.

– Vậy thì con đừng thắc mắc gì nữa.

Cal ngồi lặng lẽ. Ông Adam không để ý gì đến cậu ta.

– Người cha nào cũng muốn con mình thành công, đó là điều tự nhiên. – Ông Adam nói tiếp. – Có lẽ ba nhìn xa hơn con.

Chú Lee ló đầu vào nói:

– Chắc phải sửa lại sách nấu ăn quá. Món gà tây chín sớm hơn là trong sách nói.

– Tốt! Cứ giữ cho nóng nhé.

Ông Adam dặn Lee như vậy rồi nói tiếp:

– Cụ Sam Hamilton đã thấy trước điều đó. Ông ấy nói không còn có những triết gia phổ thông nữa. Sự hiểu biết rất cao quý và đáng cho con người chú tâm trau dồi.

– Đúng như vậy. – Chú Lee từ ngưỡng cửa nhà bếp nói vào. – Nhưng có người lại than phiền vì nó.

– Thật vậy à? – Ông Adam hỏi.

Lee bước lên phòng khách. Chú đang cầm chiếc muỗng nấu ăn thật bự trong tay phải nên tay kia bợ một cái tô hứng bên dưới sợ làm giọt mỡ gà xuống tấm thảm, nhưng rồi chú lơ đễnh vung chiếc muỗng lên làm văng mấy giọt mỡ gà tây giữa nền nhà. Chú say sưa nói:

– Có lẽ sự hiểu biết thì quá lớn lao trong khi con người càng trở nên nhỏ bé đi. Có lẽ càng vùi đầu chạy theo nguyên tử, họ đang mặc lấy vóc dáng của nguyên tử trong linh hồn. Có thể một chuyên viên chỉ là một kẻ hèn nhát, đang nhìn ra ngoài chiếc lồng nhỏ bé của mình với nỗi lo sợ.

– Đừng chua chát quá như vậy. Chú có chống đối gì đại học không? Đó là vấn đề mà cha con tôi đang bàn.

– Xin lỗi. Độ này sao tôi hay hứng bất tử. Không! Nếu đại học là nơi mà người ta có thể đến để tìm được sự liên hệ giữa mình với toàn thể thế giới mình đang sống thì tôi không có gì chống đối cả.

Có tiếng nước sôi réo dưới nhà bếp vọng lên, chú Lee vội nói:

– Mấy bộ lòng gà đang sôi.

Chú Lee bước nhanh theo lối cửa thông xuống nhà bếp.

Ông Adam nhìn theo chú với vẻ trìu mến nói:

– Chú ấy thật đáng mến. Một người bạn tốt ít có! Con biết, gần đây ba cảm thấy hài lòng, ừ, có thể cho là mãn nguyện nữa.

Ông mỉm cười với Aron:

– Mãi đến lúc con đi xa ba mới có dịp nghĩ nhiều về con.

– Con nhớ nhà. – Aron thú nhận. – Những ngày đầu xa nhà con tưởng có thể chết đi được.

Abra từ ngoài bước nhanh vào, hai gò má ửng hồng. Nàng nói:

– Có ai thấy tuyết trên núi Toro chưa?

– Có, bác có thấy. – Ông Adam nói. – Người ta cho rằng đó là điềm tốt cho năm tới. Chúng ta nên mừng đi là vừa.

– Cháu phải ráng ngồi ăn cho xong bữa ở nhà trong khi cháu sốt ruột trông tới đây hết sức.

Chú Lee luôn miệng xin lỗi về bữa ăn tối. Chú than phiền về cái bếp ga, than phiền về loại gà tây không được ngon thịt như những con khác. Nhưng chú đã phải cười xòa khi cha con ông Adam bảo rằng chú dài dòng như một mụ đàn bà lắm mồm để mong được những lời khen nịnh.

Khai vị bằng món bánh pudding trộn mận, ông Adam khui xâm banh và họ uống rượu một cách trịnh trọng. Mọi người nâng li chúc cho sức khỏe nhau. Khi đã ăn hết phần bánh pudding, ông Adam nói:

– Tôi thấy chúng ta chưa bao giờ ăn một lễ Tạ ơn nào tuyệt như vậy.

Cal thò tay vào túi áo bờ-lu-dông lấy ra gói quà cột ruy băng đỏ đẩy tới trước mặt cha.

– Cái gì vậy? – Ông Adam hỏi.

– Dạ đó là một món quà cho ba.

Ông Adam tỏ vẻ hài lòng nói:

– Chưa đến lễ Giáng Sinh mà đã có quà rồi. Không biết cái gì trong này đây.

– Chắc là một cái khăn tay. – Abra đoán.

Ông Adam tháo gút cái nơ và mở lớp giấy gói mỏng. Ông trố mắt nhìn xuống xấp giấy bạc.

Abra đứng dậy nhìn cho rõ hỏi:

– Cái gì vậy?

Chú Lee đứng ở ngưỡng cửa nhà bếp, chú để ý quan sát nét mặt của ông với vẻ lo lắng. Chú liếc nhanh về phía Cal và thấy trong ánh mắt cậu ta ngời lên niềm hân hoan đắc thắng.

Ông Adam từ từ đẩy mớ giấy bạc vàng ánh ra. Giọng thật xa xăm:

– Cái gì vậy? Cái gì…

Cal nuốt nước bọt giải thích:

– Đó… là số tiền con đã làm ra được… để tặng ba… để bù vào số tiền đã mất vì vụ rau diếp.

Ông Adam từ từ ngẩng mặt lên hỏi:

– Con đã làm ra số tiền đó hả? Bằng cách nào vậy?

– Con hùn với chú Will Hamilton… buôn đậu. – Nó nói nhanh. – Con và chú ấy đặt mua trước với giá năm xu một cân và chờ đến lúc giá đậu tăng vọt mới đem bán. Mười lăm ngàn đồng này là tiền lời kiếm được. Con tặng cho ba.

Ông Adam sắp các tờ giấy bạc mới lại cho ngay ngắn rồi gói lại cẩn thận. Ông thất vọng nhìn chú Lee… Cal có cảm giác như một tai biến vừa xảy ra, một sụp đổ vừa ập tới khi nghe cha mình nói:

– Mày phải đem số tiền phi nghĩa này trả lại cho những người dân mà mày đã lấy của họ.

– Trả cho hãng buôn Anh quốc British Purchasing Agency à? Họ không thể nhận lại số tiền đó. Họ đang lùng mua khắp nước với giá mười một xu một cân đậu mà ba.

– Vậy thì mày hãy đem trả thêm cho những nông dân mà mày đã cướp công của họ.

– Sao ba lại bảo là cướp công được? – Cal gào lên. – Tụi con đã mua cho họ cao hơn giá thị trường đến một xu rưỡi mỗi cân. Tụi con không cướp giật của ai hết.

Cal có cảm giác như mình bị treo lơ lửng giữa khoảng không và thời gian như chậm hẳn lại.

Một lát sau ông Adam mới bắt đầu trả lời. Ông nói thật chậm rãi rõ ràng:

– Ba đã đưa các thanh niên ra mặt trận. Chính ba đã kí giấy cho họ ra đi. Một số sẽ tử trận và một số bị thương tích, cụt tay cụt chân. Con thử nghĩ ba làm sao có thể nhẫn tâm hưởng lợi vì cuộc chiến này được?

– Con đã bỏ công làm việc chỉ vì nghĩ đến ba. – Cal nói. – Con muốn ba có số tiền đó để bù vào chỗ lỗ lả.

– Này Cal, ba không cần tiền. Về vụ rau diếp ba không nghĩ rằng ba đứng ra làm vì lợi. Đó chỉ là một loại tiêu khiển và ba đã không may mắn. Ba không cần tiền.

Cal nhìn sững trước mặt và cảm thấy những cặp mắt của chú Lee, của Aron và của Abra chĩa thẳng vào mặt mình. Cậu ta vẫn không rời mắt khỏi đôi môi của cha mình.

– Ba chấp nhận tinh thần của món quà. – Ông Adam nói tiếp. – Ba cám ơn con về hảo ý đó…

– Con sẽ đem cất số tiền này. Con sẽ giữ cho ba. – Cal nói nhanh.

– Không, ba sẽ không bao giờ động tới món tiền này. Ba sẽ lấy làm sung sướng nếu con cũng tặng cho ba món quà như anh con đã làm. Ba hãnh diện vì những gì nó đang làm.

Cặp mắt ông mở lớn hơn một chút nữa và ông nói tiếp:

– Ba đã làm cho con bất hạnh phải không? Đừng giận ba. Nếu con muốn tặng ba một món quà, thì con chỉ cần cho ba một đời sống lương thiện của con. Đối với ba, đó là món quà giá trị nhất rồi.

Cal cảm thấy nghẹn trong cổ họng. Trán cậu toát mồ hôi xuống ròng ròng thấm vào môi mặn đắng. Bỗng cậu đứng bật lên làm ngã chiếc ghế ra đằng sau. Cậu nín thở chạy ra khỏi phòng.

Ông Adam gọi với theo:

– Đừng giận nghe con!

Họ cứ để mặc cho Cal. Cậu về phòng riêng, chống cùi chỏ lên bàn ôm cằm ngồi ủ rũ. Cậu muốn khóc nhưng không sao khóc được. Chàng cố sao cho nước mắt ứa ra nhưng đầu chàng như một khối sắt nóng nên nước mắt không thể thoát ra được

Một lát sau Cal đã thấy hơi thở điều hòa, và đầu óc đã bớt nặng nề. Cậu cố gạt bỏ những ý tưởng hờn giận, thù ghét ra khỏi tâm trí. Cậu cố gắng một cách mệt mỏi vì uất hận đã thấm sâu vào khắp cơ thể mình, làm nhiễm độc từng mạch máu. Cậu cảm thấy không thể chế ngự nổi mình.

Rồi đến một mức độ mà cả sự chế ngự lẫn lo sợ đều biến mất trong đầu, nhường chỗ cho nỗi đắc thắng đau đớn. Cal cầm cây bút chì lên vẽ những đường vòng hình trôn ốc trên tờ giấy thấm. Khoảng một tiếng đồng hồ sau khi chú Lee bước vào thì Cal đã vẽ được hàng trăm cái hình vòng trôn ốc và những hình ấy càng lúc càng nhỏ dần. Cậu không nhìn lên.

Chú Lee nhẹ nhàng khép cửa lại và nói:

– Tôi đem vào cho cậu một tách cà phê đây.

– Tôi chẳng thiết uống gì cả. À, thôi được. Cảm ơn chú Lee nhé. Chú tử tế với tôi lắm.

– Cậu hãy ngừng lại đi. Tôi van cậu. – Chú Lee nói.

– Ngừng cái gì? Chú muốn tôi ngừng cái gì mới được chứ?

Chú Lee lúng túng nói:

– Đã có lần tôi nói với cậu rằng tất cả đều tùy ở cậu. Tôi nói với cậu rằng, cậu có thể chế ngự được nếu cậu muốn.

– Chế ngự cái gì? Tôi không hiểu chú đang nói cái gì?

– Này Cal, cậu không hiểu tôi đang nói gì sao? Ông ấy không thể nghĩ khác hơn. Ông ấy không chọn lựa được một điều gì. Nhưng cậu thì khác. Cậu có nghe tôi nói gì không? Cậu biết chọn lựa điều gì nên làm, điều gì không nên.

Những vòng trôn ốc mỗi lúc càng nhỏ đến nỗi những đường bút chì xoắn lại thành một chấm đen sáng bóng. Cal lặng lẽ nói:

– Có gì đâu mà chú làm ra vẻ quan trọng quá vậy? Chú làm như tôi sắp giết người nào không bằng!

Cả hai đều im lặng. Một lát sau khi Cal quay mặt lại thì không thấy chú Lee trong phòng nữa. Tách cà phê đang bốc hơi trên bàn. Cal bưng uống dù vẫn còn nóng bỏng, rồi trở ra phòng khách.

Ông Adam nhìn lên với vẻ ân hận.

Cal nói:

– Xin lỗi ba. Con không biết trước được ý ba về món tiền này…

Cậu cầm gói tiền lên nhét vào túi trong của chiếc áo blouson rồi bất ngờ nói:

– Để con nghĩ xem sẽ làm gì món tiền này. Mọi người đi đâu rồi ba?

– Ồ, Abra phải về nhà. Aron đi theo đưa nàng ra. Còn chú Lee thì đi có việc.

– Con cần đi dạo một lát. – Cal nói.

Đêm tháng mười một đã buông hẳn xuống. Cal lách ra khỏi cửa nhà bếp, ngang qua khoảng sân nhà bếp, bước ra ngoài.

Đầu óc Cal gần như tê liệt. Cậu thấy bóng Aron dưới ánh đèn đường cách đó khoảng ba dãy phố, đang đi về phía mình. Chỉ cần nhìn lối bước chân khá dài và dáng dấp Cal cũng đủ biết ngay là anh nó.

Cal bước chậm lại và khi Aron đến sát bên mình, cậu liền lên tiếng:

– Hì, tôi đang tìm anh đây.

– Anh rất buồn về chuyện xảy ra hồi chiều. – Aron nói.

– Anh có can thiệp gì được đâu. Thôi quên vụ đó đi.

Rồi cậu quay ngược lại cùng sánh bước bên cạnh Aron và nói:

– Tôi muốn chỉ cho anh thấy cái này lạ lắm.

– Cái gì vậy?

– Ồ, cái này lạ và hay lắm. Anh sẽ ngạc nhiên vô cùng.

– Được rồi, nhưng có lâu lắm không?

– Không. Không lâu lắm. Mau lắm.

Hai anh em đi ngang Đại Lộ Central Avenue rẽ qua đường Castroville Street.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.