Bác sĩ David Andrews, chuyên gia phẫu thuật về hưu sáu mươi bảy tuổi, chẳng biết tại sao ông không cảm thấy thoải mái sau khi đưa con gái ra ga xe lửa đi Manhattan, nơi cô sẽ hoàn tất năm học thứ ba tại Đại học New York.
Leesey và Gregg, anh trai của cô, đã đến Greenwich để ở với ông vào Ngày của Mẹ, một ngày thật khó nhọc đối với họ, vì chỉ mới là lần thứ hai không có Helen. Ba người đã đến thăm mộ bà tại nghĩa trang St. Mary, rồi ra ngoài ăn tối sớm ở câu lạc bộ.
Leesey dự định lái xe quay trở về thành phố với Gregg, nhưng đến phút cuối đã quyết định ngủ lại qua đêm và sẽ quay trở về vào buổi sáng. “Buổi học đầu tiên của con vào lúc mười một giờ”. Cô giải thích. “Và con cảm thấy thích ở quanh quẩn bên cạnh cha, cha ạ”.
Chiều tối Chủ nhật họ cùng xem qua một số cuốn album hình ảnh và nói chuyện về Helen. “Con nhớ mẹ nhiều lắm”. Leesey thì thầm.
“Cha cũng thế, con yêu”. Ông thú nhận.
Nhưng sáng thứ hai khi ông thả cô ngoài sân ga, Leesey lại có vẻ sôi sục, hăm hở thông thường, điều này khiến David Andrews không hiểu được cảm giác day dứt cứ gặm nhắm lấy ông khi chơi golf cả vào ngày thứ hai lẫn thứ ba.
Vào chiều tối thứ Ba, ông mở bản tin lúc 6 giờ 30 và đang ngủ gà gật trước màn hình thì chuông điện thoại reo. Đó là Kate Carlisle, người bạn tốt nhất của Leesey, cùng sống chung trong căn hộ ở làng Greenwich. Câu hỏi của cô và giọng nói lo lắng khi hỏi khiến ông nhảy dựng ra khỏi chiếc ghế bành.
“Bác Andrews ơi, Leesey có ở đó không?”
“Không, nó không có ở đây, Kate. Tại sao nó lại có mặt ở đây?” Ông hỏi.
Khi nói, ông liếc quanh căn phòng. Mặc dù ông đã bán căn nhà lớn sau cái chết của Helen, và bà chẳng bao giờ ở trong căn hộ nhà nước này, nhưng khi chuông điện thoại reo, theo bản năng ông quay tìm bà, bàn tay bà luôn nhanh chóng vươn ra nhận lấy ống nghe từ tay ông.
Khi không có câu trả lời, ông gay gắt hỏi: “Kate, tại sao cháu lại đi tìm Leesey?”
“Cháu không biết, cháu chỉ hy vọng…” giọng nói Kate vỡ vụn.
“Kate, hãy nói cho bác biết chuyện gì đã xảy ra?”
“Đêm hôm qua cô ấy đi ra ngoài chơi với vài người bạn của chúng cháu, đến Woodshed, một nơi chốn mới mà chúng cháu cứ nói sẽ đến thử xem sao”.
“Nó ở đâu?”
“Nó nằm ở vùng ranh giới giữa khu Làng và SoHo. Leesey ở lại sau khi những người khác đã bỏ về. Có một ban nhạc thực sự chơi rất hay, và bác biết là cô ấy mê khiêu vũ như thế nào”.
“Những người khác bỏ về lúc mấy giờ?”
“Khoảng hai giờ, thưa bác Andrews”.
“Leesey có uống rượu lúc đó không?”
“Không nhiều ạ. Cô ấy vẫn khỏe khi họ bỏ về nhưng cô ấy không có ở đây khi cháu thức giấc sáng nay, và chẳng ai nhìn thấy cô ấy cả ngày hôm nay. Cháu đã cố gắng liên lạc với cô ấy qua điện thoại di động, nhưng cô ấy chẳng trả lời. Cháu đã gọi cho mọi người mà cháu nghĩ có thể gặp cô ấy. Nhưng chẳng có ai gặp cả”.
“Cháu đã gọi đến chỗ nó có mặt tối qua chưa?”
“Cháu đã nói chuyện với người nhân viên pha chế rượu ở đó. Anh ấy nói rằng Leesey ở lại đó cho đến lúc họ đóng cửa vào ba giờ sáng rồi cô ấy bỏ đi một mình. Anh ta thề rằng cô ấy tuyệt đối không hề say sưa hay loanh quanh ở bất kỳ nơi nào gần đó. Cô ấy chỉ ở lại cho đến phút cuối thôi”.
Andrews nhắm mắt lại, cố gắng một cách tuyệt vọng lọc tìm những biện pháp ông cần làm. Lạy Thượng đế, xin cho con bé được bình yên, ông cầu nguyện như thế. Leesey, đứa bé không được kỳ vọng, ra đời khi Helen đã bốn mươi lăm tuổi và đã lâu họ từ bỏ hy vọng có đứa con thứ nhì.
Mất kiên nhẫn, ông kéo đôi chân ra khỏi cái ghế gác chân, đẩy nó sang một bên, đứng lên, vuốt mái tóc trắng dày của ông từ phía trước trán ra sau, rồi làm động tác nuốt xuống để kích thích tuyến nước bọt vận hành trong cái miệng bỗng dưng khô khốc đi của ông.
Phương tiện đi lại đã ngừng rồi, ông nghĩ. Không thể mất hơn một tiếng để đi xuống làng Greenwich.
“Từ Greenwich, Connecticut xuống làng Greenwich” Leesey vui vẻ tuyên bố cách đây ba năm khi cô quyết định nộp giấy xin nhập học sớm ở Đại học New York.
“Kate, bác sẽ đi xuống đó ngay bây giờ”. Andrews nói. “Bác sẽ gọi cho anh của Leesey. Chúng ta sẽ gặp cháu ở căn hộ. Từ quán rượu này đến chỗ cháu mất bao xa?”
“Khoảng một dặm ạ”.
“Con bé hẳn đã gọi một chiếc taxi?”
“Hôm đó ngoài trời rất đẹp. Có lẽ cô ấy đã đi bộ ạ”.
Một mình trên đường phố tối đen, thật muộn trong đêm, Andrews nghĩ ngợi, cố giữ cho giọng nói không vỡ vụn ra, ông thốt lên: “Bác sẽ có mặt ở đó trong vòng một tiếng nữa. Cứ tiếp tục gọi cho bất kỳ ai cháu nghĩ họ có thể biết nó đang ở đâu nhé”.
Bác sĩ Gregg Andrews đang tắm vòi sen thì điện thoại reo. Anh quyết định để máy tự động trả lời nhận cuộc gọi đó. Anh đã xong ca trực và có cuộc hẹn với một người anh đã gặp tối hôm trước tại buổi tiệc nhẹ để bàn về việc tung ra cuốn tiểu thuyết của một người bạn. Bây giờ anh là bác sĩ tim mạch tại bệnh viện do tín đồ giáo hội Scotland ở New York cai quản, như công việc cha anh đã làm cho đến khi về hưu. Anh dùng khăn tắm lau khô người, đi vào phòng ngủ và thấy thực tế rằng buổi tối tháng năm trời đã bắt đầu trở lạnh. Từ trong tủ quần áo của mình, anh chọn lấy cái sơ-mi màu xanh da trời nhạt, tay dài, cổ mở, cái quần tây màu nâu vàng và cái áo khoác màu xanh nước biển.
Leesey nói với mình rằng mình luôn có vẻ bảo thủ, anh nhớ lại, suy nghĩ với nụ cười về đứa em gái nhỏ, thua anh đến mười hai tuổi. Con bé nói mình cần phải có thêm vài món đồ màu tươi rồi phối chúng lại với nhau.
“Gregg, anh thực sự rất lanh lợi, không đẹp trai, mà là lanh lợi”. Cô nói điều ấy rất hiển nhiên với anh. “Em muốn nói phụ nữ thích những người đàn ông trông như thể có khối óc trong đầu. Và họ luôn phải lòng các vị bác sĩ. Đó là kiểu phức cảm ‘như quan hệ cha con’, theo em nghĩ. Nhưng cũng chẳng tổn hại gì nếu tỏ vẻ láu lỉnh một tí”.
Đèn để lại tin nhắn nhấp nháy trên điện thoại. Anh cân nhắc xem có nên bận tâm kiểm tra nó bây giờ không nhưng rồi vẫn ấn nút chạy máy.
“Gregg. Cha đây. Người bạn cùng phòng của Leesey vừa gọi cho cha. Leesey mất tích rồi. Nó rời quán rượu một mình tối qua, và chẳng ai trông thấy nó kể từ lúc đó. Cha đang trên đường đến căn hộ của nó. Hãy gặp cha ở đó nhé”.
Cảm thấy ớn lạnh, Gregg Andrews ngừng máy, và nhấn số gọi đến chiếc xe của cha anh. “Cha ơi, con vừa nhận được lời nhắn của cha”. Anh nói khi cha anh bắt máy. “Con sẽ gặp cha ở căn hộ của Leesey. Trên đường đi con sẽ gọi cho Larry Aheam. Đừng lái xe nhanh quá nhé”.
Chụp lấy chiếc điện thoại di động, Gregg chạy ào ra khỏi căn hộ của mình, bắt kịp cái thang máy khi nó đang đi xuống từ một tầng cao hơn, chạy qua khu vực tiền sảnh, phớt lờ người gác cổng, chạy ào ra ngoài đường và ngoắc đại một chiếc taxi. Như thường lệ, giờ này chẳng còn chiếc xe nào trống chỗ. Hoảng loạn, anh nhìn ngược xuôi trên phố, hy vọng có một trong những chiếc limousine chở khách vẫn luôn có sẵn ở góc đại lộ Công Viên.
Anh thấy có một chiếc đang đậu ở phía cuối khu phố bèn chạy ào đến leo lên xe. Anh nói thật nhanh địa chỉ của Leesey với tài xế, rồi mở điện thoại di động để gọi cho người bạn cùng phòng thời học cao đẳng của anh ở Georgetown, người này bây giờ là đội trưởng đội thám tử tại văn phòng Chưởng lý quận Manhattan.
Sau hai hồi chuông, anh nghe thấy tiếng Larry Ahearn hướng dẫn người gọi để lại lời nhắn.
Lắc đầu tuyệt vọng, Gregg nói: “Larry, Gregg đây. Hãy gọi vào di động cho tôi. Leesey mất tích rồi”.
Anh kiểm tra các cuộc gọi suốt thời gian đó. Gregg tự nhắc nhở mình trong khi chiếc xe len lỏi một cách chậm chạp đáng thương xuôi xuống phố. Khi họ băng qua đường số Năm Mươi Hai, anh chợt nhớ rằng trong vòng mười lăm phút nữa, người phụ nữ trẻ mà anh đã gặp tối qua sẽ chờ anh trong quán rượu Bốn Mùa.
Anh sắp sửa để lại lời nhắn cho cô thì Aheam gọi lại.
“Hãy kể cho tôi nghe về Leesey”. Anh ta ra lệnh.
“Con bé có mặt ở một quán rượu, hay một câu lạc bộ hay một cái gì đại loại như vậy nếu anh muốn gọi những chốn đó là như thế, trong khu vực Làng và SoHo tối qua. Con bé bỏ đi một mình khi chỗ đó đóng cửa và chẳng hề thấy nó quay về nhà”.
“Tên gọi quán rượu đó là gì?”
“Tôi không biết. Tôi không nghĩ ra để hỏi cha tôi. Ông ấy đang trên đường đi đến đấy”.
“Ai có thể biết được?”
“Kate, bạn cùng phòng của Leesey. Cô ấy là người vừa gọi cho cha tôi xong. Tôi sẽ gặp ông ấy ở căn hộ mà cô bé này và Leesey ở chung”.
“Hãy cho tôi số điện thoại của Kate. Tôi sẽ gọi lại cho anh sau”.
Văn phòng riêng của Larry Aheam kế bên phòng tổ công tác. Anh rất mừng vì vào thời điểm này không có ai thấy được sự biểu cảm trên khuôn mặt anh. Leesey chỉ mới sáu tuổi khi anh đến thăm nhà Andrews ở Greenwich vào mùa thu năm học thứ nhất của anh ở Georgetown. Anh đã chứng kiến cô từ một đứa bé xinh xắn trở thành một thiếu nữ trẻ trung, quyến rũ, khiến người khác ngây ngất, đường nét xinh đẹp đến độ bất kỳ gã đàn ông nào, cho dù có là kẻ háo sắc hay không, cũng đều ham muốn.
Cô rời quán rượu một mình khi nó đóng cửa. Lạy Chúa, thật là một đứa trẻ khùng điên.
Họ chẳng hề biết.
Larry Aheam biết chỉ trong chốc lát nữa anh sẽ phải nói với Gregg và cha Leesey rằng trong vòng mười năm qua, ba người thiếu nữ đã biến mất trong cùng khu vực SoHo và Làng sau khi trải qua buổi tối ở một trong những quán rượu đó.