Giờ Này Anh Ở Đâu?

CHƯƠNG 22



Hôm đó là một buổi trưa thứ Sáu trước khi tôi nhận tin tức của Nick DeMarco. Sự việc thế này, khi chuông điện thoại di động reo, tôi đang đứng ngay cạnh cánh cửa để mở của căn hộ Sutton Place, nói lời tạm biệt với mẹ.
Elliott vừa đến để đưa bà ra sân bay Teterboro, nơi bà sẽ cùng gia đình Clarence đáp máy bay phản lực riêng của họ đến Corfu, trong quần đảo Hy Lạp, chỗ du thuyền của họ đang neo đậu.
Tài xế của Elliott đã đem hành lý xuôi theo hành lang và đang nhấn nút thang máy. Trong vòng ba mươi giây nữa tất cả sẽ ra đi, nhưng tôi lại máy móc trượt mở nắp điện thoại di động. Tôi ước gì mình có thể cắn mất lưỡi sau khi nói: “Xin chào Nick”. Cảnh giác ngay lập tức, chẳng nghi ngờ gì, cả mẹ và Elliott đều đã đoán được đó là Nick DeMarco. Phát biểu mà anh ta đưa ra tại một cuộc họp báo, bày tỏ sự hôi tiếc sâu sắc rằng Leesey Andrews có lẽ đã gặp phải một kẻ háo sắc trong câu lạc bộ của anh, đã được phát đi, phát lại trong bốn mươi tám tiếng vừa qua kể từ khi anh phát biểu vào cuối buổi chiều thứ Tư.
“Carolyn, anh rất tiếc đã không thể gọi lại cho em sớm hơn”. Nick nói: “Như em đã rõ, tình hình vài ngày vừa qua thật hết sức náo động. Thời gian biểu của em ra sao? Em có rảnh để chúng ta gặp nhau chiều tối nay hoặc lúc nào đó vào ngày mai không?”
Tôi khẽ quay đi, bước lùi lại một bước về phía phòng khách. “Chiều tối nay được đấy”. Tôi nói nhanh, ý thức được rằng Elliott và mẹ đang nhìn tôi chằm chằm. Họ gợi cho tôi nhớ về trò chơi “các bức tượng” mà tôi vẫn thường chơi khi lên mười. Người nào là trưởng nhóm sẽ dùng tay điều khiển những người khác xoay tròn, và sau khi người này buông tay, bạn phải đứng như trời trồng chính xác ở vị trí bạn đã đứng khi ngừng xoay. Người nào có thể đứng lâu nhất mà không vặn vẹo cơ bắp sẽ là người chiến thắng.
Cơ thể mẹ cứng ngắc lại, tay bà để trên quả nắm cửa ra vào, còn Elliott, cầm túi xách tay của bà đang đứng như pho tượng trong tiền sảnh. Tôi muốn nói với Nick rằng tôi sẽ gọi lại cho anh nhưng rồi lại e rằng sẽ mất đi cơ hội xác nhận cuộc hẹn gặp với anh.
“Em đang ở đâu?”
“Căn hộ ở Sutton Place”. Tôi bảo với anh.
“Anh sẽ đến đón em ở đó. Bảy giờ tối nay, được chứ?”
“Được”. Cả hai chúng tôi đều cúp máy.
Mẹ có vết hằn lo lắng trên khuôn mặt. “Có phải đó là Nick DeMarco không? Vì lẽ gì mà cậu ta lại gọi cho con hở Carolyn?”
“Con đã gọi cho anh ấy hôm thứ Tư”.
“Tại sao cháu lại làm thế?” Elliott hỏi, giọng đầy bối rối. “Cháu đâu có bất kỳ liên hệ nào với cậu ta kể từ sau đám ma của cha cháu, có đúng không?”
Tôi kết hợp hai sự thật và xoắn vặn để biến chúng thành một điều không thực. “Cháu đã say mê Nick một cách nghiêm túc cách đây nhiều năm. Có thể nó vẫn còn vương vấn đôi chút. Khi trông thấy anh ấy trên tivi, cháu nghĩ rằng chẳng có gì phạm hệ nếu gọi điện cho anh ấy để bày tỏ sự lo lắng việc Leesey Andrews biến mất dạng sau khi rời khỏi câu lạc bộ của anh ấy. Kết quả là anh ấy đã gọi điện!”
Tôi trông thấy vẻ thư giãn đầy tính phòng vệ trên khuôn mặt mẹ. “Cháu đã luôn thích Nick khi anh ấy đến dùng cơm tối với Mack và cháu biết anh ấy đã rất thành công”.
“Chắc chắn có vẻ như cậu ấy đã làm được nhiều điều rất tốt đẹp trong vòng mười năm nay”. Elliott đồng ý. “Theo như ta nhớ được thì cha mẹ cậu ta có một nhà hàng ở mặt tiền trên phố. Nhưng ta phải nói rằng ta không ganh tỵ vì sự nổi tiếng mà cậu ta đang có hiện nay đâu”. Rồi ông chạm vào tay mẹ tôi. “Olivia, chúng ta phải khởi hành thôi. Với tình hình thế này chúng ta sẽ bị kẹt xe vào giờ cao điểm, và đường hầm Lincoln sẽ là cơn ác mộng đấy”.
Mẹ tôi nổi tiếng vì chỉ thích ra đi vào phút cuối và hy vọng các tín hiệu đèn giao thông chuyển sang màu xanh lá cây để làm cho đường đi của bà xuôi rót. Lúc này tôi thấy mình so sánh sự nhắc nhở dịu dàng của Elliott với phản ứng của cha tôi, nếu như ông có mặt ở đây.
“Liv, vì Chúa, chúng ta sẽ có chuyến đi miễn phí đến Hy Lạp. Chúng ta không thể hụt nó được” sẽ là cách ông giục giã bà đi nhanh.
Với những nụ hôn tạm biệt vội vã và những nhắc nhở kín đáo, mẹ đi vào thang máy với Elliott, những lời nói cuối cùng của bà “Hãy gọi cho mẹ nếu con cần bất kỳ điều gì, Carolyn” bị cánh cửa đang đóng lại làm tắc nghẽn.
Tôi phải thú nhận rằng mình cảm thấy bối rối vì cái hẹn này với Nick, nếu bạn có thể nói rằng đó là cuộc hẹn hò. Tôi trang điểm nhẹ, chải tóc, quyết định để nó buông lơi, rồi vào phút cuối, tôi mặc một bộ đồ nhãn hiệu Escada mà mẹ cứ khăng khăng mua cho tôi. Cả áo khoác lẫn quần tây đều có ánh xanh lục nhạt và tôi biết chúng làm nổi ánh đỏ trên mái tóc nâu của tôi.
Tại sao lại bận lòng? Bởi vì sau mười năm tôi vẫn còn bị lúng túng vì lời nói thẳng thừng của Mack rằng rõ ràng tôi đã phải lòng Nick. Tôi không ăn mặc chỉnh tề vì anh ta, tôi tự bảo mình. Tôi đang làm chính mình hài lòng rằng mình không giống như một người trưởng thành rụt rè, mờ nhạt trước thần tượng của mình. Nhưng khi người gác cổng gọi điện từ tiền sảnh để bảo với tôi rằng ông DeMarco có mặt ở đây thì tôi phải thừa nhận điều đó trong một khoảnh khắc cực ngắn. Tôi thực sự cảm thấy mình giống cô bé mười sáu tuổi ngốc nghếch bộc lộ hết gan ruột của minh ra ngoài.
Và rồi khi mở cánh cửa để gặp anh, tôi đã bị chân động ngay lập tức bởi một Nick với nét trai trẻ, dường như đầy vẻ vô tư lự, thảnh thơi mà tôi còn nhớ đã qua đi mất rồi.
Khi nhìn anh trên truyền hình, tôi chú ý thấy đường nét quai hàm của anh đã trở nên cứng lại, và với lứa tuổi ba mươi hai, anh đã có những sợi bạc trên mái tóc đen sẫm, nhưng khi mặt đối mặt, những điểm này còn đậm nét hơn nữa. Cặp mắt nâu sẫm của anh trước đây luôn có ánh nhìn đùa cợt, tán tỉnh thì nay nét biểu cảm trong đó thật nghiêm túc. Cho dù vậy nhưng nụ cười của anh vẫn thế, khi anh nắm lấy tay tôi, vẫn là nụ cười tôi còn nhớ, và dường như anh thực sự hài lòng khi nhìn thấy tôi. Anh hôn nhẹ lên má tôi một cách xã giao, nhưng miễn cho tôi câu nói theo thông lệ: “Bé Carolyn, tất cả chúng ta đều đã trưởng thành”.
Thay vì vậy anh nói: “Carolyn MacKenzie, Tiến sĩ Luật học! Anh nghe thấy ở đâu đó là em đã thi đậu trường luật và đã là thư ký cho một thẩm phán. Anh dự định gọi điện chúc mừng em nhưng rồi bị nhiều việc khiến anh cứ chạy loanh quanh thôi. Anh xin lỗi”.
“Không làm đúng mục đích tốt đẹp ban đầu, sớm muộn gì cũng phải trả giá”. Tôi đơn giản nói. “Hay ít ra đó là điều Sơ Patricia bảo với tụi em hồi học lớp năm”.
“Và thầy Murphy bảo với bọn anh ở lớp bảy. ‘Việc hôm nay chớ để ngày mai’.”
Tôi cười phá lên. “Cả hai đều đúng”. Tôi nói. “Nhưng rõ ràng anh có nghe đâu”. Cả hai chúng tôi cùng cười với nhau. Đó là kiểu giễu cợt chúng tôi thường có tại bàn ăn tối. Tôi cầm cái túi đeo vai lên. “Em đã sẵn sàng”. Tôi bảo anh.
“Tốt. Xe của anh ở dưới cầu thang”. Anh liếc quanh. Từ nơi đang đứng, anh có thể nhìn thấy góc phòng ăn. “Anh vẫn còn trí nhớ tốt về việc đến đây”. Anh nói. “Khi anh về nhà vào cuối tuần, mẹ anh muốn biết chi tiết những món bọn anh ăn; anh đã mô tả màu sắc của những chiếc khăn trải bàn và khăn ăn, cùng những loại hoa mà mẹ em vẫn thường dùng đặt giữa bàn”.
“Em bảo đảm với anh rằng gia đình em không làm điều đó mỗi tối”. Tôi nói trong khi lục chìa khóa trong túi. “Mẹ thích bày vẽ ra mỗi khi anh và Mack về nhà”.
“Mack không định phô trương chỗ này với bạn bè”. Nick nhận xét. “Nhưng anh đã đáp lại, em biết không? Anh đưa anh ấy đến chỗ bọn anh ở Astoria để ăn món bánh pizza và mì ống ngon nhất trên cõi đời này”.
Giọng nói của Nick DeMarco thật sắc cạnh, cứ như thể anh vẫn còn bực bội về sự so sánh hay sao nhỉ? Có thể là không, tôi không biết chắc. Trong thang máy trên đường đi xuống, anh chú ý thấy Manuel, người điều khiển thang máy, đang đeo một cái nhẫn thanh tú và anh hỏi về nó. Manuel tự hào kể cho anh nghe rằng anh ta vừa tốt nghiệp trường Cao đẳng John Jay và dự định vào học viện cảnh sát. “Tôi rất nóng lòng được trở thành một cảnh sát viên”. Anh ta nói.
Dĩ nhiên tôi không thực sự sống ở nhà kể từ khi bắt đầu học luật ở Duke, nhưng ngay cả như thế, Manuel và tôi vẫn thường trao đổi những nhận xét hài hước. Anh ấy làm việc trong tòa nhà của chúng tôi ít ra cũng đã ba năm, thế mà chỉ trong phút chốc, Nick đã biết về anh ta nhiều hơn tôi từng biết. Tôi nhận thấy Nick có khả năng khiến mọi người cởi mở với anh ngay lập tức và rằng có lẽ đó là lý do tại sao anh lại thành công đến thế trong ngành kinh doanh nhà hàng.
Chiếc Mercedes-Benz màu đen của Nick đậu ở phía trước tòa nhà. Tôi ngạc nhiên khi người tài xế nhảy khỏi xe để mở cửa sau cho chúng tôi. Tôi không biết lý do tại sao, nhưng chưa bao giờ tôi hình dung Nick có tài xế. Người tài xế này có thân hình nặng nề, to lớn, khoảng độ hơn năm mươi tuổi, với khuôn mặt của một võ sĩ quyền Anh đã về hưu. Cái mũi bè của ông ta dường như đã mất gần hết sụn, và có một cái sẹo dọc theo hàm.
Nick giới thiệu chúng tôi với nhau. “Benny làm việc cho cha anh hai mươi năm. Rồi khi cha về hưu cách đây năm năm, anh đã được thừa kế anh ấy. Một may mắn rất lớn cho anh. Benny, đây là Carolyn MacKenzie”.
Bất chấp nụ cười thoáng qua và vẻ dễ chịu của anh ta: “Rất vui được gặp cô, thưa cô MacKenzie”, tôi có cảm giác rằng Benny đã có cái nhìn kiểm soát nhanh chóng, rất cẩn thận về tôi. Rõ ràng anh ta biết chúng tôi sẽ đi đâu, bởi vì anh chạy xe đi mà không chờ nghe hướng dẫn.
Khi chiếc xe dừng lại bên lề đường, Nick quay sang tôi: “Carolyn, anh nghĩ và hy vọng rằng em sẽ rảnh để dùng cơm tối”.
Còn tôi thì đang nghĩ và hy vọng rằng anh muốn ăn cơm tối. “Thế thì hay quá”. Tôi bảo anh.
“Có một chỗ ở Nyack, chỉ cách cầu Tappan Zee vài dặm thôi. Thức ăn tuyệt hảo và lại yên tĩnh nữa. Vào lúc này anh khá nôn nóng tránh xa giới truyền thông”. Anh dựa đầu vào chỗ ngồi bọc da.
Trên đường đi lên phố FDR, anh bảo tôi rằng anh đã bị yêu cầu ghé qua văn phòng Chưởng lý quận một lần nữa chiều hôm qua, để trả lời nhiều câu hỏi hơn về cuộc trao đổi giữa anh với Leesey Andrews vào đêm cô biến mất. “Thật không may là anh đã ở lại trong căn hộ tiện nghi ấy”. Anh thành thật nói. “Chỉ có điều anh nói rằng anh đã không mời cô ấy ghé qua trên đường cô ấy về nhà, và anh nghĩ vì không có bất kỳ ai khác để họ tập trung vào, anh hiện là tâm điểm chú ý”.
Anh không chỉ là người duy nhất, nhưng tôi không chia sẻ với anh một điều chắc chắn rằng, nhờ tôi, thám tử Barrott cũng đã có cái nhìn về Mack như một kẻ tình nghi. Tôi để ý là Nick không đề cập đến tên Mack trong xe, và tôi phân vân tự hỏi về điều này. Từ lời nhắn tôi đã đưa cho thư ký của anh rằng tôi muốn gặp anh vì tôi lại nghe tin tức về Mack, anh ấy chắc chắn biết là chúng tôi sẽ nói chuyện về anh trai của tôi. Tôi tự hỏi không biết phải chăng anh ấy không muốn Benny nghe thấy cuộc nói chuyện đó. Tôi ngờ rằng Benny có khả năng thiên phú rất thính tai.
Nhà hàng mà Nick chọn, La Provence, đúng như anh đã nói. Đó là một ngôi nhà biệt lập, có được bầu không khí riêng tư. Những cái bàn được kê cách xa nhau. Giữa bàn được trang trí bằng một ngọn nến với những nụ hoa bao quanh, và mỗi bàn có một loại hoa khác nhau. Các bức tranh vẽ mà tôi đoán là cảnh đồng quê nước Pháp được treo trên tường bọc khung gỗ. Từ lời chào nồng nhiệt mà người quản lý nhà hàng dành cho Nick cho thấy anh là khách hàng thường xuyên. Chúng tôi đi theo ông ấy đến một cái bàn kê ở góc, cạnh cửa sổ nhìn ra dòng Hudson. Bầu trời đêm trong vắt, và cầu Tappan Zee trải dài trên sông thật tuyệt vời.
Tôi nghĩ về giấc mơ mà tôi đã cố gắng đi theo Mack khi anh ấy băng qua cầu. Rồi tôi xua ý tưởng đó đi.
Sau một ly vang, tôi kể cho Nick nghe về cuộc gọi thường kỳ của Mack vào Ngày của Mẹ rồi lá thư ngắn mà anh ấy bỏ lại trong cái rổ đựng đồ quyên góp. “Thực tế anh ấy viết rằng em không được phép cố tìm cho ra anh ấy đã khiến em cảm thấy có điều gì đó rất bất ổn trong cuộc sống của anh ấy”. Tôi nói. “Em chỉ sợ rằng Mack cần được giúp đỡ”.
“Anh không chắc về điều đó, Carolyn ạ”. Nick khẽ khàng nói. “Anh là người chứng kiến rằng anh ấy đã thân thiết với em và cha mẹ em đến đâu. Anh ấy biết rằng nếu mình cần bất kỳ điều gì về mặt tài chính, mẹ em sẽ cung ứng ngay lập tức. Nếu anh ấy đau ốm, anh nghĩ anh ấy muốn ở quanh quẩn bên em và mẹ em. Anh chưa hề thấy Mack đụng đến ma túy, nhưng anh không biết, có thể anh ấy đã bắt đầu và biết rằng cha em sẽ bị suy sụp nếu phát hiện ra điều đó. Đừng nghĩ rằng trong những năm tháng qua, anh đã không cố hình dung ra điều gì khiến anh ấy biến mất”.
Tôi cho rằng đó là điều tôi kỳ vọng nghe, nhưng ngay cả như thế, tôi có cảm giác là mỗi cánh cửa mà tôi cố gắng mở ra đều đóng sầm lại trước mặt tôi. Khi thấy tôi không đáp lại, Nick chờ tôi vài phút, sau đó nói: “Carolyn ơi, chính em nói rằng Mack nói chuyện nghe khá vui vẻ, hoạt bát khi anh ấy gọi vào Ngày của Mẹ cơ mà. Tại sao em không nhìn lời nhắn đó như một lời yêu cầu khẩn thiết, mà lại như một lời yêu cầu cứng rắn, hay thậm chí một mệnh lệnh? Chắc chắn em cũng có thể hiểu nó theo kiểu đó. ‘Bảo Carolyn không được phép tìm kiếm cháu!’.”
Anh nói đúng. Tôi biết anh nói đúng. Nhưng theo một cảm nhận rộng hơn nhiều thì anh ấy lại sai. Mọi bản năng trong tôi bảo với tôi điều đó.
“Cứ để nó như thế đi, Carolyn”. Nick nói. Giờ đây giọng anh thật dịu dàng. “Khi nào Mack quyết định xuất đầu lộ diện, anh sẽ tống cho anh ấy một cái đá thật mạnh vì cách mà anh ấy đã đối xử với em và mẹ em. Bây giờ hãy kể cho anh nghe về bản thân em đi. Anh đoán là công việc thư ký của em với viên thẩm phán sẽ sớm chấm dứt. Không phải đó là cách tốt hay sao?”
“Em sẽ kể cho anh nghe về điều đó”. Tôi nói. “Nhưng trước tiên chỉ thêm một ít chuyện nữa về Mack đã. Em đã đến gặp gia đình Kramer sáng thứ Tư”.
“Gia đình Kramer? Em muốn nói những người giám thị của tòa nhà nơi Mack và anh đã sống ở đó à?”
“Vâng. Và Nick ơi, anh có thể không tin em, nhưng bà Kramer đã lo lắng. Bà ấy cứ luôn nhìn về phía ông chồng để chắc chắn rằng bất kỳ điều gì bà nói đều không có vấn đề gì. Em thề với anh rằng bà ấy e sợ phạm phải một lỗi nào đó. Anh nghĩ gì về họ khi anh sống ở đó?”
“Thành thật mà nói, đó không phải là anh nghĩ gì đến họ. Nói đúng hơn anh chẳng nghĩ về họ. Bà Kramer dọn dẹp căn hộ đó, nhờ vào sự rộng rãi của mẹ em, bà giặt giũ cho bọn anh mỗi tuần một lần. Nếu không nó sẽ trở thành một cái chuồng heo. Bà ấy là người dọn dẹp kỹ lưỡng, nhưng rành rành là rất tò mò, thóc mách. Anh biết Bruce Galbraith đã nổi khùng lên với bà ta. Một hôm anh ấy về nhà và bắt gặp bà ta đang đọc thư trên bàn giấy của mình. Nếu bà ta đọc của anh ấy, anh cho rằng bà ta cũng đọc của anh nữa”.
“Anh có chất vấn bà ta về việc đó không?”
“Không, anh đã làm một điều thật đần độn. Anh đánh máy một lá thư, ký tên bà ta trên đó, rồi bỏ vào chồng thư từ của anh để bà ta sẽ đọc chúng. Đại khái nội dung bức thư là: ‘Cưng thân yêu, thật là niềm vui thú cho em được giặt giũ quần áo của cưng và làm giường cho cưng. Em cảm thấy mình giống như cô gái trẻ trung khi nhìn cưng. Lúc nào đó cưng sẽ khiêu vũ với em chứ? Với tất cả lòng yêu thương, Lil Kramer’.”
“Anh không làm điều đó chứ!” Tôi thốt lên.
Ánh nhìn tinh nghịch kiểu thanh niên mà tôi nhớ chợt xuất hiện thật nhanh trong đôi mắt của Nick. “Khi anh nghĩ kỹ về điều đó, anh đã ném nó đi trước khi bà ấy có thể trông thấy. Đã có lúc anh ước gì mình đừng làm thế”.
“Anh có nghĩ rằng Mack có thể gặp vấn đề gì với việc bà ta đọc thư của anh ấy không?”
“Anh ấy chẩng nói gì về điều đó, nhưng anh có cảm giác rằng anh ấy cũng phiền lòng với bà ta. Nhưng anh ấy chẳng bao giờ nói tại sao, sau đó thì anh ấy ra đi”.
“Anh định nói rằng điều đó xảy ra ngay trước khi anh ấy biến mất à?”
Cảm xúc của Nick chợt thay đổi. “Carolyn, chắc chắn là em không nghĩ gia đình Kramer làm bất kỳ điều gì dính dấp đến việc Mack mất tích chứ?”
“Nick, chỉ cần nói chuyện với anh về họ đã đem lại những điều rõ ràng không hề có trong suốt cuộc điều tra rằng Bruce bắt gặp bà ta rình mò, và rằng Mack cũng đã từng bực bội vì bà ta. Hãy cho em biết anh đánh giá như thế nào về Gus Kramer”.
“Một giám thị tốt, tính tình khó chịu. Anh nghe thấy ông ta quát tháo bà Kramer vài lần”.
“Tính tình khó chịu à?” Tôi hỏi, nhướng cặp lông mày lên, rồi nói: “Anh không cần phải trả lời, nhưng hãy suy nghĩ về điều đó. Giả sử ông ta và Mack đã có sự xung đột nào đó”.
Thế rồi người phục vụ đến để ghi các món chúng tôi gọi, và Nick chẳng hề trả lời câu hỏi của tôi. Sau đó chúng tôi tiếp tục nói chuyện về những điều góp nhặt trong mười năm qua. Tôi bảo với anh rằng tôi sắp sửa nộp đơn xin việc tại văn phòng Chưởng lý quận.
“Em sắp sửa nộp à?” Giờ đây chính Nick là người nhướng cặp lông mày lên. “Như thầy Murphy đã nói, ‘Việc hôm nay chớ để ngày mai’. Có bất kỳ lý do gì đặc biệt cho việc chờ đợi không?”
Tôi trả lời mơ hồ về việc muốn có thêm chút ít thời gian để tìm ra một căn hộ. Sau bữa tối, Nick kín đáo mở chiếc điện thoại di động BlackBerry của anh ra và kiểm tra tin nhắn. Tôi bảo anh xem có bất kỳ thông tin nào cập nhật về Leesey Andrews không.
“Ý kiến hay”. Anh nhấn nút, lướt qua các thông tin ngắn gọn, rồi tắt chiếc BlackBerry. “Niềm hy vọng tìm ra cô ấy còn sống đang phai nhạt dần đi”. Anh nói một cách điềm tĩnh. “Anh sẽ không ngạc nhiên nếu lại bị yêu cầu phải có mặt ở văn phòng Chưởng lý quận vào ngày mai”.
Và tôi nghĩ có thể mình cũng sẽ nhận một cuộc gọi từ Barrott. Chúng tôi dùng nốt cà phê, và Nick ra dấu cho người phục vụ đưa hóa đơn tính tiền đến.
Chỉ sau đó, khi đã thả tôi xuống trước cửa Sutton Place, anh mới lại đề cập đến chủ đề về Mack. “Anh có thể đọc được điều em đang suy nghĩ, Carolyn. Em đang tiếp tục cố tìm cho ra Mack, phải không?”
“Đúng thế”.
“Em sẽ còn nói chuyện với ai khác nữa?”
“Em có một cuộc gọi cho Bruce Galbraith”.
“Em sẽ chẳng nhận được sự giúp đỡ hay thông cảm gì nhiều từ anh ta đâu”. Anh châm biếm nói.
“Tại sao lại không?”
“Em có còn nhớ Barbara Hanover, cô gái đến cùng Mack và anh để dùng cơm tối tại nhà em không?”
Thì sao nào, tôi nghĩ. “Vâng, em nhớ cô ấy”. Tôi nói, rồi tôi không thể nào đừng thêm vào: “Em nhớ là anh cũng rất say mê cô ta mà”.
Nick nhún vai. “Mười năm trước đây cứ mỗi tuần anh lại say mê một người khác nhau. Dẫu sao, điều đó cũng chẳng tốt gì cho anh cả. Nếu cô ta còn bận tâm về ai khác, thì anh nghĩ đó là Mack”.
“Mack à?” Phải chăng tôi đã quá tập trung vào Nick đến nỗi không chú ý đến điều đó nhỉ?
“Chứ sao? Nhưng Barbara lúc đó đang đi tìm một tấm vé vào trường y. Mẹ cô ấy mắc phải một căn bệnh hiểm nghèo, ngốn hết tiền bạc vốn dành cho việc học của Barbara. Đấy là lý do tại sao cô ta lấy Bruce Galbraith. Họ trốn đi với nhau mùa hè đó, còn nhớ không?”
“Đó lại là một điểm khác chẳng hề xuất hiện trong cuộc điều tra”. Tôi chậm chạp nói. “Bộ Bruce ghen với Mack hả?”
Nick nhún vai. “Em chẳng bao giờ biết Bruce lúc đó nghĩ gì đâu. Nhưng có gì là khác biệt nào? Em đã nói chuyện với Mack cách đây chưa đầy một tuần. Chắc chắn em không nghĩ là Bruce đã đem giấu anh ấy đi, đúng không?”
Tôi cảm thấy mình như một kẻ ngốc. “Dĩ nhiên là không”. Tôi nói. “Em thực sự chẳng biết bất kỳ điều gì về Bruce cả. Anh ấy chẳng bao giờ đến đây cùng với anh và Mack”.
“Anh ta là người cứ thui thủi một mình. Cái năm cuối cùng ở Columbia đó, ngay cả vào những đêm anh ta chạm mặt đám bọn anh tại những câu lạc bộ trong khu Làng và SoHo, anh ta luôn có vẻ như chỉ muốn ở một mình. Bọn anh gọi anh ta là ‘Kẻ Xa Lạ Đơn Độc’.”
Tôi nôn nóng tìm kiếm trên gương mặt Nick, mong có thêm nhiều chi tiết nữa. “Sau khi Mack biến mất, lúc cuộc điều tra bắt đầu, cảnh sát có chất vấn Bruce chút nào không? Điều duy nhất em tìm thấy trong hồ sơ anh ta là phát biểu của anh ta về lần cuối cùng anh ta gặp Mack trong căn hộ”.
“Anh không nghĩ họ đã chất vấn. Tại sao họ lại làm thế? Anh ta và Mack có bao giờ la cà với nhau đâu”.
“Em vừa được người bạn cũ gợi cho nhớ rằng một tuần hay hơn, trước khi mất tích, Mack và một vài người khác từ trường Columbia đã có mặt trong câu lạc bộ vào cùng cái đêm mà cô gái đầu tiên bị mất tích. Anh có nhớ là Bruce có mặt ở đó không?”
Nick có vẻ trầm ngâm. “Có, anh ta có ở đó. Anh nhớ vì câu lạc bộ chỉ vừa mới mở cửa, và bọn anh quyết định đến. Nhưng dường như đối với anh thì anh ấy bỏ về hơi sớm. Chắc chắn anh ấy chẳng bao giờ có đời sống hội hè. Dẫu sao cũng đã muộn rồi, Carolyn. Anh rất vui. Cám ơn em đã đến”.
Anh ấy hôn nhẹ lên má tôi, rồi mở cửa dẫn vào tiền sảnh cho tôi. Chẳng có gợi ý nào về việc sẽ lại gặp nhau nữa. Tôi đi dọc theo khu vực tiền sảnh đến thang máy rồi liếc nhìn lại.
Nick đã ngồi trong xe hơi, còn Benny thì đứng trên lề đường, áp chiếc điện thoại di động vào tai, vẻ mặt thật khó đoán. Vì lý do nào đó, có vẻ thật nham hiểm trong cách Benny mỉm cười và rồi hắn ta đóng máy điện thoại lại, bước vào xe rồi lái đi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.