Giờ Này Anh Ở Đâu?

CHƯƠNG 60



Martha’s Vineyard cách Manhattan khoảng ba trăm dặm về hướng Đông bắc, và đang dần ấm lên. Vào sáng thứ Ba khi thức giấc, tôi nhìn qua cửa sổ thấy một ngày lạnh lẽo trong sáng. Cảm thấy thể chất và tinh thần mạnh mẽ hơn, tôi bước ra khỏi giường và xem cần mặc gì khi tôi đương đầu với Barbara Hanover Galbraith. Trời đủ lạnh để mặc bộ đồ chạy bộ mà tôi đã tống vào túi xách, nhưng đó lại không phải là bộ quần áo, giày mũ cần thiết mà tôi sẽ chọn cho buổi gặp mặt.
Tôi không muốn trông mình ăn mặc có vẻ quá trịnh trọng hoặc quá xuề xòa. Tôi không muốn có ý nghĩ rằng mình sẽ là cô em bé bỏng của Mack khi gặp Barbara. Cô ấy là một bác sĩ giải phẫu nhi khoa. Tôi là một tiến sĩ luật học, một luật sư, và vừa mới hoàn tất công việc làm thư ký với một thẩm phán tòa dân sự. Bộ đồ thay thế của tôi là bộ vét hàng cashmere màu xanh lá cây đậm, áo dây màu trắng phù hợp, và quần jean trắng mà tôi đã lấy tà trong tủ quần áo vào phút cuối. Bây giờ tôi vui mừng rằng mình đã chọn lựa mặc chúng.
Mặc dù lúc đó đã gần giờ ăn trưa, tôi vẫn gọi bộ phận phục vụ phòng để đặt một bữa điểm tâm kiểu lục địa, uống cà phê đen và gặm một miếng quế trong khi thay quần áo. Tôi nhận ra rằng tôi lo lắng quá mức đến nỗi những ngón tay tôi vụng về, loạng choạng khi gỡ bỏ những tấm thẻ của chỗ giặt ủi gắn vào quần áo.
Tôi hoàn toàn ý thức được rằng mình có thể đang làm công việc vớ vẩn của kẻ ngốc. Barbara và con cái của cô ấy có thể đã quay lại Manhattan lúc này rồi. Nhưng tôi không nghĩ rằng tình hình sẽ như thế. Tôi tin rằng cô ấy vẫn đang đến tận nơi này để trốn lánh việc bị chất vấn về Mack với tình trạng hiện hữu.
Tôi chắc chắn rằng nếu tôi gọi trước cô ấy sẽ cúp máy. Nhưng nếu tôi chỉ đơn giản xuất hiện mà không báo trước, hầu như cô ấy sẽ không có cách nào hơn là phải lịch sự chứ không thể đóng cửa trước mặt tôi, vì cô ấy đã từng là khách đến dùng cơm tối tại Sutton Place.
Ít ra tôi hy vọng sẽ không như thế.
Kiểm tra đồng hồ, tôi nhận ra rằng tôi cần phải đi nếu muốn gặp được Barbara ở nhà. Trong xe hơi, tôi đặt hệ thống định vị. Con đường nơi Richard Hanover sống cách đó khoảng sáu dặm. Kế hoạch của tồi là lái xe đến ngôi nhà và nhấn chuông. Nếu không có ai ở đó, tôi sẽ đi vào khu trung tâm của thị trấn và đi bộ loanh quanh một lúc, rồi quay lại ngôi nhà từng giờ một cho đến khi cô ấy có mặt trong đó.
Dường như đó là kế hoạch tốt, nhưng rõ ràng những sự kiện trong ngày đã không diễn ra như vậy. Tôi đến ngôi nhà vào khoảng 12 giờ 30. Chẳng có ai ở đó. Tôi quay lại sau mỗi giờ đến tận 5 giờ 30. Vào lúc ấy tôi đã cho rằng đó hoàn toàn là một chuyến đi vô ích, và cực kỳ chán nản như bất kỳ người nào khác có thể trải qua tâm trạng như vậy. Thế rồi khi tôi đang quẹo chữ U, một chiếc Jeep mang biển số New York băng ngang qua tôi và quẹo vào đường chạy xe. Tôi bắt gặp cái liếc nhìn của một phụ nữ ngồi sau tay lái, bên cạnh cô là một người đàn ông và ở băng sau có vài đứa nhỏ.
Tôi lái xe loanh quanh mười phút hay hơn, rồi quay trở lại ngôi nhà và nhấn chuông. Một người đàn ông ở lứa tuổi gần bảy mươi ra mở cửa. Rõ ràng là ông không có khái niệm tôi là ai nhưng nụ cười của ông rất thân ái. Tôi tự giới thiệu mình, và nói rằng Bruce đã bảo với tôi là gia đình anh ấy đang đi thăm ông. “Mời vào”. Ông nói. “Cô hẳn là một người bạn của Barbara”.
“Ông Hanover,” tôi nói, bước qua ngưỡng cửa “cháu là em gái Mack MacKenzie. Cháu cần nói chuyện với cô ấy về anh Mack”.
Nét mặt của ông đã thay đổi. “Tôi không nghĩ rằng đó là ý kiến hay”. Ông nói.
“Vấn đề không phải đó là ý kiến hay hoặc dở”. Tôi nói. “Cháu e rằng đó là điều cần thiết”. Không cho ông có cơ hội đáp lại, tôi đi lướt qua ông bước vào phòng khách.
Ngôi nhà xây theo kiểu Cape Cod đã được cơi nới rộng hơn theo năm tháng. Phòng khách không lớn, nhưng thật quyến rũ, với đồ gỗ kiểu cổ và tấm thảm móc. Trên đầu, tôi có thể nghe thấy âm thanh những bước chân đang chạy và những tiếng cười hét to. Lũ trẻ có vẻ còn bé. Tôi nghĩ rằng mình đã từng nghe nói Barbara và Bruce Galbraith có một cậu con trai và hai đứa con gái song sinh.
Richard Hanover đã biến mất, có lẽ để nói cho con gái ông biết rằng tôi đang có mặt ở đây. Trong khi tôi ngồi chờ, ba cô con gái bé nhỏ dậm mạnh chân bước xuống cầu thang, đi theo sau là một cô bé chừng mười một tuổi. Những đứa nhỏ chạy ào về phía tôi. Hai trong số chúng rõ ràng là song sinh. Bọn trẻ tụ tập quanh tôi, vui thích vì đang đón chào một vị khách.
“Cháu tên gì?” Tôi chỉ một trong hai đứa bé song sinh.
“Samantha Jean Galbraith,” cô bé nói đầy tự hào “mọi người gọi cháu là Sammy, và chúng cháu đón chuyến phà đi Cape Cod hôm nay”.
Họ đã có chuyến dã ngoại suốt ngày đến Cape, tôi nghĩ. Tôi chỉ sang bé gái song sinh kia. “Cháu tên gì?”
“Margaret Hanover Galbraith. Cháu được dặt tên theo bà cháu, người hiện nay đang ở trên thiên đàng rồi, và mọi người gọi cháu là Maggie”. Cả hai cô bé đều có mái tóc vàng của mẹ chúng, tôi tự nghĩ.
“Và đây là người bà con hay bạn của các cháu?” Tôi hỏi, chỉ tay vào cô gái nhỏ khác.
“Đây là Ava Grace Gregory, người bạn rất tốt của chúng cháu”. Samantha giải thích. Ava Grace bước gần đến tôi hơn và tươi cười rạng rỡ. Samantha quay sang kéo tay cô bé lớn tuổi hơn “Và đây là Victoria Somers. Chị ấy đến đây thăm chúng cháu và thỉnh thoảng chúng cháu đến thăm chị ấy ở nông trại của chị ấy trong bang Colorado”.
“Thỉnh thoảng cháu đi với các em ấy”. Ava Grace sốt sắng nói với tôi. “Và cha cháu đưa tất cả chúng cháu đến Nhà Trắng nữa”.
“Bản thân cô chưa bao giờ được đến đó”. Tôi nói với cô bé. “Điều đó thật tuyệt diệu”. Tôi yêu những đứa trẻ, tôi nói với chính mình. Một ngày nào đó, tôi sẽ có ít nhất bốn đứa cho mình, tôi hy vọng thế.
“Được rồi, các con. Đi lên lầu dọn dẹp sạch sẽ trước khi đến giờ đi ra ngoài ăn tối”. Giọng nói nhẹ nhàng và những đứa trẻ đang đối diện với tôi nên chúng không thể trông thấy nét biểu cảm trên khuôn mặt Barbara Hanover Galbraith. Cô ấy nhìn tôi với vẻ không ưa, căng thẳng đến nỗi cảm xúc duy nhất tôi có thể có là sự sửng sốt.
Tôi đã gặp cô một lần tại bữa cơm tối khi tôi mười sáu tuổi. Tôi đã tan nát cõi lòng vì nhìn bên ngoài thì có vẻ như Nick đang phải lòng cô lúc đó, nhưng giờ đây anh ấy lại tuyên bố rằng chính cô mới là người đang phải lòng Mack. Bất chợt tôi tự hỏi không biết mình có đọc cảm xúc của cô đúng không. Có phải đó là sự khinh miệt mà tôi đang nhìn thấy trong cặp mắt nheo lại và thứ ngôn ngữ cơ thể đầy căng thẳng của cô ấy không hay còn điều gì đó khác?
Với tiếng chào tạm biệt đồng thanh, các cô bé cùng nhau đi lên lầu. Barbara nói: “Tôi muốn nói chuyện trong phòng làm việc”.
Tôi đi theo cô xuôi xuống hành lang hẹp. Có một nhà bếp kiểu đồng quê lớn ở cuối dãy, dẫn đến một căn phòng dành cho gia đình. Phòng làm việc nhỏ nằm ở bên trái, phía trước nhà bếp. Nếu dự đoán thì tôi có thể nói rằng đây là nơi Richard Hanover trải qua những buổi chiều khi ông một mình. Căn phòng có giấy dán tường màu anh đào, thảm trải có họa tiết, một cái bàn giấy cỡ trung đi kèm với một cái ghế, một cái ghế dựa ngả ra đặt đối diện với tivi gắn lên tường. Có cái đèn đọc sách ở phía sau ghế dựa, và một giỏ sách báo, tạp chí nằm trong tầm với.
Tôi có thể hình dung ra cha mình trong căn phòng đó.
Barbara đóng cửa lại và ngồi vào phía sau bàn giấy, chỉ để lại cho tôi cái ghế dựa có thể ngả ra được, dường như quá lớn và quá sâu đối với tôi. Tôi biết cô ở lứa tuổi Mack, ba mươi mốt, nhưng cô là một trong những phụ nữ mà vẻ đẹp thời trẻ không kéo dài. Mặt cô, tôi nhớ trước kia chẳng chút tì vết, nay quá xương xẩu, cặp môi cô quá hẹp. Suối tóc vàng mà có lần tôi vừa ngưỡng mộ vừa ghen tị thì nay được cột chặt thành một búi tóc. Nhưng cô ấy vẫn còn có dáng vẻ thon mảnh, độc đoán. Tôi tưởng tượng rằng sự hiện diện đầy vẻ oai vệ của cô hẳn là niềm an ủi cho cha mẹ những bệnh nhi của cô.
“Tại sao cô lại đến đây, Carolyn?” Cô hạch hỏi.
Tôi nhìn cô, cố gắng suy ngẫm về sự thù địch cùng kiểu như Bruce đang toát ra từ cô. “Barbara,” tôi nói, “từ những gì tôi hiểu thì trong lúc chị và Mack đang hẹn hò với nhau cách đây mười năm thì anh ấy biến mất dạng. Thành thực mà nói, tôi đã được kể rằng chị khá say mê anh ấy. Nếu, như cảnh sát tin tưởng, và như chắc là chị cũng đã đọc trong báo chí, rằng Mack đang phạm các tội ác, thì chỉ có một lý do duy nhất cho điều đó, và đó là vì anh ấy bị suy sụp tinh thần hoàn toàn. Tôi cần biết xem chị có thấy bất kỳ dấu hiệu nào như thế không”.
Cô chẳng nói gì.
Tôi nhìn chằm chằm lại cô. “Tôi đang nói với chị ngay bây giờ rằng khi tôi gặp chồng chị ở văn phòng anh ấy, anh cũng cho thấy sự thù địch như vậy về Mack, điều này khiến tôi bị rối trí. Mack đã từng làm gì với Bruce, và có phải điều đó có dính dấp gì đó đến việc anh ấy biến mất dạng không? Chị có lý do gì mà chạy ào đến đây để lẩn tránh việc bị chất vấn? Nếu chị nghĩ chị có thể che giấu tất cả ở đây thì chị lầm. Giới truyền thông đang cắm trại bên ngoài nhà chúng tôi trên phố Sutton Place. Mỗi lần tôi đi ra, đi vào, họ đều cố chĩa micro vào mặt tôi. Trừ phi tôi có thể có vài câu trả lời chân thực từ chị, và tôi thỏa mãn rằng chị không biết gì về lý do Mack biến mất, nếu không, lần sau khi tôi bị giới truyền thông săn đuổi, tôi sẽ nói cho họ biết rằng chị và chồng chị đang giữ lại những thông tin có thể hữu dụng cho việc tìm thấy Leesey Andrews”.
Tôi nhìn khuôn mặt Barbara biến sắc. “Cô không dám làm thế!”
“Ồ, có chứ. Tôi sẽ làm”. Tôi cam đoan với cô ấy. “Tôi sẽ làm bất kỳ điều gì để tìm ra Mack và chặn đứng anh ấy lại, nếu anh ấy đang phạm các tội ác, hoặc làm trong sạch tên tuổi anh ấy nếu anh ấy vô tội. Vì theo tất cả những gì tôi biết, anh ấy là nạn nhân của chứng quên tạm thời và có thể đang sống cách đày ba ngàn dặm”.
“Tôi không biết anh ta đang ở đâu, nhưng tôi thực sự biết tại sao anh ấy ra đi”. cằm Barbara Hanover Galbraith bắt đầu run rẩy. “Nếu tôi nói với cô, cô thề là sẽ để chúng tôi yên chứ? Bruce chẳng liên quan gì với việc anh ta biến mất cả. Bruce yêu tôi và đã cứu vớt cuộc đời tôi. Chính vì điều Mack đã làm với tôi mà anh ấy ghét hắn”.
“Anh ấy đã làm gì với chi?” Tôi hầu như không thể thốt thành lời. Tôi đã sai lầm rồi. Tôi nhìn thấy không chỉ có sự thù ghét từ bác sĩ Barbara Hanover Galbraith. Tôi còn chứng kiến nỗi đau mà cô đang cố gắng kìm lại.
“Tôi đã say mê Mack. Chúng tôi đi chơi với nhau. Đối với anh ấy, đó là điều tự nhiên, không trách nhiệm, tôi biết điều đó. Nhưng rồi tôi có thai. Tồi hoảng loạn. Mẹ tôi lại bệnh nặng. Bảo hiểm y tể thì không đáng kể, và tất cả số tiền dành cho việc học ở trường y của tôi đã không còn. Tôi đã được chấp thuận cho nhập học ở Columbia Presbyterian và tôi biết tôi không thể đi. Tôi bảo cho Mack biết”.
Cô nuốt nước bọt xuống để tránh không nức nở. “Anh ấy nói sẽ chăm sóc tôi. Anh ấy nói chúng tôi sẽ lấy nhau, và tôi có thể trì hoãn việc học một năm, rồi sau đó sẽ bắt đầu”.
Nghe có vẻ giống Mack, tôi nghĩ.
“Tôi tin tưởng anh ấy. Tôi biết anh ấy không yêu tôi, nhưng tôi cũng chắc chắn có thể làm cho anh ấy yêu tôi. Thế rồi anh ấy biến mất tăm. Chỉ như thế thôi. Tôi không biết phải làm gì”.
“Tại sao chị không đi đến gặp cha mẹ tôi?” Tôi căn vặn. “Họ hẳn sẽ chăm sóc chị”.
“Có thể đưa tôi một chút của bố thí cho ăn mày để hỗ trợ con của con trai họ chăng? Không, cám ơn cô”. Barbara cắn môi. “Tôi là một bác sĩ nhi khoa. Tôi hồi hộp được chạm tay vào một sinh linh bé bỏng và cứu vớt cuộc sống của nó. Tôi đã cứu sinh mạng những em bé còn quá nhỏ đến nỗi chúng chỉ vừa khít trong lòng bàn tay tôi. Tôi có khả năng thiên phú làm lành vết thương. Nhưng có một đứa bé mà tôi đã không cứu được. Đứa con của chính tôi. Tôi đã phá thai bởi vì tôi quá tuyệt vọng”. Cô ấy ngoảnh cặp mắt đi chỗ khác và nói tiếp. “Cô biết điều đó không Carolyn? Đôi khi trong khu chăm sóc nhũ nhi, khi một đứa bé đang khóc, tôi đi đến và bê nó lên, rồi an ủi nó, và khi làm điều đó, tôi lại nghĩ đến đứa bé tôi đã phải nạo ra khỏi tử cung của chính mình”.
Cô đứng lên. “Anh cô không chắc chắn việc sẽ trở thành luật sư. Anh ấy bảo với tôi rằng anh sẽ lấy học vị đó để làm vừa lòng cha anh, nhưng thực ra anh ấy thích thử sức trong việc làm nghệ sĩ. Tôi không nghĩ anh ấy điên – tôi cho rằng anh ấy đi đâu đó và thậm chí có thể cũng biết điều để cảm thấy xâu hổ với chính mình lúc này. Tôi có nghĩ anh ấy đang phạm các tội ác không? Hoàn toàn không. Tôi ghê tởm anh ta vì những gì anh ta đã làm với tôi, nhưng anh ta không phải là kẻ giết người hàng loạt. Tôi ngạc nhiên khi thậm chí cô còn nghĩ đến khả năng đó”.
“Tôi sẽ đi và tôi hứa sẽ không bao giờ đề cập về cô trong bất kỳ cách thức nào với bất kỳ ai, cũng như không làm cô bận lòng nữa”. Tôi lặng lẽ nói khi đứng lên. “Nhưng tôi vẫn có thêm một câu hỏi nữa. Tại sao Bruce lại ghét Mack đến thế?”
“Có một câu trả lời rất đơn giản. Bruce yêu tôi. Suốt thời gian ở Columbia, từ lúc chúng tôi đang là sinh viên năm thứ nhất, tôi biết điều đó. Sau khi phá thai, tôi đi đến một căn phòng trong khách sạn và nuốt những viên thuốc ngủ. Và sau đó tôi lại quyết định là tôi muốn sống. Tôi đã gọi cho Bruce. Anh ấy chạy ào đến với tôi. Anh ấy đã cứu tôi thoát chết. Anh ấy luôn luôn ở bên tôi, và tôi yêu anh ấy vì điều đó, và tôi đã yêu anh ấy vì chính anh ấy. Giờ đây, hãy ban cho tôi một ân huệ và xin hãy bước ra khỏi ngôi nhà này”.
Dưới lầu trong phần còn lại của ngôi nhà thật yên ắng khi tôi bước qua hành lang đi đến cửa trước. Từ trên lầu tôi có thể nghe thấy tiếng lũ trẻ con, và tôi đoán là Richard Hanover đã giữ chúng ở đấy để chúng không thể nghe thấy chúng tôi đang nói những gì.
Nếu có thể mô tả những cảm xúc của mình, tôi sẽ nói tôi cảm thấy như trong một cơn lốc xoáy, bị quăng quật tới lui vào những bức tường đối diện. Cuối cùng tôi đã có câu trả lời tại sao anh tôi biến mất dạng. Mack ích kỷ không sao tả được; anh ấy không muốn đi học trường luật, cũng không yêu Barbara, và việc cô ấy có thai là điều khiến anh bỏ chạy. Thậm chí lời trích dẫn trong cuộn băng cũng có lý. “Khi không được số phận và cặp mắt mọi người sủng ái… Ta chỉ có một mình khóc lóc vì bị ruồng bỏ và quấy rầy thiên đường lặng câm bằng những tiếng kêu than vô vọng của ta”.
Để phòng vệ, hẳn anh ấy đã phải tính đến việc Barbara đi đến gặp cha mẹ tôi để xin giúp đỡ cho đứa bé của anh ấy.
Lời phát biểu thẳng thừng của Barbara rằng Mack không phải chịu trách nhiệm về các tội ác đó, cơn chấn động của cô ấy khi thấy tôi thậm chí còn xem xét đến khả năng ấy, vừa là sự trách mắng lẫn nỗi an ủi làm dịu lòng tôi. Trong tâm trí mình, tôi đã cố hình dung ra sự phòng vệ cho chứng mất trí của anh. Giờ đây bất kỳ sự sợ hãi nào mà tôi có về việc cho rằng anh đang bắt cóc và giết chết phụ nữ đã châm dứt. Tôi biết tôi sẽ đánh cược linh hồn bất tử của mình cho thực tế rằng anh ấy vô tội.
Thế thì ai đang làm việc này? Ai cơ chứ? Tôi tự hỏi mình khi bước vào trong xe. Dĩ nhiên, tôi chẳng có câu trả lời.
Tôi lái xe về lại khách sạn, giữ những ngón tay bắt chéo để cầu mong rằng tôi có thể gia hạn thêm thời gian ở lại. Nơi này thực ra giống một quán trọ nhiều hơn là một khách sạn, và chỉ có tám hay mười phòng ngủ thôi. Tôi đã dự định sẽ đi vào lúc sáu giờ chiều và đang bị tính tiền cho việc trả phòng muộn.
Tạ ơn Chúa, phòng tôi vẫn còn. Tôi không nghĩ có bất kỳ cách nào để tôi có thể chờ chuyến phà rồi sau đó lái xe về nhà trong tâm trạng như thế này. Lái xe về nhà làm gì? Tôi cay đắng tự hỏi mình. Giờ thì tôi chẳng thèm bận tâm tới giới truyền thông. Những cuộc gọi đầy bóng gió của Barrott. Một bà mẹ vắng mặt chẳng muốn ở cạnh tôi. Một “người bạn”, Nick, có lẽ đang sử dụng tôi để giúp anh rửa sạch tên tuổi của mình.
Tôi đi lên lầu. Căn phòng lạnh lẽo. Tôi đã để một cửa sổ mở mà người dọn phòng cũng chẳng đóng lại. Bây giờ tôi đóng nó lại và vặn máy sưởi, rồi nhìn mình trong gương. Trông tôi thật hốc hác, mệt mỏi. Mái tóc tôi đã để buông lơi dường như ủ rũ trên vai tôi.
Tôi chụp lấy cái áo choàng tắm của khách sạn trong tủ, đi vào nhà tắm, và bắt đầu vặn nước bồn tắm. Ba phút sau, tội cảm thấy hơi ấm của nước bắt đầu lấn át cái lạnh trong cơ thể tôi. Khi mặc lại quần áo, tôi đã chọn bộ đồ chạy bộ mà, thật may mắn, tôi đã mang theo. Thật dễ chịu khi mặc nó, có dây kéo cao đến cổ, chỉ có khuôn mặt và cái đầu tôi ló ra ngoài. Tôi cuốn tóc ra sau và kẹp nó lại, rồi trang điểm một chút để che giấu sự căng thẳng mà tôi thấy trong cặp mắt và vẻ mặt mình.
Những người nổi tiếng đeo kính đen ban đêm luôn làm tôi buồn cười. Tôi thường tự hỏi họ làm cách nào xoay xở để đọc thực đơn trong nhà hàng được. Tối nay, tôi cũng đeo cặp kính mà tôi đã đeo khi lái xe ngày hôm qua. Chúng che kín phân nửa khuôn mặt và khiến tôi có cảm giác được che chắn.
Tôi cầm lấy cái túi đeo vai và đi xuống lầu tới nhà hàng, rồi mất tinh thần khi thấy ngoài cái bàn lớn ở giữa đã có tấm bảng giữ chỗ trước trên đó, dường như chẳng còn chỗ nào còn trống cả. Nhưng người quản lý nhà hàng cảm thấy tội nghiệp tôi. “Còn một cái bàn nhỏ trong góc, gần cửa nhà bếp”. Ông nói. “Tôi không thích dành nó cho khách, nhưng nếu cô không thấy phiền lòng…”
“Điều đó được mà”. Tôi bảo ông.
Tôi được đưa vào ngồi ở chỗ đó đủ lâu để gọi một ly vang và xem kỹ thực đơn trước khi họ bước vào phòng ăn. Bác sĩ Barbara Hanover Galbraith, cha cô ấy, bốn đứa bé gái. Và một người khác nữa. Một cậu con trai khoảng chín hay mười tuổi, cậu con trai có mái tóc màu cát, mà khuôn mặt tôi nhận ra rõ ràng như tôi có thể thấy chính mình nếu nhìn vào gương.
Tôi nhìn thằng bé chằm chằm. Cặp mắt to, cái trán cao, nhúm tóc giữa trán, cái mũi thẳng. Nó đang mỉm cười. Nụ cười của Mack. Tôi đang nhìn khuôn mặt Mack. Lạy Chúa, tôi đang nhìn con trai Mack.
Bất chợt tôi cảm thấy cái đầu nhẹ hẫng khi sự nhận thức quật vào tâm trí tôi. Barbara đã nói dối. Cô ấy đã không phá thai. Cô ấy không hề đi đến khu chăm sóc nhũ nhi và nhớ về đứa bé mà cô ấy đã hủy hoại. Cô ấy đã sinh ra đứa bé ấy, và đang nuôi nâng nó như là con trai của Bruce Galbraith.
Có bao nhiêu phần còn lại trong câu chuyện của cô ấy là sự thực? Tôi tự hỏi mình.
Tôi phải đi ra khỏi đó. Tôi đứng lên và đi băng qua nhà bếp, mặc kệ ánh mắt nhìn chằm chằm của những nhân viên. Tôi băng vào tiền sảnh, nhảy bổ lên cầu thang, thu xếp hành lý cho vào túi, trả phòng và bắt chuyến phà cuối cùng từ Vineyard. Vào lúc hai giờ sáng tôi về đến Sutton Place.
Lần đầu tiên, không có xe tải của giới truyền thông ở khu phố.
Nhưng thám tử Barrott đang đứng trong garage. Rõ ràng ông hẳn đã biết tôi đang trên đường về nhà, và tôi nhận ra rằng tôi bị theo dõi. Tôi chóng mặt và mệt đừ. “Ông muốn gì?” Tôi hầu như gào thét lên.
“Carolyn, bác sĩ Andrews đã nhận được một lời nhắn nữa từ Leesey cách đây một tiếng. Những lời nói chính xác của cô ấy là: ‘Cha ơi, Mack nói rằng hắn sẽ giết con bây giờ. Hắn không muốn phải chăm sóc con nữa. Tạm biệt cha. Con yêu cha, cha ơi’.”
Giọng Barrott âm vang khắp garage khi ông thét lên. “Và rồi cô ấy gào rú lên, ‘Không, xin đừng…’ Hắn ta đang bóp cổ cô ấy. Hắn ta đang bóp cổ cô ấy, Carolyn. Chúng tôi không thể cứu mạng cô ấy. Anh cô đang ở đâu hở Carolyn? Tôi biết là cô biết mà. Cái tên giết người kinh tởm ấy đang ở đâu? Cô phải nói với chúng tôi. Hắn đang ở đâu?”

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.