ĐIỆP VỤ THÀNH BÁT ĐA

Chương XXIV



Bát Đa đang thay da đổi thịt. Cảnh sát xếp hàng ngang – tăng cường mọi phía, có cả lực lượng cảnh sát Quốc tế. Cuối cùng Hội nghị đã khai mạc.

Ngay tại gian phòng tiền sảnh một vài sự kiện vừa diễn ra cũng đủ làm thay đổi dòng lịch sử. Cũng như nhiều dịp lễ hội trọng đại khác, nghi thức tiến hành không có gì gọi là long trọng cho lắm.

Tiến sĩ Alan Breck thuộc Hiệp hội Nguyên tử Harwell đóng góp thêm nhiều thông tin với một giọng nói chậm rãi, chính xác. Ông còn có nhiều mẫu thí nghiệm do ngài Rupert Crofton Lee quá cố để lại. Đó là thành quả gặt hái được từ một trong những chuyến đi khảo sát của ngài Rupert khởi đầu từ Trung Quốc qua Tân Cương, Kurdistan và Iraq. Phần trình bày của Tiến sĩ Breck nặng về phần chuyên môn hơn, nào là quặng kim khí… chứa hàm lượng uranium cao. Tuy nhiên vẫn chưa nắm rõ số trữ lượng, bởi tài liệu do ngài Rupert để lại bọn địch đã phá hủy trong thời gian chiến tranh.

Đến lượt ông Dakin phát biểu. Với một giọng nói nhỏ nhẹ uể oải, ông kể lại câu chuyện ly kỳ về anh chàng Carmichael, chuyện ông nghe dư luận bàn tán những câu chuyện hoang đường về một công trình xây dựng phòng thí nghiệm sâu dưới lòng đất một thung lũng xa xôi ngoài tầm hiểu biết của con người. Ông kể về những công trình nghiên cứu và những thành quả trong công cuộc nghiên cứu. Ông kể vì sao nhà du lịch nổi tiếng – Ngài Rupert Crofton Lee – lại tin tưởng anh chàng Carmichael, do hắn thông thuộc cả một vùng đất xa lạ nên ông mới đến Bát Đa, và ông đã chết trong trường hợp như thế nào. Ông còn kể anh chàng Carmichael bị giết chết do bàn tay một tên sát thủ giả dạng ngài Rupert.

“Ngài Rupert đã chết, và anh chàng Henry Carmichael cũng đã chết. Thế nhưng một nhân chứng thứ ba vẫn còn sống sót. Tôi sẽ mời cô nàng Anna Scheele đến đây để cung khai”.

Anna Scheele, nàng rất điềm đạm, trầm tĩnh như lúc còn là nhân viên văn phòng ngài Morganthal, nàng đang kể ra tên tuổi và những số liệu. Từ những ngăn chứa nằm sâu bên trong bộ óc chứa đầy những con số, nàng phác họa ra một hệ thống tài chánh quy mô rộng lớn thu hút lượng tiền tệ lưu hành trên thị trường đổ vào những dự án tài trợ các hoạt động nhằm phân chia thế giới văn minh ra làm hai phe thù địch. Đó không phải một lời khẳng định suông. Có những bằng chứng và số liệu đưa ra nhằm chứng minh cho lập luận vừa nêu. Đứng trước cử tọa nàng muốn xác định rằng bấy nhiêu đó chưa hẳn đúng hoàn toàn với câu chuyện ly kỳ về anh chàng Carmichael.

Dakin trở lại câu chuyện.

“Henry Carmichael đã chết” – Ông nói – “Thế nhưng từ những chuyến đi đầy mạo hiểm hắn để lại nhiều bằng chứng cụ thể mà không thể chối cãi được. Hắn không dám giữ mãi bên mình – bởi bọn địch ngày đêm theo dõi hắn bén gót. Đổi lại hắn còn có nhiều bè bạn. Từ chỗ hai người bạn quen biết, hắn gửi gắm lại nhiều bằng chứng nhờ chuyển đến một người cất giữ giùm – một nhân vật được những người dân Iraq tôn sùng kính mến. Hôm nay ngài quá bước đến đây để dự hội nghị. Tôi muốn nói đó là Ngài Sheikh Hussein el Ziyara từ Thánh địa Kerbela đến đây”.

Ngài Sheikh Hussein el Ziyara, như ông Dakin vừa kể, là một nhân vật Thần thánh, và là một nhà thơ. Ngài được nhiều người biết tiếng và tôn sùng như một ông Thánh. Ngài đứng ngay dậy, vẻ mặt oai nghiêm, hàm râu màu nâu đỏ. Bên ngoài chiếc áo Jacket xám đính nhiều sợi dát vàng, ngài khoác thêm tấm áo choàng màu nâu dệt bằng tơ mịn rộng thùng thình. Đội chiếc khăn trùm màu xanh lục viền những sợi dát vàng agal trông như một tộc trưởng. Ngài cất tiếng giọng nghe vang.

“Henry Carmichael là bạn tôi” – Ngài mở đầu – “Tôi biết hắn từ thuở nhỏ, hắn đã học hết tập thơ của những nhà thơ lớn. Một hôm có hai người bạn ghé lại thánh địa Kerbela, những người thích đi du lịch khắp cả nước với một bộ sưu tập ảnh. Những người bạn chất phát, họ là môn đệ trung thành của Giáo chủ Mahomet. Họ mang đến trao cho tôi một gói quà nói là của Carmichael nhờ trao lại tận tay tôi. Tôi giữ kín, để riêng một nơi và chỉ trao lại tận tay Carmichael hoặc cho người liên lạc nếu nói đúng mật khẩu”.

Ông Dakin nói “Nhà thơ Ả Rập Muntanabi, hay còn gọi là kẻ tranh ngôi Giáo chủ, sống cách nay cả ngàn năm, đã làm bài thơ ca tụng Hoàng tử Syfu’l – Dawla ở Alleppo, Syrie có một đoạn như sau: ‘Zid hashshi bashshi taffadal adni surra sili‘.” 1

Ngài Sheikh Hussein el Ziyara nhếch mép cười, chìa cái gói ra đưa cho Dakin.

“Ta lặp lại như lời Hoàng tử Sayfu’l – Dawla: Rồi các ngươi sẽ được thỏa mãn…”.

“Thưa Quý vị” – Dakin nói “Đây là những đoạn microfilm do Henry Carmichael mang về minh chứng cho câu chuyện mạo hiểm của hắn…”

Lão già đứng dậy, gương mặt lão tiều tụy thảm thương.

Lão nói nghe có vẻ sầu thảm.

“Thưa Quý vị” – Lão mở lời – “Có thể tôi sẽ bị kết tội là một tên lừa đảo tầm thường. Nhưng có mấy điểm tôi không chấp nhận. Một băng nhóm của bọn trẻ tâm địa, xấu xa hiểm độc thì khó mà tin được đâu là sự thật”.

Lão ngẩng mặt cất tiếng gào thét.

“Quân phản Chúa! Việc này cần phải chấm dứt ngay! Ta nên sống bình yên – bình yên để hàn gắn lại vết thương, và cùng nhau kiến tạo một thế giới mới – muốn vậy ta cần phải thông cảm nhau hơn. Ta định đi xin tiền – nhưng thề có Chúa, ta không còn tin ở những lời ta thuyết giảng – thế nên ta không ủng hộ việc làm đó. Thưa quý vị, vì Chúa, ta nên làm lại từ đầu và thử xích lại gần nhau…”

Một phút im lặng trôi qua, rồi một giọng nói yếu ớt, lạnh lùng như một viên chức bàn giấy vừa ban ra:

“Tất cả sự việc này cần phải đưa ra ngay trước Hội nghị các cường quốc…”.

——————————–

1 Hãy vui cười, xích lại gần nhau, sung sướng, tỏ tình, hiến dâng.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.