Đoạn đường để nhớ

Chương 10



Đêm hôm đó tôi lái xe đưa Jamie từ trại trẻ mồ côi về nhà. Thoạt tiên, tôi không chắc liệu có nên giả vờ vươn vai ngáp rồi choàng tay qua vai con bé hay không, nhưng thú thật, tôi không biết chính xác con bé cảm thấy thế nào về mình. Đúng là con bé đã tặng tôi món quà tuyệt vời nhất tôi từng được nhận, mặc dù tôi có thể chẳng bao giờ mở ra đọc như con bé, tôi biết điều đó giống như cho đi một phần bản thân mình. Nhưng Jamie là kiểu người sẽ cho một người xa lạ mà con bé gặp đang đi bộ trên phố một quả thận, nếu anh ta thực sự cần nó. Vì vậy, tôi không thực sự chắc nên hiểu hành động đó thế nào.

Jamie từng nói nó không phải là đứa tối dạ, và cuối cùng tôi cũng đi đến kết luận rằng con bé không hề tối dạ. Có thể chỉ là… ừm, khác biệt… nhưng con bé biết những gì tôi đã làm cho bọn trẻ mồ côi, nghĩ lại thì có khi con bé còn biết ngay lúc chúng tôi ngồi trên sàn phòng khách nhà nó. Khi con bé thốt lên về một điều kỳ diệu, tôi đoán cụ thể là con bé đang nói về tôi.

Tôi nhớ Hegbert đã bước vào phòng lúc Jamie và tôi đang bàn về số tiền quyên góp được, nhưng ông thật sự không có nhiều điều để nói. Gần đây, ông già Hegbert không còn là chính mình nữa, ít nhất là theo những gì tôi nhận ra. Ồ, những bài giảng đạo của ông vẫn về vấn đề tiền bạc, và ông vẫn nói về những kẻ tà dâm, và thỉnh thoảng ông ngừng lại ngay giữa chừng, một vẻ kì lạ xâm chiếm lấy ông, kiểu như ông đang suy nghĩ về một điều gì khác, một điều gì đó buồn bã.

Tôi không biết phải hiểu vẻ mặt ấy như thế nào, vì tôi không biết ông rõ đến vậy. Và khi nói về ông, Jamie dường như đang miêu tả một ai đó hoàn toàn khác. Với tôi, hình dung Hegbert với khiếu hài hước còn khó hơn hình dung có hai mặt trăng trên bầu trời.

Quay lại câu chuyện, ông vào phòng trong lúc bọn tôi đang đếm tiền, Jamie đứng lên, mắt rơm rớm, và Hegbert thậm chí còn có vẻ không nhận thấy tôi ở đó. Ông nói rằng ông tự hào về con bé và rằng ông yêu nó, nhưng rồi lại quay trở lại bếp để tiếp tục viết bài giảng đạo của mình. Thậm chí ông còn chẳng chào hỏi gì. Tôi biết mình không phải là đứa trẻ sùng đạo nhất trong giáo đoàn, nhưng tôi vẫn nhận thấy hành động của ông có phần kỳ cục.

Trong lúc nghĩ về Hegbert, tôi liếc qua Jamie đang ngồi cạnh. Con bé nhìn ra ngoài cửa sổ, nét mặt bình yên, có vẻ như đang cười, nhưng đồng thời cũng rất xa xôi. Tôi mỉm cười. Có thể con bé đang nghĩ về tôi. Tôi bắt đầu nhích tay sang ghế con bé, nhưng trước khi tôi với tới, Jamie đã phá vỡ sự im lặng.

“Landon này”, cuối cùng con bé hỏi khi quay về phía tôi, “cậu có bao giờ nghĩ về Chúa không?”

Tôi rụt tay lại.

Khi nghĩ về Chúa, tôi thường hình dung Người giống như những bức tranh cũ kỹ tôi thấy trong các nhà thờ – một người khổng lồ bay lượn trên một vùng phong cảnh, mặc áo dài trắng, mái tóc dài xõa ra, ngón tay chỉ trỏ hay làm gì đó tương tự – nhưng tôi biết con bé không nói về điều đó. Con bé đang nói về kế hoạch của Chúa. Mất một lúc tôi mới trả lời.

“Có chứ”, tôi nói. “Cũng thỉnh thoảng.”

“Có bao giờ cậu hỏi tại sao mọi chuyện xảy lại xảy ra theo cách mà chúng xảy ra không?”

Tôi ngập ngừng lắc đầu.

“Gần đây mình nghĩ rất nhiều về điều đó.”

Thậm chí còn nhiều hơn thường lệ ư? Tôi rất muốn hỏi, nhưng đã không hỏi. Tôi biết con bé còn muốn nói tiếp, và tôi giữ im lặng.

“Mình biết Chúa có kế hoạch cho tất cả chúng ta, nhưng đôi lúc, mình chỉ không hiểu thông điệp có thể là gì. Điều đó đã bao giờ xảy ra với cậu chưa?”

Con bé nói như thể tôi nghĩ đến chuyện này suốt ngày vậy.

“Ừ”, tôi nói, cố gắng để giả bộ, “mình không nghĩ lúc nào chúng ta cũng phải hiểu. Mình cho rằng đôi lúc chúng ta chỉ cần có niềm tin thôi.”

Tôi thừa nhận đó là một câu trả lời rất hay. Tôi đoán tình cảm dành cho Jamie khiến não của tôi hoạt động nhanh hơn thường lệ. Tôi có thể thấy con bé đang nghĩ về câu trả lời của tôi.

“Ừ”, cuối cùng con bé nói, “cậu đúng.”

Tôi cười một mình và thay đổi chủ đề, bởi vì nói về Chúa không phải thứ khiến ai đó cảm thấy lãng mạn.

“Cậu biết đấy,” tôi nói một cách tự nhiên, “lúc trước, khi chúng ta ngồi dưới gốc cây thông, thực sự là một buổi tối rất đẹp.”

“Ừ, rất đẹp,” con bé nói. Tâm trí nó vẫn còn ở đâu đâu.

“Và trông cậu rất đẹp nữa.”

“Cám ơn cậu.”

Cách này có vẻ không hiệu quả lắm.

“Mình hỏi cậu một câu được không?” cuối cùng tôi nói, hi vọng đưa con bé trở lại với tôi.

“Được chứ,” con bé nói.

Tôi hít một hơi thật sâu.

“Sau buổi lễ ở nhà thờ ngày mai, và, ừm… sau khi cậu dành đôi chút thời gian bên bố cậu… ý mình là…” tôi ngừng lại và nhìn con bé. “Cậu có muốn qua nhà mình ăn bữa tối Giáng sinh không?”

Mặc dù con bé vẫn quay mặt về phía cửa sổ, tôi có thể thấy những dấu hiệu mong manh của một nụ cười khi tôi nói điều đó.

“Có chứ Landon, mình rất muốn.”

Tôi thở phào, không dám tin là đã thực sự mời con bé và vẫn tự hỏi toàn bộ chuyện này đã xảy ra như thế nào. Tôi lái xe dọc các con phố, nơi những khung cửa kính trưng bày được trang hoàng đèn Giáng sinh, rồi băng qua quảng trường thị trấn Beaufort. Vài phút sau tôi vươn tay qua ghế con bé, rồi cuối cùng nắm tay nó, và để buổi tối hoàn hào được trọn vẹn, con bé không rút tay ra.

Chúng tôi dừng xe trước nhà con bé, đèn trong phòng khách còn sáng và tôi có thể nhìn thấy Hegbert đằng sau tấm rèm. Tôi cho rằng ông đang thức đợi bởi muốn nghe kể về buổi tối ở trại trẻ mồ côi. Hoặc là vì thế, hoặc là bởi ông muốn đảm bảo tôi không hôn con gái ông ở bậc cửa. Tôi biết ông sẽ cau mày vì những thứ đại loại như vậy.

Tôi đang nghĩ về điều đó – ý tôi là, nên làm gì khi cuối cùng hai đứa nói tạm biệt – lúc chúng tôi ra khỏi xe và bắt đầu đi về phía cửa nhà. Jamie yên lặng và mãn nguyện, và tôi nghĩ con bé vui vì tôi mời con bé qua nhà vào ngày hôm sau. Bởi con bé đủ thông minh để đoán ra những gì tôi làm cho đám trẻ mồ côi, tôi cho rằng có thể con bé cũng đủ thông minh để hình dung ra tình huống trong dịp vũ hội đầu năm học nữa. Tôi nghĩ thậm chí con bé cũng nhận ra rằng đây là lần đầu tiên tôi thực lòng muốn mời con bé tham gia cùng.

Ngay khi chúng tôi tới bậc cửa, tôi trông thấy Hegbert hé nhìn từ sau tấm rèm rồi rụt lại. Với một vài bậc cha mẹ, như cha mẹ Angela chẳng hạn, điều đó có nghĩa họ biết bạn đã về nhà và bạn có một phút hoặc hơn trước khi họ mở cửa. Thường thì hai bạn có đủ thời gian đại loại để nhìn vào mắt nhau trong khi một trong hai lấy hết cam đảm để hôn thật sự. Thường thì chỉ mất chừng ấy thời gian thôi.

Lúc đó tôi không biết liệu Jamie có muốn hôn tôi hay không; thực ra, tôi ngờ rằng con bé sẽ không làm như thế. Nhưng vì con bé trông thật đáng yêu như thế, với mái tóc xõa xuống và mọi thứ, và sau tất cả những gì đã xảy ra tối nay, tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội nếu nó đến. Khi tôi cảm thấy ruột gan đã bắt đầu có đôi chút nhộn nhạo thì Hegbert mở cửa.

“Bố nghe thấy con về,” ông nói nhanh. Nước da ông vẫn tái xám như thường lệ, nhưng ông có vẻ mệt mỏi.

“Chào Cha Sullivan,” tôi chán ngán nói.

“Chào bố,” một giây sau Jamie vui vẻ nói. “Con ước gì tối nay bố đến được. Thật là tuyệt vời.”

“Bố rất mừng cho con.” Rồi có vẻ như ông trấn tĩnh lại và hắng giọng. “Bố cho con một lúc để chào bạn. Bố để cửa cho con.”

Ông quay lại và đi vào trong phòng khách. Từ chỗ ông ngồi, tôi biết ông vẫn có thể nhìn thấy chúng tôi. Ông giả bộ đang đọc, mặc dù tôi không nhìn ra ông đang cầm cuốn gì.

“Landon à, tối nay mình rất vui,” Jamie nói.

“Mình cũng vậy,” tôi trả lời, cảm thấy mắt Hegbert đang nhìn tôi. Tôi tự hỏi liệu ông có biết tôi đã nắm tay con bé suốt quãng thời gian lái xe về nhà.

“Ngày mai mình đến lúc mấy giờ được nhỉ?” Con bé hỏi.

Lông mày Hegbert rướn lên một chút.

“Mình sẽ tới đón cậu. Năm giờ có được không?”

Con bé ngoảnh lại. “Bố, ngày mai con tới thăm Landon và bố mẹ bận ấy có được không ạ?”

Hegbert đưa tay dịu mắt. Ông thở dài.

“Nếu con thấy quan trọng thì cứ đi,” ông nói.

Không phải sự ủng hộ nhiệt tình nhất tôi từng được nghe, nhưng với tôi thế là đủ.

“Mình mang gì tới được nhỉ? Con bé hỏi. Ở miền Nam, câu hỏi đó là một truyền thống.

“Cậu không cần phải mang gì đâu,” tôi trả lời. “Năm giờ kém mười lăm mình sẽ tới đón cậu”.

Chúng tôi đứng đó một lúc mà không nói gì, và tôi biết Hegbert đang trở nên thiếu kiên nhẫn hơn một chút. Kể từ lúc chúng tôi đứng đó, ông không lật một trang sách nào.

“Hẹn mai gặp lại nhé,” cuối cùng con bé nói.

“OK,” tôi nói.

Con bé liếc xuống dưới chân một lúc, rồi ngước lên nhìn tôi. “Cám ơn cậu đã đưa mình về nhà,” con bé nói.

Nói xong, con bé quay người bước vào trong. Tôi thoáng thấy một nụ cười thoảng trên môi con bé lúc nó hé nhìn qua cánh cửa ngay khi cửa chuẩn bị khép lại. Ngày hôm sau đúng giờ hẹn, tôi đến đón con bé và vui mừng thấy tóc nó lại thả xuống. Như đã hứa, con bé mặc chiếc áo len tôi tặng.

Cả mẹ và bố tôi đều hơi ngạc nhiên khi tôi hỏi liệu tôi mời Jamie tới ăn tối có được không. Chẳng phải là chuyện gì to tát – bất cứ khi nào bố ở nhà, mẹ tôi cũng dặn Helen, chị bếp của chúng tôi, làm đủ thức ăn cho cả tá người.

Hình như tôi chưa đề cập đến chuyện này trước đây, ý tôi là chuyện về chị bếp ấy. Chúng tôi có chị giúp việc và chị bếp, không chỉ bởi vì gia đình tôi có tiền, mà còn bởi mẹ tôi không phải là người nội trợ vĩ đại nhất thế giới. Thỉnh thoảng làm bánh mì kẹp cho bữa trưa của tôi thì không sao, nhưng đã có rất nhiều lần mù tạt làm hỏng móng tay của bà, và bà sẽ mất ít nhất ba hay bốn ngày để trở lại bình thường. Không có Helen tôi hẳn phải lớn lên mà chỉ ăn khoai tây nghiền cháy và bít tết giòn tan. May mắn thay, bố tôi nhận ra điều này ngay khi hai người cưới nhau, và cả chị giúp việc lẫn chị bếp đều đã làm việc cho chúng tôi từ khi tôi ra đời.

Mặc dù nhà tôi lớn hơn hầu hết các nhà khác nhưng nó cũng không phải cung điện hay gì cả, chị giúp việc và chị bếp đều không sống cùng vì chúng tôi không có khu vực sinh hoạt riêng biệt hay bất cứ cái gì giống như thế. Bố tôi mua ngôi nhà này vì giá trị lịch sử của nó. Mặc dù không phải là nơi tên cướp Râu Đen từng sống, được thế thì với một ai đó giống như tôi hẳn sẽ thú vị hơn, ngôi nhà lại từng thuộc sở hữu của Richard Dobbs Spaight, người đã ký bản Hiến pháp. Trước kia Spaight cũng có một trang trại bên ngoài New Bern, khoảng bốn mươi dặm đi ngược con đường, đó cũng là nơi ông được chôn cất. Ngôi nhà của chúng tôi hẳn là không nổi tiếng như nơi Spaight an nghỉ, nhưng nó cho bố tôi quyền khoe khoang trong các hành lang Quốc hội, và mỗi lần ông đi dạo trong vườn, tôi lại thấy ông đang mơ màng về di sản ông muốn để lại.

Theo một cách nào đó, điều ấy khiến tôi buồn bởi dù có làm gì đi chăng nữa, ông cũng chẳng bao giờ vượt được Richard Dobbs Spaight già nua. Những sự kiện lịch sử như phê chuẩn Hiến pháp chỉ vài trăm năm mới xảy ra một lần, và tranh luận về trợ cấp trang trại cho những nông dân trồng thuốc lá hay bàn về “Ảnh hưởng đỏ” sẽ chẳng bao giờ làm nên chuyện, cho dù bạn miêu tả những vấn đề ấy thế nào đi chăng nữa. Thậm chí người như tôi cũng biết điều đó.

Lúc đó ngôi nhà là Di tích Lịch sử Quốc gia – và giờ vẫn còn nằm trong danh sách ấy, tôi đoán vậy – và mặc dù Jamie từng đến đó một lần, con bé vẫn có phần kinh ngạc khi bước vào trong. Bố mẹ tôi, cũng như tôi, đều ăn vận rất đẹp, và mẹ tôi hôn lên má Jamie. Khi nhìn bà làm thế, tôi không thế không nghĩ rằng bà đã ghi điểm trước cả tôi.

Chúng tôi ăn rất ngon, bữa tối tương đối trang trọng với bốn món chính, tuy nhiên không hề buồn tẻ hay bất cứ điều gì tương tự. Bố mẹ tôi và Jamie nói chuyện vô cùng hợp – nếu có cả cô Garber ở đây thì sao nhỉ – và dù tôi cố gắng xem khả năng hài hước trứ danh của mình vào nhưng không được tán thưởng cho lắm, ít nhất là với bố mẹ tôi. Tuy nhiên, Jamie cười, và tôi xem điều đó như một tín hiệu tốt.

Sau bữa tối, dù đang là mùa đông và chẳng có gì ra hoa hết, tôi mời Jamie đi dạo trong vườn. Sau khi mặc áo khoác vào, chúng tôi bước ra ngoài không khí mùa đông lạnh giá. Tôi có thể thấy hơi thở của chúng tôi phả ra thành những luồng hơi nhỏ.

“Bố mẹ cậu thật tuyệt vời,” con bé nói. Tôi đoán nó không thực sự coi trọng những bài thuyết giáo của Hegbert.

“Họ rất dễ thương,” tôi đáp lại, “theo cách riêng của họ. Mẹ mình đặc biệt ngọt ngào.” Tôi nói điều này không chỉ bởi đó là sự thật, mà còn vì đó cũng là điều mà bọn trẻ đã nói về Jamie. Tôi hi vọng con bé đoán được ẩn ý này.

Con bé dừng lại ngắm những bụi hồng. Chúng giống như những cái que xương xẩu, và tôi không hiểu ở đó có gì làm con bé thích thú.

“Có thật ông nội cậu như thế không?” con bé hỏi tôi. “Chuyện mà người ta đồn ấy?”

Tôi cho rằng con bé không hiểu những lời bóng gió của tôi.

“Ừ,” tôi nói, cố gắng không thể hiện nỗi thất vọng của mình.

“Buồn thật,” con bé nói đơn giản. “Cuộc sống có nhiều thứ quan trọng hơn là tiền bạc.”

“Mình biết.”

Con bé nhìn tôi. “Cậu biết sao?”

Tôi không nhìn vào mắt con bé khi trả lời. Đừng hỏi tôi tại sao.

“Mình biết những gì ông mình đã làm là sai.”

“Nhưng cậu không muốn trả lại, đúng không?”

“Nói thật với cậu, mình chưa bao giờ thực sự nghĩ về điều đó.”

“Nhưng cậu sẽ làm thế nào chứ?”

Tôi không trả lời ngay lập tức, và Jamie quay đi. Con bé lại nhìn chằm chằm vào những bụi hồng với những cái que xương xẩu, và tôi chợt nhận ra con bé đã muốn tôi trả lời là có. Đó chính là điều con bé hẳn sẽ làm mà không cần phải nghĩ đến lần thứ hai.

“Tại sao cậu làm thế?” máu dồn lên mặt, tôi thốt ra trước khi có thể ngăn bản thân mình lại. “Ý mình là, khiến mình cảm thấy tội lỗi. Mình không phải là người làm việc đó. Mình chỉ tình cờ được sinh ra trong gia đình này thôi.”

Con bé với tay chạm vào một nhành cây.

“Điều đó không có nghĩa cậu không thể làm lại khi cậu có cơ hội,” con bé nói nhẹ nhàng.

Thậm chí với tôi, quan điểm của con bé rất rõ ràng, và tận đáy lòng tôi biết nó đúng. Nhưng quyết định đó, nếu có đến, thì cũng còn xa lắm. Tôi cho rằng mình còn nhiều điều quan trọng hơn để bận tâm. Tôi đưa chủ đề quay lại với những gì tôi thấy gần gũi hơn.

“Bố cậu có thích mình không?” tôi hỏi. Tôi rất muốn biết liệu Hegbert có cho phép tôi gặp lại con bé không.

Mất một lúc con bé mới trả lời.

“Bố,” con bé nói chậm rãi, “lo lắng cho mình.”

“Không phải tất cả các ông bố bà mẹ đều thế sao?” tôi hỏi.

Con bé nhìn xuống chân, rồi lại nhìn sang bên trước khi quay về phía tôi.

“Mình nghĩ ông khác với hầu hết mọi người. Nhưng bố mình thực sự quý cậu, và ông biết rằng gặp cậu khiến mình vui. Vậy nên ông mới cho phép mình tới nhà cậu ăn tối nay.”

“Mình vui vì ông làm thế,” tôi nói thực lòng.

“Mình cũng vậy.”

Chúng tôi nhìn nhau dưới ánh sáng của mảnh trăng lưỡi liềm đang tròn dần, và tôi suýt hôn con bé, nhưng con bé quay đi hơi quá sớm rồi nói một câu khiến tôi giật mình.

“Bố mình cũng lo lắng về cậu nữa, Landon ạ.”

Cái cách con bé nói điều đó – vừa nhẹ nhàng vừa buồn bã – khiến tôi biết rằng không đơn giản vì bố nó nghĩ tôi là người vô trách nhiệm, từng trốn sau những cái cây mà réo tên ông ấy, hay thậm chí là người nhà Carter.

“Tại sao?” tôi hỏi.

“Cùng một lý do khiến mình lo lắng,” con bé đáp. Con bé không nói thêm nữa, và ngay lúc ấy tôi biết con bé đang giữ lại điều gì đó, điều nó không thể nói với tôi, điều khiến nó buồn. Nhưng mãi sau này tôi mới biết được bí mật của con bé.

Không nghi ngờ gì nữa, yêu một đứa con gái như Jamie Sullivan là điều lạ lùng nhất mà tôi từng trải qua. Không chỉ vì con bé là đứa con gái tôi chưa bao giờ nghĩ tới trước đó – mặc dù chúng tôi lớn lên cùng nhau – mà còn vì cái cách tôi bộc lộ những tình cảm của mình dành cho con bé thật khác. Lần này không giống với việc hẹn hò Angela, tôi đã hôn cô nàng ngay lần đầu tiên hai đứa ở một mình với nhau. Tôi vẫn chưa hôn Jamie. Tôi còn chưa ôm hay đưa con bé đến quán Cecil’s hay thậm chí là đi xem phim. Tôi chưa làm bất cứ điều gì mà tôi thường làm với bọn con gái, tuy nhiên theo một cách nào đó, tôi đang yêu.

Vấn đề là, tôi vẫn không biết con bé cảm thấy thế nào về tôi.

Ôi chắc chắn rồi, có một vài dấu hiệu, tôi không quên đâu. Cuốn Kinh thánh là một dấu hiệu rất quan trọng, tất nhiên rồi, nhưng còn là cái cách con bé nhìn tôi khi đóng cửa vào đêm Giáng sinh, rồi cái cách con bé để tôi cầm tay trên đường từ trại trẻ mồ côi về nhà. Tôi nghĩ chắc chắn có điều gì đó – chỉ là tôi không chắc làm thế nào để tiến đến bước tiếp theo.

Cuối cùng, khi tôi đưa con bé về nhà sau bữa tối Giáng sinh, tôi hỏi liệu thỉnh thoảng tôi ghé qua có được không, và con bé nói cũng được. Con bé đã nói y sì như thế đây – “Cũng được mà.” Tôi không suy diễn sự thiếu nhiệt tình ấy – Jamie có xu hướng nói chuyện giống như người lớn, và tôi nghĩ đó chính là lý do vì sao con bé hợp với những người lớn tuổi đến vậy.

Ngày hôm sau tôi đi bộ đến nhà con bé, và điều đầu tiên tôi nhận thấy là xe ô tô của Hegbert không có mặt trên lối vào. Khi con bé ra mở của, tôi biết tôi không cần hỏi con bé liệu mình có thể vào nhà được chăng.

“Chào Landon,” con bé nói như thường lệ, cứ như thế thật ngạc nhiên khi gặp tôi. Tóc con bé lại thả xuống, và tôi coi điều này như một dấu hiện tích cực.

“Chào Jamie,” tôi nói một cách tự nhiên.

Con bé ra hiệu về phía những chiếc ghế. “Bố mình không có nhà, nhưng chúng ta có thể ngồi ngoài hiên nếu cậu muốn…”

Thậm chí đừng hỏi tôi chuyện đó xảy ra như thế nào, bởi tôi vẫn không thể giải thích được. Một giây trước tôi vẫn đang đứng ngay trước mặt con bé, chuẩn bị đi ra mái hiên, một giây sau đã không còn thế nữa. Thay vì đi về phía những chiếc ghế, tôi bước một bước gần hơn về phía con bé và thấy mình đang tìm tay con bé. Tôi nhìn thẳng vào mắt con bé, nắm tay nó trong tay tôi, lại gần hơn một chút nữa. Con bé không hẳn lùi lại, nhưng mắt nó mở to hơn một chút, và trong một thoáng tôi nghĩ mình đã làm sai và cân nhắc xem có nên tiến xa hơn. Tôi ngừng lại, mỉm cười, hơi nghiêng đầu sang bên, rồi tôi thấy con bé nhắm mắt và cũng nghiêng đầu, mặt chúng tôi đưa sát lại nhau.

Không lâu đến vậy, và chắc chắn không phải là kiểu nụ hôn mà bạn thấy trong các bộ phim ngày nay, nhưng nó tuyệt vời theo cách rất riêng, và tất cả những gì tôi nhớ được về phút giây ấy chính là khi môi chúng tôi lần đầu chạm vào nhau, tôi biết ký ức đó sẽ còn mãi mãi.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.