Đoạn đường để nhớ

Chương 11



“Cậu là người con trai đầu tiên mình hôn,” nàng nói với tôi.

Chỉ còn vài ngày nữa là sang năm mới, Jamie và tôi đang đứng ở cầu tàu Iron Steamer trên bờ biển Pine Knoll. Để tới đó, chúng tôi phải vượt cây cầu bắc qua con nước Coastal và chạy xe một đoạn ven hòn đảo. Ngày nay, ở đó có một vài căn nhà hướng ra biển thuộc hàng đắt đỏ nhất bang, nhưng hồi ấy chủ yếu là những đụn cát náu mình vào Rừng Quốc gia Maritime.

“Mình cũng đoán vậy,” tôi nói.

“Tại sao?” nàng ngây thơ hỏi. “Mình làm sai à?”

Nàng trông có vẻ sẽ không quá buồn nếu tôi có bảo đúng đi chăng nữa, nhưng như thế sẽ là nói dối.

“Cậu hôn rất tuyệt,” tôi nói, bóp nhẹ tay nàng.

Nàng gật đầu và quay mặt về phía đại dương, mắt nàng lại mang cái vẻ xa vắng đó. Gần đây, nàng hay làm vậy. Tôi để như thế một lúc đến khi không thể chịu được sự im lặng lâu hơn nữa.

“Jamie, cậu không sao chứ?” cuối cùng tôi hỏi.

Thay vì trả lời, nàng đổi chủ đề.

“Cậu đã bao giờ yêu chưa?” nàng hỏi.

Tôi lùa tay vào trong tóc và nhìn nàng vẻ vờ vĩnh. “Ý cậu là trước đây ấy à?”

Tôi nói chẳng khác nào tài tử James Dean, Eric mách tôi trả lời vậy nếu có đứa con gái nào hỏi thế. Eric khá là khéo léo với bọn con gái.

“Landon, mình nghiêm túc đấy,” nàng nói, ném cho tôi cái liếc mắt sắc lẻm.

Tôi đoán Jamie cũng xem những bộ phim đó rồi. Tôi nhận ra, với Jamie, có vẻ như tôi luôn từ thiên đường rơi xuống đất rồi quay trở lại trong khoảng thời gian không đủ để đập một con muỗi. Tôi không chắc mình có thích khía cạnh đó trong mối quan hệ của chúng tôi, mặc dù thành thật mà nói, nó khiến tôi lâng lâng. Tôi vẫn cảm thấy mất thăng bằng trong khi nghĩ về câu hỏi của nàng.

“Thực ra, mình đã từng,” cuối cùng tôi nói.

Mắt nàng vẫn nhìn về phía đại dương. Hẳn nàng cho rằng tôi đang nói về Angela, nhưng nghĩ lại, tôi nhận ra những cảm nhận về Angela hoàn toàn khác với những gì tôi cảm thấy lúc này.

“Làm thế nào cậu biết được đó là tình yêu?” nàng hỏi.

Tôi quan sát cơn gió nhẹ làm tóc nàng bay bay, và biết rằng giờ không phải lúc để giả vờ là một con người khác với bản thân mình.

“Chà,” tôi nói nghiêm túc, “cậu biết đó là yêu khi tất cả những gì cậu muốn làm là ở bên người đó, và cậu phần nào biết rằng người kia cũng cảm thấy y như vậy.”

Jamie nghĩ về câu trả lời của tôi trước khi khẽ mỉm cười.

“Mình hiểu,” nàng nhẹ nhàng đáp. Tôi chờ nàng nói thêm, nhưng nàng không nói gì nữa, và tôi chợt nhận ra một điều khác.

Jamie có thể chưa từng có kinh nghiệm với bọn con trai, nhưng thành thật mà nói, nàng đang chơi tôi giống như một cây đàn hạc vậy.

Chẳng hạn như, trong suốt hai ngày tiếp theo, nàng lại búi tóc lên.

Đêm Giao thừa, tôi đưa Jamie ra ngoài ăn tối. Chúng tôi tới một nhà hàng nhỏ trông ra vịnh ở thành phố Morehead, một nơi gọi là Flauvin’s, và đó là buổi hẹn hò thực sự đầu tiên của nàng. Flauvin’s là kiểu nhà hàng với khăn trải bàn, nến và năm dụng cụ bằng bạc khác nhau cho mỗi thực khách. Phục vụ mặc đồ trắng và đen, giống như những quản gia, và khi nhìn ra ngoài những cửa sổ khổng lồ nối kín bức tường, bạn có thể ngắm ánh trăng phản chiếu trên mặt nước đang khẽ lay động.

Còn có người chơi piano và ca sĩ nữa, không phải tối nào cũng có, hay thậm chí mọi cuối tuần, mà chỉ vào các ngày lễ khi họ nghĩ rằng nhà hàng sẽ kín chỗ. Tôi phải đặt chỗ trước, lần đầu tiên tôi gọi, họ nói rằng người ta đã đặt hết chỗ rồi, nhưng khi nhờ mẹ tôi gọi thì bạn biết rồi đấy, xuôi chèo mát mái ngay. Tôi đoán chủ nhà hàng cần sự giúp đỡ của bố tôi hay sao đó, hoặc cũng có thể ông ta chỉ không muốn bố tôi giận dữ vì ông ta biết rằng ông nội tôi vẫn còn sống.

Thực ra đưa Jamie tới một nơi đặc biệt là ý tưởng của mẹ tôi. Vài ngày trước đó, một trong những ngày mà Jamie búi tóc, tôi nói với mẹ về những điều mình đang trải qua.

“Mẹ, con chỉ nghĩ về cô ấy thôi,” tôi thú nhận. “Ý con là, con biết cô ấy thích con, nhưng con không biết cô ấy có cảm thấy những gì con cảm thấy không.”

“Con bé có ý nghĩa với con nhiều vậy sao?” mẹ tôi hỏi.

“Vâng,” tôi nói khẽ.

“Chà, cho đến giờ thì con đã làm những gì rồi?”

“Ý mẹ là sao?”

Mẹ tôi mỉm cười. “Ý mẹ là những cô gái trẻ, kể cả Jamie nữa, đều thích được cảm thấy thật đặc biệt.”

Tôi nghĩ về điều đó một lúc, cảm thấy hơi bối rối. Đó không phải là những gì tôi đang cố gắng làm sao?

“Ừm, con tới nhà thăm cô ấy mỗi ngày,” tôi nói.

Mẹ đặt tay lên đầu gối tôi. Như tôi đã nói, mặc dù không phải bà nội trợ vĩ đại và đôi khi còn rất khắt khe với tôi nhưng mẹ tôi thực sự là một phụ nữ ngọt ngào.

“Tới nhà thăm cũng dễ thương đấy, nhưng không phải là điều lãng mạn nhất. Con nên làm gì đó thực sự giúp con bé biết con cảm thấy thế nào về con bé.”

Mẹ tôi đề nghị mua nước hoa, và mặc dù tôi biết Jamie có thể sẽ vui khi nhận, nước hoa có vẻ không phù hợp với nàng. Trước tiên là vì Hegbert không cho phép nàng trang điểm – chỉ một ngoại lệ duy nhất hồi diễn kịch Giáng sinh – tôi chắc rằng nàng không thể dùng nước hoa. Tôi nói với mẹ như thế, và đó là lúc bà gợi ý tôi nên mời Jamie ra ngoài ăn tối.

“Con không còn tiền,” tôi chán nản nói với mẹ.

Mặc dù gia đình giàu có và cho tôi tiền tiêu vặt, bố mẹ tôi không bao giờ cho thêm nếu tôi tiêu hết số tiền quá nhanh. “Làm vậy con mới có trách nhiệm,” bố tôi từng giải thích như thế.

“Chuyện gì đã xảy ra với số tiền của con trong ngân hàng?”

Tôi thở dài, và mẹ ngồi im lặng trong lúc tôi giải thích những gì đã làm. Khi tôi nói xong, mặt bà thoáng vẻ hài lòng lặng lẽ, như thể bà cũng biết cuối cùng thì tôi cũng đang trưởng thành.

“Hãy để mẹ lo chuyện đó,” bà nói nhẹ nhàng. “Con chỉ phải tìm hiểu xem con bé có muốn đi không và liệu Cha Sullivan có cho phép. Nếu con bé đi được, chúng ta sẽ tìm ra cách biến điều này thành hiện thực. Mẹ hứa.”

Hôm sau tôi tới nhà thờ. Tôi biết Hegbert sẽ có mặt trong văn phòng của ông. Tôi chưa hỏi Jamie vì biết nàng cần sự cho phép của bố, và không hiểu sao tôi muốn là người xin phép. Tôi đoán có lẽ là bởi Hegbert không hề dang tay chào đón khi tôi tới thăm. Cứ khi nào thấy tôi trên lối vào nhà – cũng như Jamie, ông có giác quan thứ sáu trong chuyện này – ông lại hé nhìn qua rèm cửa rồi nhanh chóng rụt đầu lại, cho rằng tôi không thấy ông. Khi tôi gõ cửa, phải mất khá lâu ông mới mở, như thể ông phải đi từ trong bếp ra. Ông nhìn tôi một lúc lâu, rồi thở dài thườn thượt và lắc đầu, cuối cùng mới cất tiếng chào.

Cửa văn phòng hé mở, tôi nhìn thấy ông ngồi phía sau bàn làm việc, cặp kính trễ nải trên mũi. Ông đang xem giấy tờ – có vẻ như liên quan đến tài chính – và tôi đoán ông đang cố tính toán ngân sách cho nhà thờ năm sau. Ngay cả các mục sư cũng có những hóa đơn cần chi trả.

Tôi gõ cửa, và ông háo hức ngước lên, như thể hi vọng một thành viên nào khác của giáo đoàn, rồi cau mày khi nhận ra đó là tôi.

“Chào Cha Sullivan,” tôi lịch sự nói. “Cha có rảnh không ạ? Con nói chuyện với Cha một lúc được chứ?”

Trông ông thậm chí còn mệt mỏi hơn thường lệ, và tôi nghĩ ông không được khỏe.

“Chào con Landon,” ông mệt mỏi nói.

Nhân tiện cũng nói luôn là tôi ăn mặc rất nghiêm túc cho dịp này, com lê cà vạt. “Con vào được không ạ?”

Ông khẽ gật đầu, và tôi bước vào phòng. Ông ra hiệu cho tôi ngồi vào chiếc ghế đối diện với ông.

“Ta có thể giúp gì cho con?” ông hỏi.

Tôi hồi hộp chỉnh tư thế trên ghế. “Dạ, thưa Cha, con muốn hỏi Cha một chuyện.”

Ông nhìn tôi chằm chằm đầy dò xét, cuối cùng ông cũng lên tiếng. “Có liên quan gì tới Jamie không?” ông hỏi.

Tôi hít một hơi thật sâu.

“Có, thưa Cha. Con muốn hỏi liệu Cha có cho phép con đưa cô ấy đi ăn tối vào đêm Giao thừa được không.”

Ông thở dài. “Chỉ có vậy thôi sao?” ông nói.

“Vâng, thưa Cha,” tôi nói. “Con sẽ đưa cô ấy về nhà vào bất cứ lúc nào Cha yêu cầu.”

Ông tháo cặp kính ra, lau bằng khăn tay rồi đeo lại. Tôi có thể nói ông đang câu giờ để suy nghĩ về chuyện này.

“Bố mẹ con có đi cùng không?” ông hỏi.

“Không, thưa Cha.”

“Thế thì ta nghĩ ta không cho phép được. Nhưng cảm ơn con đã hỏi xin ta trước”. Ông nhìn xuống đống giấy tờ, tỏ ý rõ ràng rằng đã đến lúc tôi phải đi. Tôi đứng lên và dợm bước về phía cửa. Ngay khi tôi sắp sửa đi, tôi đối diện với ông lần nữa.

“Cha Sullivan?”

Ông ngước lên, ngạc nhiên thấy tôi vẫn còn ở đó.

“Con xin lỗi về những điều con từng làm lúc còn nhỏ, và con xin lỗi đã không luôn đối xử với Jamie theo cách cô ấy đáng được đối xử. Nhưng từ giờ trở đi, mọi thứ sẽ thay đổi. Con xin hứa với Cha như thế.”

Ông như đang nhìn xuyên qua tôi. Vẫn chưa đủ.

“Con yêu cô ấy,” cuối cùng tôi nói, và khi tôi nói câu đó, tâm trí ông lại tập trung vào tôi.

“Ta biết con yêu con bé,” ông trả lời một cách buồn bã, “nhưng ta không muốn thấy con bé bị tổn thương.” Tôi nghĩ mình trông thấy mắt ông bắt đầu ngân ngấn, mặc dù chắc là tôi chỉ đang tưởng tượng thôi.

“Con sẽ không làm tổn thương cô ấy,” tôi nói.

Ông quay đi, nhìn ra ngoài cửa sổ, ngắm mặt trời mùa đông đang cố trồi ra khỏi những đám mây. Đó là một ngày xám xịt, lạnh lẽo và rét buốt.

“Hãy đưa con bé về nhà lúc mười giờ,” cuối cùng ông nói, như thể ông biết mình đã đưa ra một quyết định sai lầm.

Tôi mỉm cười và muốn cảm ơn ông, tuy nhiên tôi đã không nói. Tôi biết ông muốn được ở một mình. Khi liếc ra sau lưng trên đường ra cửa, tôi bối rối khi nhìn thấy ông úp mặt vào tay.

Một giờ sau, tôi mời Jamie. Đầu tiên nàng nói là không nghĩ mình đi được, nhưng tôi bảo rằng đã nói chuyện với bố nàng rồi. Jamie có vẻ ngạc nhiên, và tôi nghĩ điều đó tác động lên cách nhìn của nàng với tôi sau này. Tôi không kể Hegbert có vẻ như đã khóc lúc tôi bước ra cửa. Không chỉ vì tôi không hoàn toàn hiểu chuyện đó, mà còn bởi tôi không muốn nàng lo lắng. Tuy nhiên, tối đó, sau khi nói chuyện với mẹ tôi một lần nữa, bà cho tôi một cách giải thích khả dĩ, và thành thật mà nói, với tôi cách giải thích ấy hoàn toàn có lý. Hegbert hẳn đã nhận ra con gái ông đang trưởng thành, và rằng dần dần ông sẽ mất con bé. Ở một mặt nào đó, tôi hi vọng điều ấy là sự thật.

Tôi đón Jamie đúng giờ. Mặc dù tôi không yêu cầu nàng xõa tóc, nàng đã làm điều đó vì tôi. Chúng tôi lặng lẽ chạy xe qua cầu, xuôi con đường ven biển tới nhà hàng. Khi hai đứa tới chỗ lễ tân, ông chủ nhà hàng xuất hiện và đưa chúng tôi đến bàn. Đó là một trong những chiếc bàn đẹp trong nhà hàng.

Lúc chúng tôi tới, nhà hàng đã đông khách và mọi người xung quanh đều đang rất vui vẻ. Chúng tôi chỉ là hai đứa thiếu niên giữa những người ăn mặc thời trang vào dịp năm mới. Dẫu vậy, tôi không nghĩ trông chúng tôi quá lạc lõng.

Jamie chưa bao giờ đến nhà hàng Flauvin’s trước đó, vậy nên nàng mất vài phút để định thần. Nàng có vẻ vừa vui sướng vừa hồi hộp, và ngay lập tức tôi biết rằng mẹ tôi đã đưa ra một gợi ý chính xác.

“Chỗ này thật tuyệt vời,” nàng nói với tôi. “Cảm ơn cậu đã mời mình.”

“Đó là vinh hạnh của mình,” tôi thành thật nói.

“Cậu tới đây bao giờ chưa?”

“Một vài lần. Thỉnh thoảng bố mẹ mình thích đến đây khi bố từ Washington về nhà.”

Jamie đưa mắt ra ngoài cửa sổ và chăm chú nhìn con thuyền đang đi ngang qua nhà hàng, ánh sáng của chiếc thuyền tỏa ra rực rỡ. Nàng như chìm đắm trong kinh ngạc. “Ở đây đẹp quá,” nàng nói.

“Cậu cũng vậy,” tôi trả lời.

Jamie đỏ mặt. “Cậu không thật lòng.”

“Có,” tôi nói khẽ, “mình nói thật.”

Chúng tôi nắm tay trong khi chờ bữa tối, Jamie và tôi nói về vài chuyện xảy ra trong mấy tháng vừa qua. Nàng cười lớn khi tôi nhắc đến buổi khiêu vũ đầu năm học, và cuối cùng tôi thừa nhận lý do ban đầu tôi mời nàng. Nàng rất cao thượng trong chuyện này – nàng cười lớn thật vui vẻ – và tôi biết tự nàng cũng đã đoán ra lý do.

“Cậu sẽ mời mình lần nữa chứ?” nàng châm chọc.

“Chắc chắn rồi.”

Bữa tối rất ngon – cả hai chúng tôi cùng gọi món cá pecca và xa lát, và cuối cùng, khi người phục vụ thu dọn đĩa, âm nhạc bắt đầu nổi lên. Chúng tôi còn một tiếng nữa trước khi tôi phải đưa Jamie về nhà, và tôi đưa tay mời nàng.

Đầu tiên, hai đứa là cặp đôi duy nhất trên sàn, tất cả mọi người ngắm nhìn chúng tôi lướt quanh. Tôi nghĩ bọn họ đều biết chúng tôi cảm thấy như thế nào về nhau, và chúng tôi cũng gợi cho họ nhớ tới thời trẻ nữa. Tôi có thể thấy họ mỉm cười với chúng tôi đầy bâng khuâng. Ánh sáng mờ mờ, và khi người ca sĩ bắt đầu một giai điệu chậm rãi, tôi ôm nàng thật gần, mắt nhắm lại, tự hỏi liệu đời mình từng có điều gì hoàn hảo đến thế này chưa, và cùng lúc ấy, tôi cũng biết câu trả lời là chưa.

Tôi đang yêu, và cảm giác này thậm chí còn tuyệt vời hơn tôi từng tưởng tượng.

Sau đêm Giao thừa, chúng tôi ở bên nhau hai tuần rưỡi, làm những thứ mà các cặp tình nhân trẻ hồi đó làm, mặc dù đôi khi nàng có vẻ mệt mỏi và lơ đãng. Chúng tôi ngồi cùng nhau bên bờ sông Neuse, vừa liệng đá xuống nước, nhìn ngắm những gợn sóng lăn tăn vừa trò chuyện, hoặc chúng tôi tới bãi biển gần Fort Macon. Mặc dù lúc ấy là mùa đông, nước biển xám xịt, nhưng ra biển vẫn là điều cả hai thích làm. Sau khoảng một tiếng Jamie thường bảo tôi đưa nàng về, và chúng tôi nắm tay nhau trong xe ô tô. Thỉnh thoảng nàng gần như ngủ gật thậm chí trước cả khi chúng tôi về tới nhà, trong khi những lần khác nàng trò chuyện huyên thuyên suốt đường về đến nỗi tôi gần như không thể xen vào lấy một lời.

Tất nhiên, ở bên Jamie cũng có nghĩa là làm những việc nàng thích nữa. Tuy nhiên tôi học lớp nghiên cứu Kinh thánh của nàng – tôi không muốn trông như một thằng ngốc trước mặt nàng – chúng tôi tới thăm trại trẻ mồ côi hai lần nữa, và mỗi lần tới đó tôi lại cảm thấy thân quen hơn. Tuy nhiên, một lần chúng tôi phải về sớm bởi vì nàng sốt nhẹ. Ngay cả với con mắt của một người không có kinh nghiệm như tôi, rõ ràng mặt nàng đỏ bừng lên.

Chúng tôi còn hôn nhau nữa, mặc dù không phải lần nào bên nhau cũng thế, và tôi thậm chí không nghĩ đến việc chuyển sang bước thứ hai. Chẳng cần phải làm như vậy. Có gì đó thật đẹp khi tôi hôn nàng, điều gì đó vừa dịu dàng vừa đúng đắn, và với tôi thế là đủ. Càng hôn nàng, tôi càng vỡ lẽ rằng trong toàn bộ cuộc đời nàng Jamie đã bị hiểu nhầm, không chỉ bởi tôi, mà còn bởi tất cả mọi người.

Jamie không đơn giản là con gái một mục sư, đọc Kinh thánh và hết mình giúp đỡ người khác. Jamie cũng là cô gái mười bảy tuổi với những hoài nghi và hi vọng như tôi. Chí ít đó là những gì tôi đoán, cho đến khi cuối cùng nàng cũng nói với tôi.

Tôi sẽ không bao giờ quên ngày hôm đó bởi nàng mới lặng lẽ làm sao, và cả ngày tôi cứ có cảm giác buồn cười rằng nàng đang ngẫm ngợi điều gì đó rất quan trọng.

Tối thứ Bảy trước khi bắt đầu đi học trở lại, tôi đi bộ cùng nàng từ quán Cecil’s về nhà, một ngày gió dữ dội và lạnh buốt. Gió lạnh đã tràn về từ sáng hôm trước, chúng tôi vừa bước đi vừa nép sát vào nhau để giữ ấm. Jamie khoác tay tôi và chúng tôi bước chậm rãi, thậm chí còn chậm hơn bình thường, và tôi có thể nói nàng lại không được khỏe. Nàng thực sự không muốn đi khi thời tiết đang thế này, nhưng tôi muốn nàng đi cùng vì bọn bạn. Tôi nhớ khi ấy mình đã nghĩ rằng cuối cùng cũng đến lúc bọn nó biết chuyện hai đứa tôi. Vấn đề duy nhất, như số phận đã định sẵn, là chẳng có bất kỳ ai khác ở quán Cecil’s. Bởi đối với nhiều cộng đồng duyên hải, mọi thứ ven vịnh thường tĩnh lặng vào giữa mùa đông.

Nàng im lặng khi chúng tôi rảo bước, và tôi biết nàng đang nghĩ cách nói với tôi điều gì đó. Tôi không ngờ nàng lại bắt đầu cuộc trò chuyện bằng câu này.

“Mọi người nghĩ mình kỳ quặc, đúng không,” cuối cùng nàng nói, phá vỡ sự im lặng.

“Ý cậu là ai cơ?” tôi hỏi, mặc dù tôi đã biết câu trả lời.

“Mọi người ở trường.”

“Không, không phải vậy đâu,” tôi nói dối.

Tôi hôn vào má nàng trong lúc siết nhẹ để tay nàng gần tôi hơn một chút. Nàng cau mày, và tôi biết tôi đã làm nàng đau.

“Cậu không sao chứ?” tôi lo lắng hỏi.

“Mình không sao,” nàng nói, lấy lại vẻ điềm tĩnh và tiếp tục chủ đề. “Nhưng cậu làm ơn giúp mình một việc được không?”

“Bất cứ việc gì,” tôi nói.

“Cậu hứa từ giờ sẽ chỉ nói thật với mình được chứ? Ý mình là luôn luôn ấy?”

“Chắc chắn rồi,” tôi nói.

Nàng đột ngột ngăn tôi lại và nhìn thẳng vào tôi. “Ngay lúc này cậu đang nói dối mình đúng không?”

“Không,” tôi nói đầy vẻ tự vệ, tự hỏi chuyện này sẽ đi tới đâu. “Mình hứa rằng từ bây giờ trở đi, mình sẽ luôn luôn nói sự thật với cậu.”

Không hiểu sao, khi nói thế, tôi biết rồi mình sẽ phải hối tiếc.

Chúng tôi lại bắt đầu rảo bước. Khi chúng tôi đi dọc con phố, liếc nhìn bàn tay nàng đang nắm lấy cánh tay tôi, tôi thấy một vết bầm tím ngay dưới ngón đeo nhẫn. Tôi không biết nó từ đâu ra, bởi ngày hôm trước nó không có ở đó. Trong một thoáng tôi nghĩ có thể mình là nguyên nhân gây ra vết bầm ấy, nhưng rồi tôi nhận ra thậm chí mình còn chưa từng chạm vào chỗ đó của nàng.

“Mọi người nghĩ mình kỳ cục phải không?” nàng hỏi lại.

Hơi thở của tôi phả ra thành những luồng hơi nhỏ.

“Ừ,” cuối cùng tôi trả lời. Nói ra điều ấy cũng làm tôi đau.

“Tại sao?” trông nàng gần như là thất vọng.

Tôi nghĩ về điều đó. “Mỗi người có một lý do khác nhau,” tôi nói chung chung, cố gắng hết sức để không đi xa hơn.

“Nhưng chính xác thì tại sao? Có phải vì bố mình không? Hay là vì mình cố gắng tử tế với mọi người?”

Tôi không muốn nói chuyện này nữa.

“Chắc vậy,” là tất cả những gì tôi có thể nói. Tôi cảm thấy hơi buồn nôn.

Jamie có vẻ chán nản, và chúng tôi đi thêm một đoạn trong im lặng.

“Cậu cũng nghĩ mình kỳ cục phải không?” nàng hỏi tôi.

Cái cách nàng hỏi khiến tôi đau đớn hơn tôi tưởng. Chúng tôi sắp tới nhà nàng thì tôi ngăn nàng lại và ôm nàng sát vào lòng. Tôi hôn nàng, và khi chúng tôi rời nhau, nàng nhìn xuống đất.

Tôi đặt ngón tay dưới cằm nàng, nâng đầu nàng lên và buộc nàng lại nhìn tôi. “Jamie, cậu là một người tuyệt vời. Cậu xinh đẹp, cậu tốt bụng, cậu dịu dàng… cậu là tất cả những gì mình muốn trở thành. Nếu người ta không thích cậu hoặc nghĩ cậu kỳ cục thì đó là vấn đề của chính họ.”

Trong ánh sáng xam xám của một ngày mùa đông lạnh giá, tôi có thể nhìn thấy môi dưới của nàng bắt đầu run rẩy. Môi tôi cũng run run, và tôi chợt nhận ra tim mình đang đập nhanh hơn. Tôi nhìn vào mắt nàng, dồn tất cả tình cảm vào nụ cười, biết rằng tôi không thể giữ những lời ấy ở trong mình lâu hơn nữa.

“Mình yêu cậu, Jamie,” tôi nói với nàng. “Cậu là điều tốt đẹp nhất từng xảy đến với mình.”

Đó là lần đầu tiên tôi nói những lời ấy với một ai khác ngoài người trong gia đình mình. Mỗi bận hình dung tôi nói điều này với một ai khác, tôi đã nghĩ hẳn sẽ khó khăn lắm, nhưng không hề. Tôi chưa bao giờ chắc chắn về bất cứ điều gì hơn thế.

Nhưng, ngay khi tôi nói những lời đó, Jamie cúi gằm và bắt đầu khóc, dựa cả người nàng vào người tôi. Tôi choàng tay quanh nàng, tự hỏi có chuyện gì không ổn. Nàng gầy quá, lần đầu tiên tôi nhận ra hai cánh tay tôi ôm trọn cả thân hình nàng. Nàng gầy đi, thậm chí chỉ trong một tuần rưỡi qua, và tôi nhớ ra ban nãy nàng gần như không đụng vào đồ ăn. Nàng tiếp tục khóc trên ngực tôi rất lâu. Tôi không biết phải nghĩ gì, thậm chí cũng chẳng biết liệu nàng có cảm thấy giống tôi không. Dù vậy, tôi cũng không hối tiếc vì đã nói lời yêu. Sự thực thì luôn luôn là sự thực, và tôi chỉ vừa mới hứa với nàng rằng tôi không bao giờ nói dối nữa.

“Đừng nói thế,” nàng nói với tôi. “Xin cậu…”

“Nhưng mình yêu cậu,” tôi nói, nghĩ rằng nàng không tin tôi.

Nàng bắt đầu khóc thậm chí còn dữ dội hơn. “Mình xin lỗi,” nàng thì thầm với tôi qua những tiếng nức nở rời rạc. “Mình thực sự, thực sự xin lỗi…”

Cổ họng tôi đột nhiên khô khốc.

“Tại sao cậu lại xin lỗi?” tôi hỏi, đột nhiên tuyệt vọng muốn hiểu chuyện gì đang làm nàng buồn.

“Có phải vì đám bạn mình và những gì bọn chúng sẽ nói không? Mình chẳng thèm quan tâm nữa – thực sự không quan tâm đấy.” Tôi đang tóm lấy bất cứ cách lý giải nào, cảm thấy vừa hoang mang vừa, đúng vậy… sợ hãi.

Phải mất một lúc lâu nữa nàng mới ngừng khóc, và rồi nàng ngước lên nhìn tôi. Nàng hôn tôi dịu dàng, tựa như hơi thở của người đi qua phố, rồi lướt ngón tay lên má tôi.

“Cậu không thể yêu mình được, Landon à,” nàng nói qua đôi mắt sưng đỏ mọng. “Chúng ta có thể là bạn, chúng ta có thể gặp nhau… nhưng cậu không thể yêu mình.”

“Tại sao không?” tôi hét lên khản cả tiếng, không hiểu được chuyện này một chút nào nữa.

“Bởi vì,” cuối cùng nàng cũng khẽ nói, “mình ốm rất nặng, Landon ạ.”

Ý tưởng ấy hoàn toàn xa lạ đến mức tôi không hiểu nổi những gì nàng muốn nói.

“Thế thì sao? Chỉ vài ngày là…”

Một nụ cười buồn lướt qua gương mặt nàng, và ngay lúc đó, tôi hiểu ra nàng muốn nói với tôi điều gì. Mắt nàng không rời mắt tôi khi cuối cùng nàng cũng nói những lời làm tâm hồn tôi chết lặng.

“Landon, mình sắp chết.”


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.