Đoạn đường để nhớ

Chương 2



Tôi dự định vào Đại học Bắc Carolina ở Chapel Hill sau khi học xong cấp ba. Bố muốn tôi vào Harvard hay Princeton giống như con trai các ông nghị sĩ khác, nhưng với kết quả học tập của tôi điều đó là không thể. Nói vậy không có nghĩa tôi là một học sinh tồi. Tôi chỉ không tập trung vào việc học hành, và điểm số của tôi không đạt yêu cầu để vào các trường trong nhóm Ivy Leagues. Vào năm cuối phổ thông tôi cũng không chắc liệu mình có được nhận vào Đại học Bắc Carolina hay không, đây là nơi mà bố tôi từng học và ông có thể giật dây một số người ở đó. Trong một kỳ nghỉ cuối tuần hiếm hoi ở nhà, bố tôi đã nảy ra kế hoạch đưa tôi vào hàng học sinh đầu bảng. Lúc đó tôi chỉ vừa kết thúc tuần học đầu tiên và cả nhà đang ngồi ăn tối. Bố tôi ở nhà ba ngày nhân dịp Lễ lao động trúng vào cuối tuần.

“Bố nghĩ con nên tranh chức chủ tịch hội học sinh đi,” ông nói. “Con sẽ tốt nghiệp vào tháng Sáu, bố nghĩ hoạt động này sẽ làm đẹp học bạ của con. Mẹ con cũng nghĩ như thế đấy.”

Mẹ tôi gật đầu trong khi đang nhai đầy đậu trong mồm. Bà không nói nhiều khi bố tôi phát biểu, mặc dù bà nháy mắt với tôi. Đôi khi tôi nghĩ mẹ thích thấy tôi lúng túng, mặc dù bà rất dễ thương.

“Con nghĩ mình không có cơ hội chiến thắng đâu,” tôi nói. Mặc dù có lẽ tôi là đứa nhà giàu nhất trong trường, nhưng không có nghĩa tôi là đứa nổi bật nhất. Vinh dự đó thuộc về Eric Hunter, bạn thân nhất của tôi. Nó có thể ném một quả bóng chày mạnh cỡ 90 dặm một giờ; và với vai trò tiền vệ ngôi sao, nó đã dẫn dắt đội bóng chày trường tôi dành nhiều cúp vô địch tiểu bang. Nó là một thằng ra trò. Thậm chí tên nó nghe cũng hay nữa.

“Tất nhiên con sẽ thắng,” bố tôi nói nhanh. “Nhà Carter chúng ta luôn chiến thắng.”

Đây là một trong số những lý do tôi không thích ở bên cạnh bố. Trong suốt thời gian ít ỏi ở nhà, ông luôn muốn biến tôi thành một phiên bản thu nhỏ của chính ông. Vì hầu hết thời gian lớn lên mà không có bố ở nhà, tôi thường xuyên cảm thấy bực bội khi ở bên cạnh ông. Đây là lần đầu tiên chúng tôi nói chuyện trong nhiều tuần. Ông hiếm khi nói chuyện với tôi trên điện thoại.

“Nhưng nếu con không muốn thì sao?”

Bố đặt nĩa xuống, miếng sườn vẫn còn ở trên răng nĩa. Ông ném cho tôi cái nhìn giận dữ. Bố tôi mặc vest ngay cả khi nhiệt độ ở trong nhà lên tới gần 30 độ C, và nó khiến ông trông càng đáng sợ hơn. Nhân tiện, bố tôi luôn luôn mặc vest.

“Bố nghĩ,” ông chậm rãi nói, “đó là một ý hay.”

Tôi biết rằng khi ông nói theo cách đó thì vấn đề đã được quyết định. Đó là kiểu của gia đình tôi. Lời bố tôi nói là luật pháp. Nhưng sự thật là, ngay cả khi đã đồng ý, tôi cũng chẳng muốn làm việc này. Tôi không muốn lãng phí buổi chiều gặp giáo viên sau giờ học – sau giờ học! – hàng tuần cho đến hết năm, nghĩ ra chủ đề cho các buổi khiêu vũ ở trường hay cố gắng quyết định xem biểu ngữ nên màu gì. Đó là tất cả những việc chủ tịch hội học sinh làm, ít nhất là thời tôi trung học. Kiểu như học sinh chẳng bao giờ có quyền được quyết định việc gì có ý nghĩa.

Nhưng dù sao, tôi biết bố tôi có lý. Nếu muốn vào Đại học Bắc Carolina, tôi phải làm gì đó. Tôi không muốn chơi bóng đá hay bóng rổ, không chơi nhạc cụ nào, không ở trong câu lạc bộ cờ hay câu lạc bộ bowling hay bất cứ cái gì khác. Tôi không xuất sắc trong lớp học – chết tiệt, tôi chẳng xuất sắc bất cứ cái gì hết.

Mỗi lúc một chán nản, tôi liệt kê những thứ tôi thực sự có thể làm, nhưng thành thật mà nói chẳng có nhiều. Tôi có thể buộc chín kiểu nút dây neo khác nhau, có thể bước chân trần qua nhựa đường nóng xa hơn bất cứ người nào tôi biết, có thể giữ thăng bằng một cái bút chì thẳng tắp trên ngón trỏ của tôi trong vòng ba mươi giây… nhưng tôi nghĩ chẳng có việc gì trong những việc đó sẽ thực sự nổi bật trên hồ sơ xin vào đại học. Thế là tôi nằm dài trên giường cả đêm, dần dần đi tới một nhận định tuyệt vọng rằng mình là một kẻ thất bại. Cảm ơn bố.

Sáng hôm sau tôi lên văn phòng hiệu trưởng để ghi tên vào danh sách ứng viên. Có hai đứa khác sẽ tranh cử – John Foreman và Maggie Brown. Ngay lúc đó tôi đã biết John không có lấy một cơ hội. Nó là loại con trai có thể xé toạc quần áo của bạn trong khi nói chuyện với bạn. Nhưng nó là một học sinh giỏi. Nó ngồi hàng đầu tiên và giơ tay mỗi lần giáo viên đặt câu hỏi. Mà nếu có bị gọi bất chợt, hầu như lúc nào nó cũng trả lời đúng, và nó sẽ quay bên này bên kia với vẻ mặt tự mãn, như thể chứng mình trí tuệ siêu việt của mình khi so sánh với những đứa khác trong lớp. Eric và tôi thường ném đạn giấy vào nó khi giáo viên quay lưng lại.

Maggie Brown là trường hợp đầy vấn đề khác nữa. Con bé cũng là học sinh giỏi. Nó ở trong hội đồng học sinh trong ba năm đầu và là lớp trưởng lúc còn học trung học cơ sở một năm trước. Điều duy nhất chống lại nó là việc nó không được xinh cho lắm, và nó đã tăng tới chín cân trong mùa hè đó. Tôi biết rằng không thằng con trai nào bầu cho nó.

Sau khi cân nhắc khả năng cạnh tranh, tôi đoán rằng tôi có cơ hội. Toàn bộ tương lai của tôi nằm ở đây, vì thế tôi cần hoạch định chính xác chiến lược của mình. Eric là người đầu tiên đồng ý.

“Đương nhiên tao sẽ bảo tất cả bọn con trai trong đội bầu cho mày, không vấn đề gì. Nếu mày thực sự muốn thế.”

“Cả mấy cô bồ của chúng nó nữa chứ?” tôi hỏi.

Đó gần như là toàn bộ chiến dịch của tôi. Tất nhiên, tôi tới các buổi tranh luận như việc phải làm, và phân phát chỗ tờ rơi ngớ ngẩn “Những gì tôi sẽ làm nếu được bầu làm chủ tịch”, nhưng cuối cùng Eric Hunter có lẽ mới chính là người đưa tôi đến nơi tôi cần đến. Trường trung học Beaufort chỉ có khoảng bốn trăm học sinh, vì thế có được phiếu bầu của đội thể thao sẽ là điều quyết định, và dù sao phần lớn học sinh cũng chẳng thèm chú ý đến người chúng bầu. Cuối cùng mọi chuyện cũng thành công đúng như tôi dự định.

Tôi được bầu làm chủ tịch hội học sinh của trường với đa số phiếu. Lúc đó tôi cũng chẳng biết việc này sẽ dẫn tôi tới những rắc rối gì nữa.

Lớp mười một, tôi hẹn hò với một cô gái tên là Angela Clark. Angela là bạn gái thực sự đầu tiên của tôi, mặc dù chuyện đó chỉ kéo dài vài tháng. Ngay trước khi năm học kết thúc, con bé bỏ tôi theo một gã tên là Lew, hai mươi tuổi, đang làm thợ máy trong xưởng sửa chữa của bố hắn ta. Điều hay ho nhất ở hắn, theo tôi biết, chính là việc hắn ta có một chiếc ô tô rất đẹp. Lew luôn mặc áo phông trắng với một bao Camels nhét túi, đứng dựa vào mui chiếc Thunderbird của mình nhìn trước nhìn sau, nói những câu đại loại như “Chào cô bé” bất cứ khi nào có một đứa con gái đi ngang qua. Hắn ta thực sự là một kẻ “thắng cuộc”, nếu bạn hiểu tôi muốn nói gì.

Dù thế nào, buổi khiêu vũ đầu năm học cũng sắp đến, và vì chuyện Angela, tôi vẫn chưa có người đi cùng. Ai trong uỷ ban sinh viên cũng phải tham dự – điều đó là bắt buộc. Tôi phải giúp trang trí lại phòng thể chất và dọn dẹp vào ngày hôm sau – hơn nữa, đây cũng là một dịp vui vẻ. Tôi gọi điện cho vài cô gái quen biết, nhưng bọn họ đều đã có hẹn, vì thế tôi gọi thêm vài cô nữa. Các cô này đều đã có hẹn luôn. Vào tuần cuối cùng, sự lựa chọn trở nên rất hạn chế. Tất cả chỉ còn những đứa con gái đeo kính dày cộp và nói ngọng. Thật ra Beaufort chưa bao giờ là quê hương của các cô gái đẹp, nhưng dù sao tôi vẫn phải tìm cho ra một ai đó. Tôi không muốn tới buổi khiêu vũ mà chẳng có cô gái nào đi cùng – trông sẽ ra làm sao chứ? Tôi sẽ là chủ tịch hội học sinh duy nhất đến dự buổi khiêu vũ đầu năm học một mình. Bọn con trai sẽ bàn tán về tôi suốt đêm hoặc tôi sẽ phải dọn dẹp những đống nôn mửa trong nhà vệ sinh. Đó là việc mà mấy đứa đi một mình thường phải làm.

Cảm thấy khá hoảng sợ, tôi lôi cuốn lưu bút năm trước ra và bắt đầu lật hết trang này trang khác, tìm bất cứ ai có thể còn chưa có hẹn. Đầu tiên tôi xem qua các trang với những cô gái hơn tuổi. Mặc dù nhiều người trong số họ đang học đại học, vài người vẫn còn ở quanh thị trấn. Thậm chí không nghĩ mình có lấy một cơ hội, tôi vẫn gọi điện, và thực tế đã chứng minh là tôi đúng. Tôi không tìm được bất kỳ ai, ít nhất không một người nào đi cùng tôi. Phải nói là nhờ vụ này tôi trở nên khá giỏi đương đầu với sự từ chối, mặc dù điều đó không phải là điều bạn thích khoe khoang với con cháu mình. Mẹ tôi biết chuyện, cuối cùng bà vào phòng và ngồi xuống cạnh tôi.

“Nếu con không có bạn đi cùng, mẹ sẽ rất vui được đi cùng con,” bà nói.

“Cám ơn mẹ,” tôi chán nản nói.

Khi mẹ rời khỏi phòng, tôi thậm chí còn cảm thấy tồi tệ hơn lúc trước. Ngay cả mẹ cũng không nghĩ tôi sẽ tìm được ai đó. Và nếu tôi xuất hiện cùng mẹ thì sao? Có sống đến một trăm năm tôi cũng sẽ chẳng bao giờ hết ngượng về chuyện này.

Nhân tiện đây, còn có một thằng khác cũng ở trong tình cảnh giống như tôi. Carey Dennison đã từng được bầu là thủ quỹ, và nó cũng chưa có ai đi cùng. Carey là kiểu con trai không ai muốn gần, và lý do duy nhất nó được bầu là bởi vì chẳng có ai cạnh tranh chức đó cả. Nó chơi kèn tuba trong đội nhạc diễu hành, và thân hình của nó trông chẳng cân đối chút nào, như thể nó ngừng lớn nửa chừng ở tuổi dậy thì. Nó có cái bụng vĩ đại và tay chân lênh khênh, giống như người Hoo ở Làng Hoo, nếu bạn hiểu tôi muốn nói gì. Nó cũng có kiểu nói cao giọng – cũng chính vì thế mà nó chơi đàn tuba giỏi, tôi cho là vậy – và chưa bao giờ thôi hỏi, “Cuối tuần trước mày đi đâu? Có vui không? Mày có gặp đứa con gái nào không?” Nó sẽ thậm chí chẳng đợi câu trả lời, và đi đi lại lại liên tục khi hỏi nên bạn phải liên tục quay đầu để nhìn thấy nó. Tôi thề nó có lẽ là người phiền hà nhất mà tôi từng gặp. Nếu tôi không có một cái hẹn, nó sẽ đứng cùng một phe với tôi cả đêm, bắn hàng tràng câu hỏi như một vị công tố viên loạn trí vậy.

Thế là tôi tiếp tục lật các trang lưu bút tới mục lớp 11 cho đến khi nhìn thấy ảnh của Jamie Sullivan. Tôi chỉ ngừng lại một giây, rồi chuyển qua trang khác, tự nguyền rủa bản thân vì thậm chí đã nghĩ đến điều này. Tôi dùng một giờ tiếp theo để tìm kiếm bất cứ ai trông chỉ cần hơi tử tế chút xíu thôi cũng được, nhưng dần dần tôi nhận ra chẳng còn lại ai hết. Cuối cùng, tôi trở lại bức ảnh của Jamie và nhìn kỹ lại một lần nữa. Nó không hề xấu xí, tôi tự nhủ với mình, và con bé cũng hiền lành. Tôi nghĩ, có thể nó sẽ đồng ý…

Tôi đóng sập cuốn lưu bút lại. Jamie Sullivan ư? Con gái Hegbert ư? Không đời nào. Chắc chắn không đời nào. Lũ bạn sẽ giễu tôi tới chết.

Nhưng so với việc đi cùng mẹ tôi hoặc dọn dẹp nôn mửa, hoặc thậm chí, Chúa ơi… Carey Dennison? Tôi dành thời gian còn lại của cả buổi tối hôm đó để cân nhắc lợi hại trong tình thế tiến thoái lưỡng nan của mình. Tin tôi đi, tôi đã suy đi tính lại chán chê rồi, nhưng cuối cùng, ngay cả đối với tôi, sự lựa chọn đã rõ ràng. Tôi phải mời Jamie đến buổi khiêu vũ thôi, tôi lại đi quanh phòng nghĩ xem cách nào tốt nhất để hỏi con bé.

Đó chính là lúc tôi nhận ra một điều khủng khiếp, một điều thực sự đáng sợ. Tôi đột nhiên nhớ ra, Carey Dennison có lẽ nó cũng đang xem lưu bút! Nó quái đản, nhưng không phải loại con trai thích lau các bãi nôn, và nếu đã gặp mẹ nó, người ta biết sự lựa chọn của nó thậm chí còn tồi tệ hơn tôi. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu nó rủ Jamie trước? Jamie sẽ không từ chối, và thực tế con bé là sự lựa chọn duy nhất mà nó có. Không ai ngoài con bé có thể chịu được việc bị bắt gặp đi cùng thằng ấy. Jamie giúp đỡ tất cả mọi người – con bé là một trong những vị thánh cho rằng ai cũng có cơ hội bình đẳng như nhau. Nó có thể lắng nghe giọng nói choang choác của thằng Carey, cảm thấy được lòng tốt tỏa ra từ tim thằng kia, và đồng ý ngay lập tức.

Thế là tôi ngồi đó, trong phòng mình, phát cuồng lên khi nghĩ tới việc Jamie có thể không tới buổi khiêu vũ với tôi. Tối hôm đó, gần như tôi không ngủ, tôi tự nhủ, đó là điều kỳ diệu nhất tôi từng trải qua. Tôi nghĩ chắc chưa có ai từng lăn tăn về việc mời Jamie đi chơi. Tôi dự định sẽ hỏi con bé ngay trong buổi sáng, trong khi tôi vẫn còn can đảm, nhưng Jamie không có ở trường. Tôi đoán con bé đang làm từ thiện ở trại trẻ mồ côi tại Morehead, việc mà hàng tháng con bé vẫn làm. Một vài đưa trong số bọn tôi đã thử trốn học bằng lý do này, nhưng chỉ có Jamie là người duy nhất được nghỉ học để làm việc đó. Thầy hiệu trưởng biết con bé sẽ đọc sách cho bọn trẻ hoặc gấp máy bay hoặc đơn giản là chỉ ngồi chơi với bọn trẻ. Con bé chẳng bao giờ trốn học ra ngoài bãi biển hoặc tụ tập ở quán Cecil’s hay gì khác. Chỉ nghĩ đến việc ấy thôi cũng đã thấy lố bịch.

“Có hẹn chưa?” Eric hỏi tôi giữa giờ. Nó biết rất rõ là tôi chưa tìm được ai, mặc dù là thằng bạn thân nhất của tôi, thỉnh thoảng nó vẫn khoái trêu chọc tôi kiểu này.

“Chưa,” tôi nói, “nhưng tao đang lo vụ này.”

Phía dưới hành lang, Carey Dennison đang đi tới ngăn tủ riêng. Nó trừng trừng nhìn tôi, tưởng là tôi không hề hay biết.

Một ngày như thế đấy.

Từng phút của giờ học cuối chậm chạp trôi qua. Tôi tính thế này – nếu Carey và tôi ra khỏi trường cùng một lúc, chắc chắn tôi sẽ đến nhà con bé trước, chuyện, thằng bé với hai cẳng chân lóng ngóng ấy thì ăn thua gì. Tôi bắt đầu tự lên dây cót, và khi chuông reo, tôi chạy ra khỏi trường nhanh như một viên đạn. Chạy như bay được khoảng một cây số, tôi bắt đầu thấy mệt, và bị chuột rút. Rồi chỉ một lúc sau, tất cả những gì tôi có thể làm là đi bộ, vừa đi vừa phải nghiêng người và ôm lấy một bên sườn. Đi trên những con phố của Beaufort, trông tôi giống như phiên bản thở khò khè của Thằng Gù Nhà thờ Đức bà.

Tôi tưởng như đang nghe thấy tiếng cười chói tai của Carey đằng sau. Tôi nhìn quanh, bấm chặt những ngón tay vào bụng để bớt đau, nhưng không nhìn thấy nó. Có khi nó đang đi tắt qua sân nhà ai đó cũng đó nên! Carey là một thằng gian manh lén lút. Bạn không thể tin nó dù chỉ một giây.

Tôi bắt đầu quýnh quáng hơn, vội vã tới con phố nhà Jamie. Lúc đó tôi toát hết mồ hôi – áo sơ mi của tôi ướt sũng – và vẫn còn đang thở khò khè một cách ác liệt. Cuối cùng tôi đến cửa trước nhà Jamie, dành một giây để thở, rồi gõ cửa. Mặc dù đã vội vàng như vậy, nửa bi quan trong tôi vẫn cứ lo lắng Carey sẽ là người mở cửa. Tôi tưởng tượng ra cảnh nó nhếch miệng cười, nhìn tôi đắc thắng, hàm ý “Xin lỗi nhé, anh bạn chậm quá.”

Nhưng không phải Carey ra mở cửa mà là Jamie, và lần đầu tiên trong đời tôi thấy con bé có thể xinh thế nào nếu là một người bình thường. Mặc quần jean và chiếc áo cánh đỏ, và mặc dù tóc vẫn búi cao, trông nó ra dáng người thường hơn mọi khi. Tôi nhận ra rằng thực sự con bé rất xinh nếu nó tự cho bản thân cơ hội.

“Landon,” nó nói khi mở cửa, “ngạc nhiên quá!” Jamie luôn vui mừng khi gặp mọi người, kể cả tôi, mặc dù tôi nghĩ sự xuất hiện của tôi làm nó giật mình. “Trông cậu như vừa tập thể dục vậy,” nó nói.

“Không hẳn,” tôi nói dối, chùi lông mày. May mà chuột rút tan nhanh.

“Cậu đổ mồ hôi ướt hết cả áo sơ mi rồi.”

“À, ừ nhỉ?” Tôi nhìn áo sơ mi của mình. “Không sao đâu. Thỉnh thoảng mình ra mồ hôi nhiều thôi.”

“Có khi cậu nên đi bác sĩ xem thế nào.”

“Chắc là không sao đâu.”

“Dù sao mình cũng sẽ cầu nguyện cho cậu,” con bé vừa nói vừa mỉm cười. Jamie luôn luôn cầu nguyện cho một ai đó. Tôi có thể cũng được cái vinh dự này.

“Cám ơn,” tôi nói.

Con bé cúi xuống và di di chân một lúc. “À, mình rất muốn mời cậu vào trong nhà, nhưng bố mình không có nhà, và bố không cho phép bạn nam vào khi ông không ở nhà.”

“Ồ,” tôi chán nản nói, “không sao đâu. Mình nói chuyện ở ngoài này cũng được.” Thực ra, nếu được phép, tôi vẫn thích nói chuyện trong nhà hơn.

“Cậu có muốn ngồi xuống, uống một cốc nước chanh không?” con bé hỏi. “Mình vừa pha đấy.”

“Thế thì hay quá,” tôi nói.

“Mình quay lại ngay.” Con bé quay vào trong nhà, nhưng nó để cửa mở và tôi ngó vội xung quanh. Tôi thấy bên trong căn nhà nhỏ nhưng ngăn nắp, một cây đàn piano dựa vào tường và chiếc ghế sofa kê đối diện. Một chiếc quạt nhỏ đang chạy trong góc nhà. Trên bàn uống nước có các cuốn sách như Lắng nghe Jesus và Niềm tin là câu trả lời. Cuốn Kinh thánh của con bé cũng ở đó, đang để mở ở trang về Luke.

Một lúc sau Jamie quay lại, mang theo nước chanh, và chúng tôi ngồi xuống hai chiếc ghế ngoài hiên. Thỉnh thoảng đi ngang qua nhà họ nên tôi biết bố con Jamie hay ngồi đó vào buổi tối. Vừa ngồi xuống tôi chợt thấy bà Hastings, hàng xóm của Jamie băng qua đường, vẫy tay với chúng tôi. Jamie vẫy tay lại trong khi tôi kéo ghế của mình sang một bên để bà ta không trông thấy mặt. Mặc dù định rủ Jamie tới buổi khiêu vũ, nhưng tôi cũng không muốn bất kỳ ai – kể cả bà Hastings – nhìn thấy tôi ở đó, lỡ chẳng may con bé đã nhận lời thằng Carey rồi. Đi với Jamie là một chuyện, bị con bé từ chối từ chối vì một thằng như Carey lại là chuyện khác.

“Cậu đang làm gì đấy?” Jamie hỏi tôi. “Cậu đang dịch ghế ra ngoài nắng kìa.”

“Mình thích ánh mặt trời,” tôi nói. Dù sao, con bé cũng đúng. Ngay lập tức tôi đã thấy những tia nắng đang thiêu đốt mình qua lần áo sơ mi, khiến tôi toát hết mồ hôi.

“Nếu cậu muốn,” con bé nói, mỉm cười. “Thế cậu định nói chuyện gì với mình?”

Jamie đưa tay lên và bắt đầu sửa lại tóc. Nhưng tôi thấy tóc nó chẳng thay đổi tí nào. Hít một hơi thật sâu, cố gắng hết sức, nhưng tôi vẫn chưa thể ép mình nói ra điều đó. “Vậy,” thay vào đó tôi nói, “hôm nay cậu tới trại trẻ mồ côi hả?”

Jamie nhìn tôi tò mò. “Không. Bố và mình tới phòng khám bác sĩ.”

“Bố cậu không sao chứ?”

Con bé mỉm cười. “Khoẻ như thường.”

Tôi gật đầu và liếc sang bên kia đường. Bà Hastings vừa quay vào nhà, và tôi không còn thấy bất kỳ ai khác trong khu vực lân cận. Cuối cùng chẳng còn trở ngại nào nữa, thế nhưng tôi vẫn chưa sẵn sàng.

“Hôm nay trời đẹp thật,” tôi nói lảng.

“Ừ, đúng thế.”

“Ấm áp nữa.”

“Vì cậu đang ngồi dưới nắng đấy chứ.”

Tôi nhìn quanh, cảm thấy áp lực đang tăng lên. “Sao, mình cá là chẳng có lấy một đám mây trên trời.”

Lần này Jamie không trả lời, chúng tôi ngồi im lặng một lúc.

“Landon,” cuối cùng con bé nói, “cậu không đến đây để nói chuyện thời tiết, đúng không?”

“Hoàn toàn không.”

“Thế vì sao cậu đến đây?”

Đã đến lúc nói sự thật, tôi hắng giọng.

“À… mình muốn biết liệu cậu có đến buổi khiêu vũ đầu năm học không.”

“Ồ,” con bé nói. Giọng nó nghe như thể nó chẳng hề biết có chuyện như thế tồn tại. Tôi ngồi bồn chồn trên ghế, chờ đợi câu trả lời.

“Mình thực ra không định đi,” cuối cùng con bé nói.

“Nhưng nếu có người mời, cậu có đi không?”

Con bé mất một lúc để trả lời.

“Mình không chắc,” nó suy nghĩ cẩn thận rồi nói. “Mình đoán nếu có cơ hội, mình sẽ đi. Từ trước đến giờ mình chưa tham dự buổi khiêu vũ đầu năm học nào cả.”

“Vui cực,” tôi nói nhanh. “Không quá vui, nhưng vui.” Đặc biệt khi so sánh với những lựa chọn khác của tôi, tôi không nói thêm.

Con bé mỉm cười, loay hoay tìm cách diễn đạt. “Tất nhiên, mình phải hỏi bố, nhưng nếu bố đồng ý, mình nghĩ là mình đi được.”

Trên cành cây cạnh hiên nhà một con chim cất tiếng kêu ầm ĩ, như thể nó biết tôi đáng ra không nên ở đây. Tôi tập trung vào âm thanh ấy, cố gắng tự trấn tĩnh. Chỉ cách đây hai ngày, thậm chí chính tôi còn không thể tưởng tượng được, dù chỉ là nghĩ về việc đó, nhưng rồi đột nhiên tôi ở đây, lắng nghe chính mình như thể đang nói những lời kỳ diệu.

“Thế, cậu có muốn đi đến buổi vũ hội đầu năm học với mình không?”

Có thể thấy rằng Jamie rất ngạc nhiên. Tôi nghĩ con bé tưởng rằng sự dẫn dắt nho nhỏ tới câu hỏi này phải hàm ý là một ai đó khác sẽ mời nó. Đôi khi bọn mới lớn thường nhờ bạn bè tới “thăm dò đối tượng” trước, rồi mới ngỏ lời, để tránh đối mặt với khả năng bị từ chối. Ngay cả Jamie, tuy không giống với những đứa cùng tuổi khác, tôi chắc là con bé cũng quen thuộc với khái niệm này, ít nhất là về mặt lý thuyết.

Dù sao, thay vì trả lời ngay lập tức, Jamie nhìn đi chỗ khác một lúc. Tôi có cảm giác nôn nao trong dạ vì đoán rằng con bé sẽ từ chối. Hình ảnh mẹ tôi, những bãi nôn mửa, Carey lướt trong đầu, và đột ngột thấy hối tiếc cái cách tôi đã cư xử với con bé trong suốt ba năm. Tôi tiếp tục nhớ lại tất cả những lần trêu chọc con bé hay gọi bố nó là một kẻ tà dâm hoặc đơn giản là lấy nó ra làm trò cười sau lưng. Chỉ đến khi tôi thấy thật khủng khiếp về mọi chuyện và tưởng tượng làm sao có thể tránh được Carey trong vòng năm tiếng đồng hồ, con bé chợt quay lại đối diện với tôi. Con bé thoáng mỉm cười.

“Mình rất vui được đi cùng cậu,” cuối cùng nó nói, “nhưng với một điều kiện.”

Tôi cố giữ bình tĩnh, hi vọng không phải là điều gì đó quá tồi tệ.

“Gì thế?”

“Cậu phải hứa rằng sẽ không phải lòng mình.”

Tôi biết con bé đang nói đùa bởi cái cách nó cười phá lên, tôi cũng không thể nhịn được và thở phào nhẹ nhõm. Tôi phải thừa nhận, thỉnh thoảng Jamie khá hài hước.

Tôi mỉm cười và hứa với con bé.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.