First Comes Marriage

Chương 16 part 1



Cũng khá dễ dàng để ổn định với cái vỏ ngoài của một cuộc hôn nhân. Vanessa sớm trở nên nghi ngờ là hầu hết những cuộc hôn nhân, chí ít là những cuộc hôn nhân trong tầng lớp quý tộc, còn không đạt tới mức đó.

Nó là thứ người ta có thể trông chờ, tất nhiên, trong một bộ phận của xã hội mà ở đó hầu hết các cuộc hôn nhân đều được sắp đặt.

Nhưng cô đã biết tới một kiểu hôn nhân khác, tuy rằng chớp nhoáng, và giờ không thể cam lòng với một cuộc hôn nhân nửa vời.

Sau khi chuyển đến London cô rất ít được gặp Elliott. Anh ra ngoài ngay sau bữa sáng và không trở về cho đến tận chiều muộn. Và ngay cả khi anh có ở nhà, thì cả mẹ và em gái anh cũng có mặt.

Thời điểm duy nhất Vanessa thực sự được ở một mình với anh là ban đêm, khi họ trải qua một cuộc làm tình nhanh gọn mang tính thủ tục – nếu có thể gọi như thế. Anh đang cố gắng tạo ra một người thừa kế với cô, và cô cố gắng hợp tác trong những lần kết hợp ngắn ngủi. Cô hi vọng là anh thành công hơn cô. Anh luôn luôn trở về phòng ngay sau khi xong việc. Luôn luôn anh cảm ơn cô khi rời đi.

Anh cư xử với cô bằng thái độ lịch sự, nhưng nó đủ lạnh lẽo để gây ra một tiếng thở dài và lời nhận xét của mẹ anh sau khi anh bỏ lại bữa điểm tâm trong phòng khách vào một sáng nọ.

“Ta đã nuôi hi vọng là Elliott sẽ thay đổi,” bà nói.

“Thay đổi ạ?” Vanessa nhìn bà với đôi mày nhướng lên.

“Những người đàn ông nhà Wallace luôn rất hoang đàng trước khi lấy vợ,” tử tước phu nhân nói, “và về sau lại đứng đắn không chê vào đâu được, ít nhất là theo hình thức bên ngoài. Họ luôn chọn cô dâu cho mình một cách cẩn thận và đối xử với họ bằng sự nhã nhặn không bao giờ cạn. Họ chưa từng kết hôn vì tình yêu. Nó sẽ hạ thấp phẩm giá của họ và hạn chế tự do của họ quá nhiều khi cho phép bản thân cảm nhận bất kỳ cảm xúc nào như vậy. Thật khó khăn cho người đàn ông để phá vỡ truyền thống gia đình, đặc biệt khi gia đình đó nổi tiếng như gia đình này. Nhưng ta nghĩ Elliott có thể làm được. Có lẽ người mẹ nào cũng luôn tin là con trai mình sẽ khác với cha nó. Và lẽ dĩ nhiên họ luôn hết lòng cầu mong cho hạnh phúc của nó.”

Đó là một lời phát biểu bi quan.

“Con vẫn còn ý định làm anh ấy được hạnh phúc,” Vanessa nói, vươn người qua bàn. “Chính con là người đã làm anh ấy không vui, mẹ thấy mà. Hoặc ít nhất con đã làm tổn thương lòng kiêu hãnh của anh ấy hoặc thứ gì đó quan trọng đối với anh ấy. Ba ngày sau lễ cưới anh ấy đã thu gom những bông hoa thủy tiên cùng con – một ôm đầy mà anh ấy khó lòng tưởng tượng nổi. Và khi chúng con trở về ngôi nhà bên hồ anh ấy đã đổ đầy nước vào các bình và lọ cho con và phân loại lũ hoa và mang chúng đến từng phòng và đặt chúng vào đúng vị trí và sửa lại cho đúng góc.

“Elliott mà làm chuyện này ư?” Tử tước phu nhân ngạc nhiên.

“Và ngày hôm sau,” Vanessa nói, “anh ấy tìm thấy con đang khóc. Con đang khóc trên bức chân dung người chồng trước của mình bởi vì con đã hạnh phúc trong ba ngày vừa rồi và cảm thấy có lỗi và sợ mình có thể quên anh ấy.”

“Ôi, con yêu,” mẹ chồng cô nói, cau mày. “Con có giải thích cho Elliott không?”

“Con có,” Vanessa nói. “Ít nhất con nghĩ mình đã làm vậy. Con không biết phải giải thích thế nào dù là với bản thân mình. Nhưng rõ ràng là anh ấy không hiểu. Nhưng con vẫn sẽ làm anh ấy hạnh phúc. Thử xem có được không?”

Họ nhanh chóng bị cuốn vào cái khuôn mẫu bận rộn mà cuộc sống mang lại ngay khi tới thành phố. Có một trăm lẻ một việc phải làm hàng ngày – mua sắm, tới thư viện, cùng đi thăm viếng vào các buổi chiều với mẹ chồng và em chồng cô, đến thăm chị và các em cô sau khi họ đến ở tại ngôi nhà của bá tước Merton ở Berkeley Square. Nghiên cứu hàng đống thư mời gửi đến nhà hàng ngày và cân nhắc nên tham dự cái nào – sau lễ trình diện của cô trước nữ hoàng, tất nhiên. Và còn có lễ trình diện để mà nghĩ ngợi và lo lắng nữa – và buổi vũ hội đi liền theo nó vào buổi tối. Về cơ bản nó là buổi vũ hội dành cho sự ra mắt của Cecily, nhưng cũng mang cả ý nghĩa như một sự ra mắt cho Vanessa – và Meg và Kate.

Có hàng loạt những người phải gặp và đương đầu và hàng loạt cái tên phải ghi nhớ.

Hầu hết trong số đó là những hoạt động của nữ giới, Vanessa cảm thấy hình như mọi phụ nữ và nam giới thuộc tầng lớp quý tộc đều sống ở những nơi tách biệt và chỉ cùng tụ họp chỉ trong những sự kiện xã hội như các buổi vũ hội và picnic hòa nhạc. Buổi vũ hội ra mắt là một dịp như thế.

Cô có thể ném mình vào cuộc sống mới và gần như phớt lờ Elliott. Người mà cô không biết đã làm gì với mấy ngày vừa qua.

Nhưng cô nhớ anh. Họ đã trò chuyện rất nhiều trong ba ngày của tuần trăng mật. Họ đã cùng làm nhiều thứ với nhau. Họ đã làm tình thường xuyên và với sự thỏa mãn kéo dài. Họ đã ngủ trong vòng tay nhau.

Tuy nhiên nó không phải là mối quan hệ đạt mức lí tưởng. Cô đã cảm thấy sự dè dặt của anh, sự miễn cưỡng của anh để thả lỏng và đơn thuần tận hưởng cuộc sống. Cô đã để ý thấy anh chưa bao giờ mỉm cười hoặc cười phá lên. Nhưng nó chỉ là sự dè dặt phần nào. Cô cảm thấy thời gian đó cũng là những ngày hạnh phúc đối với anh, ngay cả khi anh chẳng bao giờ sử dụng chính xác từ đó.

Lúc đó chí ít cũng còn có tia hi vọng.

Giờ đây anh không vui vẻ nữa – dù sao cũng không khi anh ở nhà.

Và tất cả là lỗi ở cô.

Vậy thì cô có thể bằng lòng với một cuộc hôn nhân không hoàn hảo, và cô có thể bằng lòng với thời gian biểu bận rộn hàng ngày của mình.

Nhưng cô không thể.

Vào buổi sáng trước ngày ra mắt, cô nghe thấy anh rời khỏi phòng thay đồ. Trời vẫn còn sớm. Anh luôn dậy sớm để dành thời gian trong văn phòng với Mr. Bowen trước khi bắt tay vào bất cứ công việc gì khiến anh vắng mặt cả ngày.

Mẹ anh và đôi khi cả Cecily cùng dùng bữa sáng với anh. Cô cũng thế, nhưng không có cơ may cho bất kỳ cuộc nói chuyện riêng tư nào ở đó.

Vanessa vội đi vào phòng thay đồ của mình, kéo mạnh áo ngủ ra khỏi người khi vào đến nơi. Cô không rung chuông gọi người hầu. Cô rửa mặt cấp tốc bằng nước lạnh và hối hả mặc chiếc áo dài ban ngày màu xanh lơ lên người, cào sơ mấy nhát lược qua mái tóc, kiểm tra toàn thân trong chiếc gương bằng kích cỡ người thật để đảm bảo trông mình không xấu đến mức bằng quỷ dạ xoa, và đi theo chồng xuống cầu thang.

Anh ở trong phòng làm việc kế bên thư viện, đúng như cô nghĩ. Anh cầm một lá thư đã bóc trong tay nhưng chưa đọc. Anh đang nói chuyện với Mr. Bowen. Ăn vận không một chút tì vết trong bộ đồ cưỡi ngựa và đôi giày ống cao, trông anh đẹp trai hết sức.

Anh quay lại khi cô xuất hiện ở khung cửa và lông mày anh nhướng lên trong vẻ ngạc nhiên rành rành.

“Ah, em thân yêu,” anh nói. “Sáng nay em dậy sớm nhỉ.”

Anh đã bắt đầu gọi cô là em yêu nơi công cộng. Nó nghe trái tai đến lố bịch.

“Em không ngủ được,” cô nói, và mỉm cười. Cô gật đầu với Mr. Bowen, người đã đứng dậy phía sau bàn.

“Tôi có thể làm gì để giúp em?” Elliott hỏi.

“Ngài có thể vào thư viện hoặc căn phòng buổi sáng với em không,” cô nói. “Em muốn nói chuyện với ngài.”

Anh nghiêng đầu.

“Tôi sẽ đọc cho anh câu trả lời lá thư này sau, George,” anh nói, vẫy lá thư trong tay trước khi đặt nó xuống bàn. “Cái này không khẩn cấp lắm.”

Anh nắm lấy khuỷu tay cô và dẫn cô sang căn phòng kế bên, nơi ngọn lửa đã được đốt bập bùng trong lò sưởi.

“Tôi có thể làm gì cho em, Vanessa?” anh hỏi, chỉ vào chiếc ghế bọc da cạnh lò sưởi còn mình thì bước tới đứng trước ngọn lửa, quay lưng lại với nó. Anh tuyệt đối nhã nhặn với một chút nôn nóng.

Cô ngồi xuống.

“Em nghĩ chúng ta có thể nói chuyện,” cô nói. “Chúng ta khó có cơ hội để nói chuyện với nhau nữa.”

Anh nhướng mày lên lần nữa. “Ở bữa tối thì không ư?” anh hỏi cô. “Hoặc ở trong phòng khách sau đó?”

“Mẹ ngài và em gái ngài lúc nào cũng có mặt,” cô nói. “Ý em là một mình, chỉ có hai chúng ta.”

Anh quan sát cô kỹ càng. “Em cần thêm tiền à?” anh hỏi. “Chuyện đó em có thể hỏi George bất cứ lúc nào. Em sẽ không thấy tôi thắt chặt hầu bao đâu.”

“Không, dĩ nhiên là không,” cô nói, xua xua tay. “Em còn chưa động đến số tiền anh ấy đưa cho em hai ngày trước. Ồ, trừ khoản tiền đóng góp ở thư viện. Em đã đi xem các cửa hàng. Nhưng thực sự không có thứ gì em cần để phải tiêu xài phung phí. Em đã có nhiều quần áo đủ để dùng cả đời rồi.”

Anh tiếp tục nhìn xuống cô và cô nhận ra anh đã đặt cô vào tư thế bất lợi đến nhường nào – có phải là cố ý? Cô đang ngồi trong khi anh đứng. Anh cao lừng lững trước mặt cô.

“Chuyện tiền bạc không phải là điều em muốn nói tới,” cô nói, “mà là về chúng ta – về cuộc hôn nhân của chúng ta. Em nghĩ em đã làm ngài tổn thương.”

Đôi mắt anh trở nên lạnh lùng.

“Tôi nghĩ rằng, ma’am,” anh nói, “em không đủ sức để làm nổi chuyện đó.”

Nó là bằng chứng xác thực rằng cô đã đúng. Những người bị tổn thương thường cảm thấy cần phải trả đũa lại – thậm chí còn hằn học hơn.

“Nếu đó là tất cả những gì em muốn nói,” anh nói, “tôi sẽ yêu cầu em –“

“Tất nhiên đó không phải là tất cả,” cô nói. “Lạy Chúa, Elliott, cuộc hôn nhân còn lại của chúng ta cứ tiếp diễn theo cách này ư, như thể chúng ta chẳng là gì với nhau ngoài hai con người xa lạ lịch sự đến lạnh lẽo? Chỉ mới mấy ngày trước ngài còn đang lia những hòn đá trên mặt hồ ở Finchley Park và em đang chèo thuyền đưa chúng ta quay vòng vòng và chúng ta đang gom những đóa thủy tiên. Tất cả những điều đó không có ý nghĩa gì với ngài sao?”

“Chắc chắn em không trông chờ những ngày ấy sẽ kéo dài hơn một giai đoạn nghỉ ngơi êm đềm trước khi nhiệm vụ thực sự của hôn nhân giữa chúng ta bắt đầu, phải không?” anh hỏi cô.

“Tất nhiên là không,” cô nói, “Elliott –“

“Thật sự tôi phải nói lời chào buổi sáng với em,” anh nói, “cho phép tôi hộ tống em tới phòng ăn sáng? Có lẽ lúc này mẹ tôi đã xuống rồi.”

Anh chìa tay ra.

“Ba ngày và ba đêm ấy – bốn đêm – là khoảnh khắc tuyệt vời nhất trong cuộc đời em,” cô nói, hơi vươn người về phía trước trong ghế và dồn ánh mắt lên anh.

 


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.