First Comes Marriage
Chương 17 part 1
Vanessa thích thú nhìn những pho tượng. Cô dành hàng giờ ngắm nghía chúng, từng cái một, chẳng lấy làm xấu hổ bởi sự thiếu vải của chúng và không nản lòng trước thực tế là phần lớn trong số ấy chỉ là những mảnh rời rạc.
“Không thể tin được,” có lúc cô thốt lên, “là em được tận mắt nhìn những tác phẩm được tạo ra từ nền văn minh cổ đại. Nó thực khiến người ta phải nín thở, đúng không?”
Nhưng cô không dùng hết thời gian để nói liến thoắng, Elliott vui mừng nhận thấy. Cô dồn sự tập trung không suy suyển vào bộ sưu tập. Cho đến khi anh có cảm giác thỉnh thoảng cô lại nhìn anh hơn là nhìn những vật trưng bày – với ánh mắt chăm chú và soi xét. Anh cảm thấy bởi vì anh nhìn cô cũng nhiều như nhìn những mảnh hiện vật – xét cho cùng thì anh đã từng ngắm chúng rồi.
Cô mặc đồ màu hồng, một màu sắc hẳn là nhìn rất khiếp trên người cô nhưng lại không hề. Nó làm cho cô trông thật duyên dáng và nữ tính. Nó làm nước da của cô ửng hồng và rực rỡ. Nó làm cho cô thực sự trông xinh đẹp.
Tất nhiên trang phục của cô hoàn toàn hợp mốt và chiếc mũ nhỏ ngộ nghĩnh của cô là thời trang cao cấp.
Anh bắt được một trong những ánh nhìn của cô và nhướng mày lên.
“Tất cả đều là màu trắng hoặc xám,” cô giải thích, “như thể người Hi Lạp cổ đại và những dân tộc vùng Địa trung hải khác đều có nước da sáng màu. Nhưng trong đời thực họ không thể như thế, phải không ạ? Em cho rằng những bức tượng này xưa kia đã được sơn những màu rực rỡ. Chắc hẳn họ trông giống như ngài. Hẳn là họ có nước da ngăm ngăm như ngài hoặc chỉ có sẫm màu hơn thôi bởi vì họ sống dưới mặt trời nóng rực quanh năm. Chắc chắn hồi ấy những bức tượng còn đẹp hơn bây giờ.”
Đấy có phải là lời khen? Anh băn khoăn. Và phải chăng cô đang bảo là anh đẹp?
“Ngài thừa kế tất cả các đường nét,” một lúc sau cô nói, khi họ ra khỏi bảo tàng. “Ngài có cảm thấy những sợi dây tình cảm ngân lên trong tiềm thức không, Elliott?”
“Tôi nghĩ là,” anh nói, “nó là một giọng nói vọng đến mà không cần nối với sợi dây nào.”
Anh được đền đáp cho cố gắng xin lỗi của mình trước câu nói đùa bằng một nụ cười rộng miệng và vui sướng.
“Nhưng đúng vậy,” anh nói, “tôi luôn luôn cảm nhận được dòng máu Hi Lạp của mình,”
“Đã khi nào ngài đến Hi Lạp chưa?” cô hỏi.
“Một lần hồi tôi còn bé xíu,” anh kể với cô. “Mẹ đưa Jessica và tôi đi thăm ông ngoại và đông đảo những người họ hàng khác. Tôi chỉ nhớ chút ít về một gia đình lớn, ồn ào và ánh nắng rực rỡ và làn nước xanh sâu thẳm và bị lạc ở đền Parthenon vì tôi không chịu nghe lời phải đi bên cạnh mẹ.”
“Ngài chưa từng nghĩ sẽ quay lại sao?” cô hỏi khi anh giúp cô bước lên xe ngựa.
“Có,” anh nói. “Nhưng lúc có thể đi được thì tôi lại không đi. Còn hiện tại tôi quá bận rộn ở đây vì cha tôi không còn, Hơn nữa Hi Lạp là đất nước bất ổn nhất trên thế giới về chính trị.”
“Dù sao chăng nữa ngài cũng nên đi,” cô nói. “Ngài vẫn còn gia đình họ hàng ở đó chứ?”
“Nhiều không đếm xuể,” anh nói.
“Chúng ta phải đi,” cô nói. “Nó sẽ giống như một tuần trăng mật nữa.”
“Tuần trăng mật?” Đó là một từ luôn luôn khiến anh co rúm lại. “Lần nữa ư?”
“Như ba ngày ở căn nhà bên hồ,” cô nói. “Đó là những ngày tươi đẹp, đúng không?”
Đó là một tuần trăng mật ư?
“Tôi có những điền sản phải điều hành,” anh nói, “và tôi vừa trở thành nhà bảo trợ cho một cậu bé mười bảy tuổi, người phải học hỏi rất nhiều mới có thể đảm đương toàn bộ phần việc thuộc những bổn phận của mình.”
“Và đang là thời điểm bắt đầu mùa vũ hội,” cô nói khi cỗ xe lăn bánh xuôi theo đường Great Russell, “và Meg và Kate cần được giới thiệu trước xã hội.”
“Đúng,” anh xác nhận.
“Và ngài cần lắp đặt một phòng trẻ cho mình không được chậm trễ?”
“Đúng.”
Anh liếc nhìn gương mặt trông nghiêng của cô. Cô đang nhìn về phía trước và mỉm cười.”
“Chúng không đủ tạo thành những cái cớ,” cô nói.
“Những cái cớ?” Anh lại nhướng mày lên.
“Những người họ hàng của ngài đang ngày một già đi ở đó,” cô nói. “Ông ngoại của ngài vẫn còn sống chứ?”
“Còn.”
“Và cuộc sống thì trôi nhanh vùn vụt,” cô nói, “cứ như mới hôm qua thôi, em hãy còn là một cô bé, thế mà bây giờ em sắp bước sang tuổi hai lăm. Còn ngài sắp ba mươi tuổi.”
“Chúng ta gần như đã đến ngưỡng già cả,” anh nói.
“Chúng ta sẽ già đi trước khi kịp nhận ra,” cô nói. “Tức là nếu chúng ta có đủ may mắn để sống đến lúc già. Cho nên hãy sống cho hết mình và tận hưởng từng khoảnh khắc.”
“Và những bổn phận và trách nhiệm thì quẳng sang một bên chắc?”
“Không, đương nhiên là không,” cô nói, “nhưng đôi khi nấp sau những bổn phận đó còn dễ dàng hơn phải thú nhận rằng sự có mặt của chúng ta không phải lúc nào cũng là không thể thiếu và để bước ra ngoài đời và sống với tất cả những giá trị vốn có.”
“Thứ lỗi cho tôi,” anh nói, cau mày, “nhưng cả đời em đã từng sống xa Throckbridge và phạm vi của nó lần nào chưa, Vanessa? Liệu em có đủ kinh nghiệm để khuyên tôi ném bổn phận và sự thận trọng cho gió cuốn và nhảy ngay lên con tàu đầu tiên rời bến tới Hi Lạp?”
“Nhưng em không còn ở nơi ấy nữa,” cô nói, “em đã lựa chọn chuyển đến Warren Hall với các chị em của mình cho dù tất cả chỉ là một dấu hỏi lớn. Và em đã chọn kết hôn với ngài – và Chúa biết ngài là một dấu hỏi mênh mông. Ngày mai em sẽ trình diện trước nữ hoàng. Rồi em sẽ tham dự vũ hội ra mắt đầu tiên của Cecily và giới thiệu Meg và Kate với giới quý tộc. Và rồi tới một ngàn lẻ một sự kiện tương tự như thế nữa. Em có sợ hãi không? Có chứ, dĩ nhiên là có. Nhưng em sẽ làm tất cả những chuyện đó? Chắc chắn như thế.”
Anh mím môi.
“Tôi nghĩ,” anh nói, “chúng ta sẽ không đi Hi Lạp vào bất cứ thời gian nào trước mắt.”
“Không, tất nhiên chúng ta sẽ không đi.” Cô quay sang anh và mỉm cười với anh một nụ cười sáng rỡ. “Vì còn có bổn phận, và em biết mình phải thấm nhuần rằng cuộc sống mới này không có một chút tầm thường và không có tự do vô tận. Nhưng chúng ta đừng để bổn phận đè nặng lên mình, Elliott. Em nghĩ có lẽ đó là điều xảy đến với ngài từ khi cha ngài mất. Thậm chí trong một cuộc sống toàn bổn phận vẫn có thể có niềm vui mà.”
Anh chợt tự hỏi liệu đó có phải tình trạng của cuộc hôn nhân đầu tiên của cô. Phải chăng cô thực sự không hạnh phúc, nhưng vẫn ép mình phải vui vẻ? Và nếu anh không cẩn thận, anh sẽ trở thành nạn nhân bị tra tấn bởi ngôn ngữ của cô. Đâu là sự khác nhau giữa hạnh phúc và vui vẻ vậy?
“Và một trong những ngày ấy,” cô nói, “khi không còn chuyện gì cấp thiết giữ ngài ở nhà và Stephen có thể tự lo cho công việc của mình, chúng ta sẽ đi Hi Lạp và gặp gỡ gia đình của ngài và có tuần trăng mật thứ hai. Và đến lúc đó nếu chúng ta có con, chúng ta sẽ mang chúng cùng đi.”
Cô quay đầu lại để nhìn anh, rồi bất chợt đỏ mặt, có lẽ vì nhận ra mình mới nói câu gì. Mặc dù vì sao cô phải đỏ mặt sau gần hai tuần gần gũi thường xuyên với anh thì anh cũng chẳng biết.
“Xe đang dừng lại,” cô nhận xét, nhìn ra cửa sổ qua đầu anh. “Nhưng chúng ta vẫn chưa về đến nhà mà.”
“Chúng ta đã đến cửa hiệu Gunter,” anh bảo cô. “Chúng ta sẽ ăn kem ở đây.”
“Kem ư?” Đôi mắt cô tròn xoe.
“Tôi nghĩ có thể em muốn một chút nghỉ ngơi sau khi lê bước quanh bảo tàng nhìn những phiến đá lạnh ngắt và hít không khí bụi bặm trong cả giờ đồng hồ,” anh nói. “Mặc dù em thực sự hứng thú với chúng, có đúng không?”
“Ăn kem,” cô nói mà không trả lời câu hỏi của anh. “Em chưa được nếm thử bao giờ, ngài biết đấy. Chúng được ca ngợi là vô cùng tuyệt diệu.”
“Tiên tửu của các vị thần?” anh nói khi đỡ cô bước xuống vỉa hè. “Có lẽ vậy. Em có thể tự mình phán xét.”
Thật dễ trở nên chán ngấy với những xa xỉ phẩm và đặc quyền của cuộc sống của một con người, Elliott nghĩ hơn nửa tiếng đồng hồ sau đó khi anh ngắm cô vợ nhấm nháp rồi thưởng thức món kem của mình. Cô ăn từng thìa nhỏ và ngậm kem trong miệng đến mấy giây trước khi nuốt. Với những miếng kem đầu tiên cô thậm chí còn nhắm nghiền mắt.
“Mmm,” cô nói. “Còn có món nào có thể ngon hơn?”
“Tôi có thể nghĩ ra mười hai món ngon như thế nếu tôi để ý đến chúng,” anh nói. “Nhưng ngon hơn? Không, tôi ngờ lắm.”
“Ôi, Elliott,” cô nói, nhoài người qua mặt bàn đến gần anh, “đây chẳng phải một buổi sáng tuyệt vời sao? Em nói đúng không? Cùng nhau làm nhiều thứ chẳng phải vui ư?”
Vui?
Nhưng khi anh nghĩ đến buổi sáng ở câu lạc bộ White có thể diễn ra như thế nào, anh nhận ra mình không cảm thấy mất mát đến quá mức. Quả thực là anh thấy thích buổi sáng này.
Lúc bước ra khỏi cửa hiệu Gunter, họ chạm trán Lady Haughton và cô cháu gái của bà, người đang trong vòng hộ tống của Lord Beaton.
Elliott nghiêng mình chào hai người phụ nữ và gật đầu với Beaton.
“Ồ, Lady Haughton,” vợ anh nói, “và Miss Flaxley. Các vị cũng đến ăn kem à? Chúng tôi vừa đến bảo tàng Anh quốc để xem những pho tượng thời cổ đại ở đó, và bây giờ chúng tôi tới đây. Hôm nay đúng là một ngày đẹp trời.”
“Ah, Lady Lyngate,” Lady Haughton nói, mỉm cười – hành động mà bà ít khi làm. “Quả thật là một ngày dễ thương. Cô đã gặp cháu trai tôi chưa, Lord Beaton? Lady Lyngate, còn đây là Cyril.”
Vanessa nhún gối chào, mỉm cười cởi mở với chàng công tử.
“Rất vui được gặp ngài,” cô nói. “Ngài đã gặp tử tước Lyngate, chồng tôi chưa?” Cô cười. “Nhưng tất nhiên hẳn ngài đã gặp rồi.”
“Phái nữ thành London vừa cùng nhau để tang tập thể đấy, Lyngate,” Lady Laughton bảo anh. “Và hẳn cô sẽ nhận được vài ánh mắt đố kỵ trong cả mùa vũ hội sắp tới, cô gái thân yêu của tôi. Cô đã lấy mất một trong những người đàn ông độc thân sáng giá nhất khỏi thị trường hôn nhân.”
Vanessa bật cười.
“Em trai tôi cũng đang ở thành phố,” cô nói, nhìn sang Beaton. “Cậu ấy là bá tước mới của Merton và chỉ mới mười bẩy tuổi. Tôi chắc cậu ấy sẽ rất vui mừng được làm quen với một người đồng trang lứa lớn hơn mình một chút, thưa ngài.”
“Tôi rất trông chờ vinh dự đó, ma’am,” anh ta nghiêng mình với cô và trông thật hài lòng.
“Ngài có đến dự buổi vũ hội ở Moreland House vào tối ngày mai không?” Vanessa hỏi. “Nếu có thể, tôi sẽ giới thiệu cậu ấy với ngài ở đó. Các vị có dự định tham gia không ạ?”
“Làm sao chúng tôi bỏ lỡ được,” Lady Laughton nói trong khi Beaton lại cúi đầu lần nữa. “Bất kể là ai cũng sẽ có mặt ở đó, Lady Lyngate.”
“Tôi có thể thấy,” Elliott nói một vài phút sau, khi họ đã ngồi trong xe ngựa và đang trên đường về nhà, “là em đã sẵn sàng thực hiện một loạt cuộc giới thiệu.”
“Mẹ ngài đã đưa em đi nhiều nơi cùng với bà,” cô nói. “Em đã cố nhớ mọi cái tên. Không phải lúc nào cũng dễ, nhưng thật may là em nhớ được Lady Haughton và Miss Flaxley.”
“Có vẻ như,” anh nói, “rốt cuộc em sẽ không cần tôi ở bên cạnh nữa.”
Cô quay đầu nhìn anh chăm chú.
“Oh, nhưng, Elliott,” cô nói, “tất cả những người đó chỉ là người quen. Ngay cả mẹ ngài và Cecily và Meg và Kate và Stephen cũng chỉ là người trong nhà. Ngài là chồng em. Có sự khác biệt chứ. Khác biệt rất lớn nữa là khác.”
“Bởi vì chúng ta lên giường với nhau?” anh hỏi cô.
“Oh, ngài thật ngốc nghếch,” cô nói. “Vâng, bởi vì chuyện đó. Bởi vì nó là biểu trưng cho sự riêng tư trong quan hệ giữa chúng ta. Vô cùng riêng tư.”
“Thế mà,” anh nhắc nhở cô, “em lại không thích tôi bước vào những nơi riêng tư của em mà không gõ cửa. Em đã khăng khăng là mình cần một chút riêng tư, ngay cả với tôi.”
Cô thở dài.
“Vâng, nó giống như sự mâu thuẫn đúng không?” cô nói. “Nhưng vấn đề là, ngài biết không, hai con người không bao giờ có thể thực sự trở thành một được bất kể họ có gần gũi đến đâu. Và chuyện đó cũng không đáng ao ước nếu như nó trở thành hiện thực. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu một trong hai người chết đi? Sẽ bỏ lại người kia chỉ còn một nửa, và đó sẽ là một điều khủng khiếp. Mỗi người chúng ta phải là một thực thể toàn vẹn, và do đó chúng ta cần một chút riêng tư được ở một mình với bản thân chúng ta và những cảm xúc của chính ta. Nhưng mối quan hệ hôn nhân là một điều gần gũi đối với tất cả những thứ đó, và sự gần gũi phải được bồi đắp. Vì mối quan hệ ấy phải là mối quan hệ tốt đẹp nhất trong tất cả. Thật lãng phí làm sao khi sống hai cuộc đời hoàn toàn tách biệt trong khi cơ hội cho những niềm vui lớn lao nhất được sống bên nhau vẫn ở đó.”
“Rõ ràng em để tâm suy nghĩ rất nhiều về chủ đề này,” anh nói.
“Em đã dành rất nhiều thời gian suy nghĩ khi –“ cô không nói hết câu. “Em đã dành nhiều thời gian suy nghĩ. Em biết một cuộc hôn nhân hạnh phúc là như thế nào.” Cô ngoảnh mặt đi khỏi anh và nhìn ra cửa sổ. Cô nói khẽ đến mức anh khó lòng giải mã được các từ. “Và em biết một cuộc hôn nhân hạnh phúc hơn có thể ra sao.”
Làm thế nào mà họ sa vào đề tài này? Làm thế nào mà anh cứ sa vào bất cứ đề tài nào với cô vợ của anh?
Có một điều dần trở nên sáng tỏ đối với anh. Ấy là cô sẽ không để cho anh tận hưởng bất cứ sự dễ chịu nào của đời sống hôn nhân có thể na ná như cuộc sống độc thân của anh trước kia.
Cô sẽ bắt anh phải vui vẻ, chết tiệt thật.
Và hân hoan.
Bất kể sự khác biệt quỷ quái nào có thể có giữa hai trạng thái ấy.
Chúa cứu giúp anh.
“Elliott,” cô nói khi cỗ xe chạy lên trước nhà. Cô đặt một bàn tay mang găng lên tay áo anh. “Cám ơn ngài rất nhiều về buổi sáng nay – về bảo tàng, về món kem. Niềm vui của em thật không thể dùng lời để diễn tả.”
Anh nâng bàn tay cô lên môi.
“Cám ơn em,” anh nói, “vì đã đi.”
Đôi mắt cô lấp lánh vui sướng.
“Chiều nay ngài có thể được tự do làm bất kì chuyện gì mình muốn,” cô nói. “Em sẽ đi mua sắm với Meg và Kate. Cecily cũng đi cùng. Em sẽ không gợi ý là ngài nên tháp tùng bọn em đâu. Em sẽ gặp ngài vào bữa tối chứ?”
“Được rồi,” anh nói. Anh thốt ra một cách bốc đồng. “Có lẽ em nên sắp xếp để bữa ăn được phục vụ sớm. Vì có thể em sẽ thích đến nhà hát vào tối nay. Vở đêm thứ mười hai của Shakespear đang được trình diễn ở Drury Lane. Có lẽ Merton và chị em của em sẽ muốn ngồi cùng chúng ta trong lô riêng của tôi ở đó.”
“Ôi, Elliott!” Gương mặt cô bừng sáng với niềm hân hoan đến mức anh bị lóa mắt trong giây phút. “Quả thực em không thể nghĩ ra thứ gì làm em thích hơn nữa. Và ngài tuyệt vời làm sao khi mời cả em trai và chị em của em đi cùng.”
Anh nhận ra mình vẫn đang nắm tay cô. Và người hầu của anh đang đứng bên cửa xe, giữ cho cửa mở. Anh đã đặt chân xuống các bậc thang. Anh đang nhìn chằm chằm xuống lòng đường, thôi thúc của một nụ cười ngớ ngẩn hiện trên môi anh.
“Vậy tôi sẽ về nhà đúng giờ để ăn tối cho sớm,” Elliott nói sau khi nhảy xuống đất và giơ tay giúp Vanessa bước xuống.
Nụ cười của cô ấm áp và rạng ngời.
Và cô thực sự trông rất xinh đẹp trong chiếc áo hồng.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.