First Comes Marriage

Chương 21 part 2



Nhưng hai tiếng đồng hồ sau, Vanessa về đến Moreland House với con tim nặng trĩu. Nỗi buồn của một người dành tình yêu cho những người khác thường khó chịu đựng hơn nỗi buồn của người nhận được tình yêu, cô nghĩ – và Meg không nghi ngờ gì là đang buồn.

Không phải là cô cũng buồn. Mà chỉ là…

Chà, chỉ là cô đã biết tới niềm vui cuồng nhiệt trong tuần trăng mật của mình và lặp lại được vài ngày trước và sau buổi trình diện của cô. Và niềm vui đó đã khiến cô thèm muốn thêm nữa.

Tất nhiên cô chắc chắn là mình đã có em bé. Có lẽ điều đó tạo ra khác biệt chăng. Nhưng tại sao lại thế? Cô chỉ đơn thuần đang thể hiện cái chức năng mà vì nó anh mới lấy cô thôi mà.

Nhưng, ôi trời – cô đang mang thai đứa con của Elliott và của cô. Đứa con của họ. Cô mong muốn đến tuyệt vọng được hạnh phúc một lần nữa. Không chỉ là hạnh phúc riêng mình cô, mặc kệ điều cô đã nói với Margaret lúc nãy. Cô muốn được hạnh phúc với anh. Cô muốn anh phấn khích vì vui sướng khi cô thông báo cho anh. Cô muốn…

Cô muốn những gì tốt đẹp, tất nhiên.

Sao cô ngớ ngẩn thế không biết.

Không có mấy buổi tối được tự do. Dường như nó là một sự đãi ngộ hiếm hoi khi thỉnh thoảng mới xuất hiện.

Vào một buổi tối như thế Cecily đã đến nhà hát với một nhóm bạn, dưới sự đi kèm của mẹ một người trong số đó. Elliott rút lui vào thư viện sau bữa ăn tối. Mẹ anh, người đang ngồi uống trà và trò chuyện với Vanessa trong phòng khách, không thể che giấu những cái ngáp của mình và cuối cùng đã xin thứ lỗi, giải thích là bà đã hoàn toàn kiệt sức.

“Ta cảm thấy,” bà nói khi Vanessa hôn lên má mình, “như là ta có thể ngủ suốt một tuần.”

“Con dám chắc là một đêm ngủ ngon không đứt quãng sẽ đáp ứng đủ,” Vanessa nói, “nhưng nếu không tác dụng, thì con sẽ đi kèm Cecily tới bữa tiệc vườn ngày mai và mẹ có thể có một ngày yên ả. Chúc mẹ ngủ ngon.”

“Con lúc nào cũng thật là tốt,” mẹ chồng cô nói. “Ta rất vui mừng vì Elliott đã lấy con. Chúc con ngủ ngon, Vanessa.”

Vanessa ngồi lại một mình trong một lúc, đọc vài trang sách. Nhưng cái cảm giác quen thuộc đang ngày càng lớn dần của sự chán nản bao trùm lên cô và làm sao lãng sự chú ý của cô khỏi những cuộc phiêu lưu của Odysseus khi chàng cố gắng trở về Ithaca và nàng Penelope của chàng.

Elliott đang ở trong thư viện dưới nhà và cô đang ở phòng khách trên này trong cả một buổi tối quý báu khi cả hai cùng ở nhà. Đây có phải là hình mẫu cuộc sống hôn nhân của họ?

Cô sẽ để nó diễn ra như thế ư?

Có thể anh sẽ lên đây nếu như biết mẹ anh đã đi ngủ và cô có một mình.

Có thể anh sẽ bực mình nếu cô xuống dưới đó.

Và có thể, cuối cùng cô nghĩ, kiên quyết đứng lên và kẹp một ngón tay trong cuốn sách để đánh dấu trang, cô phải đi và tự tìm hiểu. Xét cho cùng đây cũng là nhà cô cơ mà, và anh là chồng cô. Và họ không ghẻ lạnh nhau. Họ đã không cãi cọ. Nếu họ trôi dạt ra hai phía thành một mối quan hệ xa cách, thì ít nhất sẽ có phần lỗi của cô nếu cô không thử làm điều gì đó về chuyện này.

Cô gõ lên cánh cửa thư viện và mở ra khi anh lên tiếng bảo cô vào.

Một ngọn lửa đang cháy bập bùng trong lò sưởi cho dù tối nay không lạnh.Anh đang ngồi trong chiếc ghế bọc da sâu lòng kê chếch một bên lò sưởi, cuốn sách để mở nằm trên một bàn tay. Thư viện là một căn phòng cô yêu thích, với những kệ sách cao chất ngất xếp kín những quyển sách bọc da dựa vào ba mặt tường và chiếc bàn bằng gỗ sồi cổ đủ lớn cho ba người nằm xoài ra cạnh nhau.

Nó ấm cúng hơn hẳn phòng khách. Cô không trách Elliott vì đã chọn ngồi đây vào buổi tối. Trông nó có vẻ mời gọi hơn bao giờ hết trong tối nay. Anh cũng vậy. Anh ngồi hơi ườn ra trong ghế. Gác mắt cá chân bên này lên đầu gối chân bên kia.

“Mẹ ngài thấy mệt,” cô nói. “Bà đã đi nằm rồi. Ngài có phiền nếu em ở đây với ngài không?”

Anh uể oải đứng lên.

“Tôi hi vọng em sẽ ở lại,” anh nói, chỉ vào chiếc ghế đối diện, ở phía bên kia lò sưởi.

Một khúc gỗ gãy răng rắc trong lò sưởi, bắn ra một trận tia lửa lên ống khói lò.

Cô ngồi xuống và mỉm cười với anh và rồi, vì chẳng nghĩ được câu gì để nói, cô liền mở sách ra, hắng giọng, và bắt đầu đọc.

Anh cũng làm tương tự, nhưng không hắng giọng. Anh không ngồi ngả ngớn nữa, mà đặt cả hai chân xuống đất.

Cái ghế của cô quá sâu đối với khổ người cô. Cô phải ngồi ngay ngắn dựa vào lưng ghế và chân thì đung đưa cách mặt sàn vài inch hoặc với hai chân đặt xuống sàn và lưng uốn cong như móc câu dựa vào thành ghế hoặc với hai chân đặt xuống sàn và lưng thẳng như cái que thông nòng súng và không dựa được vào đâu.

Sau vài phút, trong suốt lúc đó cô đã thử cả ba tư thế và chẳng thấy cái nào thoải mái cả, cô bỏ dép ra, co chân lên thu về bên cạnh người trên nệm ghế, xếp lại nếp váy xung quanh, và nép mình gối đầu lên tay ghế. Cô nhìn vào lò sưởi rồi nhìn sang Elliott.

Anh đang chăm chú nhìn cô.

“Như thế này không có dáng quý phái, em biết,” cô nói vẻ hối lỗi. “Cha mẹ em đã nói em mãi là phải ngồi cho thẳng thớm. Nhưng em thì thấp mà hầu hết những chiếc ghế lại quá lớn so với em. Hơn nữa, em thấy thoải mái với vị trí này.”

“Trông em rất thoải mái,” anh nói.

Cô mỉm cười với anh và không biết vì sao mà không ai quay lại đọc sách nữa. Họ chỉ nhìn nhau.

“Kể cho em nghe về cha ngài đi,” cô khẽ nói.

Cô vẫn nhớ mẹ anh đã nói với cô rằng bà hi vọng anh sẽ khác với cha mình. Elliott chưa từng kể về ông.

Anh tiếp tục nhìn cô chăm chăm một lúc lâu. Rồi anh chuyển ánh mắt sang ngọn lửa và đặt cuốn sách xuống chiếc bàn bên cạnh.

“Tôi tôn thờ ông ấy,” anh nói. “Ông là vị anh hùng vĩ đại của tôi, nền tảng cho sự tồn tại của tôi. Ông là hình mẫu của tất cả những gì tôi khao khát được trở thành khi nào lớn lên. Tôi làm mọi thứ để khiến ông hài lòng. Ông thường xa nhà thành những đợt dài kế tiếp nhau. Tôi mong mỏi ông trở về. Khi còn rất nhỏ, tôi thường đóng đô trước cổng vườn để ngóng tiếng chân ngựa hoặc cỗ xe của ông và trong một vài dịp hiếm hoi ông mới về trong lúc tôi đang ở đó, tôi sẽ quấn lấy ông và kè kè bên ông trước khi mẹ và các em của tôi có thể dành lại lượt của họ. Khi tôi lớn hơn và bắt đầu lêu lổng với Con, hành vi của tôi luôn được kìm chế bởi nỗi sợ làm cha mình thất vọng và khơi lên cơn tức giận của ông. Khi tôi bắt đầu ăn chơi trác tác ở tuổi thanh niên, một phần trong tôi lo lắng rằng mình sẽ chẳng bao giờ sánh ngang với ông, rằng sẽ chẳng bao giờ đạt được tiêu chuẩn ông đã đề ra.”

Anh im lặng một lúc. Vanessa cố gắng không nói bất cứ lời nào. Cô cảm thấy phía trước còn nhiều điều hơn nữa. Có một nỗi đau đớn trong ánh mắt và giọng nói của anh, một nếp nhăn hằn giữa đôi lông mày.

“Không có gia đình nào gắn bó, hạnh phúc được hơn gia đình chúng tôi,” anh nói, “không người chồng nào tận tụy hơn với vợ hoặc một người cha tận tụy với các con của mình hơn cha tôi. Mọi mặt của cuộc sống đều êm đềm bất chấp những lần vắng nhà dài ngày của ông. Nó được lấp đầy bởi tình yêu. Hơn bất cứ thứ gì trên thế giới này tôi muốn có một cuộc hôn nhân và gia đình giống như của ông. Tôi muốn được sưởi ấm trong sự tán thành của ông. Tôi muốn ai ai cũng có thể nói về chúng tôi, ‘đúng là cha nào con nấy’.”

 

Vanessa gấp quyển sách lại trên lòng mà không đánh dấu trang và khoanh hai cánh tay lại, dù chắc chắn cô không thấy lạnh khi ngồi sát lò sưởi.

“Và rồi một năm rưỡi trước đây,” anh nói, “ông chết đột ngột trên giường của nhân tình.”

Vanessa nhìn anh trân trân, choáng váng bởi những lời nói ấy.

“Họ đã sống với nhau hơn ba mươi năm,” anh bảo cô, “lâu hơn một chút so với cuộc hôn nhân của cha mẹ tôi. Họ đã có năm người con, đứa bé nhất mười lăm tuổi, nhỏ hơn Cecily đôi chút, người con cả ba mươi tuổi, lớn hơn tôi đôi chút.”

“Ôi,” Vanessa thốt lên.

“Ông đã chu cấp đầy đủ cho nhân tình trong trường hợp ông chết đi,” anh nói. “Ông đã đưa hai người con trai của mình vào nơi công ăn việc làm ổn định và sinh lời, đứa con thứ ba học ở ngôi trường chất lượng, ông đã kiếm cho hai cô con gái hai người chồng đáng kính, giàu có. Ông đã dành thời gian của mình cho gia đình ấy ngang bằng với gia đình tôi.”

“Ôi, Elliott,” cô nói, cảm nhận sâu sắc được nỗi đau của anh đến mức mắt cô nhòa lệ.

Anh nhìn cô.

“Hài hước ở chỗ,” anh nói, “tôi biết về ông nội tôi và một gia đình khác của ông. Cô nhân tình bốn mươi năm của ông mới chết khoảng mười năm trước. Mối quan hệ bất chính đó cũng có kết quả là mấy đứa con. Tôi thậm chí còn biết rằng đó là một loại truyền thống của gia đình – một cách mà những người đàn ông nhà Wallace chúng tôi chứng tỏ khí chất đàn ông và sự vượt trội của mình trước phụ nữ, tôi cho là thế. Nhưng tôi chưa từng nghĩ rằng có lẽ cha mình cũng nâng cao truyền thống ấy.”

“Ôi, Elliott,” Cô không thể nghĩ ra điều gì khác để nói.

“Tôi tin là,” anh nói, “cả thế giới đã biết hết trừ tôi ra. Làm sao tôi có thể không biết, tôi chịu. Tôi dành hết thời gian ở thành phố này sau khi tốt nghiệp Oxford, Chúa biết thế, và tôi nghĩ mình đã biết mọi thứ xảy ra trong giới thượng lưu, thậm chí cả những mặt trái đê tiện của nó. Nhưng tôi chưa từng nghe thấy một lời thì thầm nào về cha tôi. Mẹ tôi thì biết – bà luôn luôn biết. Cả Jessica cũng biết luôn.”

Cô cố hình dung cả thế giới của anh đã sụp đổ như thể nào chỉ hơn một năm trước đây.

“Tất cả,” anh nói như thể đọc được ý nghĩ của cô. “Tất cả mọi thứ tôi biết, mọi điều tôi đã tôn sùng và tin tưởng – tất cả đều là ảo ảnh, là dối trá. Tôi đã nghĩ chúng tôi đã có tình yêu không sứt mẻ của cha. Tôi đã nghĩ có lẽ mình là trường hợp đặc biệt bởi vì tôi là con trai, là người thừa kế, là người kế vị cuối cùng của ông. Nhưng ông đã có một đứa con trai lớn hơn tôi và một đứa suýt soát tuổi tôi và ba đứa nữa. Thật khó khăn để nuốt trôi cái sự thật đó. Nó vẫn thật khó khăn. Tất cả những năm tháng ấy mẹ tôi không là gì cả với ông ngoài một người vợ hợp pháp, người tạo ra cho ông kẻ thừa kế hợp pháp. Và tôi chẳng là gì cả đối với ông ngoài kẻ thừa kế hợp pháp đó.”

“Ôi, Elliott,” cô bỏ chân xuống khỏi ghế, đứng lên, thậm chí không nhận thấy quyển sách đã rơi bịch xuống sàn, và vội vã bước đến chỗ anh. Cô ngồi xuống lòng anh, vòng hai cánh tay qua eo anh, và gục đầu vào vai anh. “Ngài không biết điều đó. Ngài là con trai của ông. Chị và em gái ngài là con gái của ông. Ông không cần phải bớt yêu ngài chỉ vì ông có những đứa con ở nơi khác. Tình yêu không phải một mặt hàng hạn chế đến độ chỉ nới rộng có chừng mực. Nó là vô tận. Đừng nghi ngờ là ông không yêu ngài. Xin đừng làm vậy.”

“Tất cả những sự dối trá ấy,” anh nói, tựa đầu vào lưng ghế. “Về việc ông phải bận rộn ở London đến mức nào, về việc ông ghét phải xa nhà, và rồi về chuyện ông nhớ chúng tôi xiết bao, ông cô đơn đến độ nào khi không có chúng tôi, ông vui mừng biết bao nhiêu khi trở về nhà. Tất cả là dối trá, chắc chắn được lặp lại với gia đình kia của ông khi ông quay về với họ.”

Cô ngẩng đầu để nhìn vào gương mặt anh và rút tay ra để cô có thể vuốt lên mái tóc anh.

“Đừng,” cô nói. “Đừng nghi ngờ hết thảy, Elliott. Nếu ông nói ông yêu ngài, nếu ngài cảm thấy tình yêu đó, thì đừng nghi ngờ ông nói dối.”

“Vấn đề là,” anh nói, “chẳng có gì trong số này là của hiếm cả. Tôi có thể nêu một tá ví dụ khác mà chẳng cần nhọc công nghĩ ngợi. Nó nảy sinh từ đời sống một xã hội mà ở đó dòng dõi, địa vị và gia tài là tất cả và hôn nhân chiến lược là tiêu chuẩn. Nó là chuyện bình thường khi tìm kiếm thú vui xác thịt và cảm xúc thoải mái ở nơi khác. Chỉ là tôi không biết điều đó ở cha tôi, thậm chí không một chút nghi ngờ. Đột ngột tôi trở thành tử tước Lyngate với sự chuẩn bị vô cùng ít ỏi cho tất cả bổn phận và trách nhiệm giờ đây là của mình – là lỗi của tôi, tất nhiên. Tôi đã là một thằng thanh niên bất cần quá lâu. Và đột nhiên tôi trở thành người bảo trợ của Jonathan. Tất cả những chuyện đó tôi sẽ giải quyết, đột ngột và không mong đợi như khi chúng đến với tôi. Xét cho cùng tôi là con trai của cha tôi cơ mà. Nhưng cũng đột ngột và không mong đợi như vậy tôi đã bị -“

“tước đoạt những kí ức của mình?” cô gợi ý khi anh dừng phắt lại.

“Phải, nhận ra là chúng hoàn toàn sai, tất cả chỉ là ảo tưởng,” anh nói. “Tôi bị trôi vào một thế giới mà tôi không biết gì.”

“Và,” cô nói, “mọi niềm vui và yêu thương và hi vọng đã bay đi khỏi cuộc sống của ngài.”

“Tất cả những lí tưởng ngu ngốc và ngây thơ,” anh nói. “Tôi đã trở thành một người thực tế rất nhanh chóng, hầu như chỉ qua một đêm. Tôi học bài học của mình khá chóng vánh và sáng dạ.”

“Ôi, tội nghiệp ngài, con người dại dột,” cô nói. “Sự thực tế không loại trừ tình yêu hay niềm vui. Nó được làm từ những yếu tố đó.”

“Vanessa,” anh nói, giơ tay lên và áp mặt sau những ngón tay lên má cô một lúc, “tất cả chúng tôi nên thơ ngây và lạc quan như em. Tôi đã từng như thế cho đến một năm rưỡi trước.”

“Tất cả chúng ta nên thực tế như em,” cô nói. “Tại sao sự thực tế luôn được nhìn nhận như một thứ cấm đoán? Tại sao chúng ta thấy quá đỗi khó khăn để tin tưởng bất cứ điều gì ngoài thảm họa và bạo lực và phản bội? Cuộc sống là tốt đẹp. Ngay cả khi những người tốt lại chết quá trẻ và những người lớn hơn phản bội chúng ta, cuộc sống là tốt đẹp. Cuộc sống là những gì chúng ta tạo ra. Chúng ta phải chọn cách nhìn nhận nó như thế nào.”

Cô hôn nhẹ lên môi anh. Nhưng cô sẽ không xem nhẹ nỗi đau mà anh vẫn không thể gọi tên thậm chí sau hơn một năm.

“Và vậy là anh cũng mất nốt người bạn thân nhất?” cô nói dịu dàng. “Anh mất Constantine?”

“Cọng rơm cuối cùng, đúng vậy,” anh thú nhận. “Tôi cho rằng mình có một phần lỗi. Tôi về lại đó, về Warren Hall, với sự sốt sắng vĩ đại để thực hiện bổn phận của mình với Jonathan, khá là sẵn sàng hiếp đáp bất cứ ai dính líu đến thằng bé nếu cần thiết. Có lẽ tôi sẽ sớm học được rằng phải bớt nhiệt huyết quá đáng đi nếu tất cả đã diễn ra theo chiều tất yếu. Nhưng không, rất nhanh chóng tôi thấy rõ rằng cha tôi đã đặt hết niềm tin vào Con và rằng Con đã tận dụng lòng tin đó.”

“Bằng cách nào?” cô hỏi anh, hai bàn tay ôm lấy gương mặt anh.

Anh thở dài.

“Gã đánh cắp của Jonathan,” anh nói. “Có những món nữ trang, đồ gia bảo. Hầu hết đều là vật vô giá, dù tôi dám chắc chúng đã mang lại một món tiền đáng kể. Phần lớn trong số đó đã biến mất. Jon chẳng biết gì về chúng khi được hỏi, nhưng nó nhớ là cha nó đã đưa cho nó xem một lần. Con sẽ không thú nhận đã lấy chúng, nhưng gã cũng chẳng chối. Gã khoác một vẻ mặt khi tôi nói chuyện với gã, một vẻ mặt mà tôi đã quen thuộc từ lâu – nửa chế giễu, nửa khinh miệt. Nó là một vẻ mặt nói với tôi một cách rõ ràng như từng chữ một rằng đúng là gã đã lấy đấy. Nhưng tôi không có bằng chứng. Tôi không nói với bất cứ ai. Nó là nỗi nhục nhã trong nhà mà tôi cảm thấy có bổn phận phải che dấu với thế giới. Em là người đầu tiên được biết. Gã không phải một người bạn xứng đáng. Tôi đã bị gã lường gạt cả đời cũng như bị lường gạt bởi cha tôi. Gã không phải là một tính cách dễ chịu đâu, Vanessa.”

“Không,” cô buồn bã đồng ý.

Anh nhắm mắt, cánh tay rơi trở lại bên sườn.

“Ôi Chúa,” anh nói, “sao tôi lại trút lên em tất cả lịch sử bẩn thỉu của gia đình này vậy?”

“Bởi vì em là vợ ngài,” cô nói. “Elliott, ngài không được từ bỏ tình yêu cho dù hình như tất cả những người ngài yêu quý đều phản bội ngài. Thật ra chỉ có hai người trong tất cả những người ngài biết mà thôi, những người ấy cũng quý giá như hai người đó. Và ngài không được từ bỏ hạnh phúc ngay cả khi những hồi ức hạnh phúc của ngài dường như chỉ là những hồi ức giả dối. Tình yêu và niềm vui đang chờ ngài phía trước.”

“Vậy sao?” anh mệt mỏi nhìn vào mắt cô.

“Và hi vọng,” cô nói. “Luôn luôn phải hi vọng, Elliott.”

“Phải ư? Tại sao?”

Và rồi, khi cô vẫn nhìn, hai bàn tay cô vẫn khum lấy hai bên gương mặt anh, cô thấy những giọt nước mắt ứa ra trong mắt anh và chảy xuống má anh.

Anh giật đầu ra khỏi tay cô và bật ra một lời nguyền rủa phải làm đỏ bừng gương mặt cô.

“Mẹ kiếp,” anh nói, tiếp nối câu chửi thề đầu tiên bằng một câu nhẹ nhàng hơn. Anh dò dẫm xung quanh tìm khăn tay và thấy một cái. “Quỷ tha ma bắt, Vanessa. Em phải thứ lỗi cho tôi.”

Anh cố nhấc cô khỏi lòng mình, đẩy cô ra, xua đuổi cô. Nhưng cô sẽ không cho phép chuyện đó. Cô vòng cả hai tay qua cổ anh, kéo gương mặt anh vào ngực mình.

“Đừng cự tuyệt em,” cô nói trong tóc anh. “Đừng mãi cự tuyệt em, Elliott. Em không phải cha anh hay Constantine. Em là vợ anh. Và em sẽ không bao giờ phản bội anh.”

Cô quay mặt để áp má lên đỉnh đầu anh khi anh khóc với những tiếng thổn thức sâu và đau đớn cùng những tiếng thở nghẹn ngào.

Anh sẽ xấu hổ chết mất khi khóc xong, cô nghĩ. Có lẽ bao nhiêu năm nay anh chưa nhỏ một giọt nước mắt nào. Đàn ông thật ngớ ngẩn về những chuyện như vậy. Nó là sự nhục nhã cho khí chất nam nhi của họ khi khóc lóc.

Cô hôn lên mái đầu anh và thái dương anh. Cô vuốt ve những ngón tay lên tóc anh.

“Tình yêu của em,” cô thì thầm với anh. “Ôi, tình yêu của em.”

 


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.