Niềm hy vọng có thể tìm ra Leesey Andrews còn sống sót đang phai nhạt dần”, bác sĩ David Andrews đọc thấy thế khi bản tường thuật tin tức cuối ngày chạy ở bên dưới màn hình tivi. Ông đang ngồi trong chiếc ghế bành da ở phòng làm việc nhỏ trong căn hộ trên đại lộ Công Viên của con trai mình. Không sao ngủ được, ông đã đi ra đó vào khoảng thời gian trước lúc bình minh. Ông biết mình có chợp mắt một chút vì ngay sau khi nghe thấy Gregg rời nhà để đến bệnh viện, ông thấy có cái chăn được đắp gọn gàng quanh người ông.
Giờ đây, sau ba tiếng, ông vẫn còn ngồi ở đó, mơ màng xem tivi. Ta cần đi tắm và thay đổi trang phục, ông nghĩ, nhưng lại quá mệt mỏi để di chuyển. Cái đồng hồ trên bệ lò sưởi chỉ mười giờ kém mười lăm. Ta vẫn còn mặc bộ đồ ngủ, ông nghĩ – Điều đó thật lố bịch. Ông nhìn lên màn hình tivi. Ông vừa trông thấy điều gì ở đó? Lẽ ra ta phải đọc nó vì máy cài chế độ câm, ông ý thức ra điều này.
Ông rờ rẫm tìm cái điều khiển từ xa mà ông nhớ đã đặt trên nệm để có thể điều chỉnh âm thanh ngay lập tức nếu có điều gì đó về Leesey.
Hôm đó là Chủ nhật, ông nghĩ. Bây giờ đã hơn năm ngày rồi. Ta cảm thấy gì đúng vào giây phút này? Chẳng có gì cả. Không sợ hãi, không thống khổ, không giận dữ đằng đằng sát khí đối với kẻ đã đem con bé đi. Ngay giây phút này đây, ta chỉ cảm thấy tê cứng.
Nó sẽ không kéo dài.
Hy vọng đang phai nhạt, ông nghĩ. Phải chăng ta đã đọc thấy nó trong tin tức chiếu trên tivi? Hoặc phải chăng ta đã dựng ra nó? Tại sao điều đó nghe thấy quen quen?
Hình ảnh mẹ ông chơi đàn piano tại các buổi tiệc gia đình và mọi người cùng tham gia hát chợt bùng lên trong tâm trí ông. Họ yêu thích những bản nhạc kịch vui cổ xưa, ông nghĩ. Một người trong số họ bắt đầu với những ca từ: “Anh yêu, em đang trở nên già nua”.
Leesey sẽ chẳng bao giờ trở nên già nua. Ông nhắm mắt, chống lại nỗi đau cuồn cuộn. Sự tê cứng vì cảm xúc đã biến mất.
Anh yêu, em đang trở nên già nua… Những sợi bạc lẫn trong sợi vàng… Sáng trên hàng lông mày của em… Cuộc sống đang nhanh chóng phai nhạt đi…
Hy vọng đang nhạt phai… Đó là những lời khiến ta nhớ lại bài hát đó.
“Cha ơi, cha không sao chứ?”
David Andrews ngước nhìn lên và trông thấy khuôn mặt lo lắng của con trai ông. “Cha không thấy con bước vào, Gregg”. Ông dụi mắt. “Có phải con biết cuộc sống đang nhanh chóng phai nhạt dần đi không? Cuộc sống của Leesey”. Ông dừng lại, rồi cố nói: “Không, cha đã sai rồi. Đó chính là niềm hí vọng đang nhạt phai dần là sẽ tìm ra con bé còn sống sót”.
Gregg Andrews bước qua căn phòng, ngồi xuống cạnh cha anh, và choàng cánh tay lên đôi vai ông. “Niềm hy vọng của con chưa nhạt phai, cha ơi”.
“Chưa à? Thế thì con tin vào phép lạ rồi. Tại sao không? Chính bản thân cha cũng từng tín tưởng các phép lạ cơ mà”.
“Cứ tin vào chúng, cha ạ”.
“Còn nhớ mẹ con ra đi thế nào không? Lúc đầu dường như mọi việc rất tốt đẹp, thế rồi chỉ qua một đêm, cục diện đã thay đổi, và chúng ta đã mất bà ấy. Đó là lúc cha ngừng tin tưởng vào các phép lạ”.
David lắc đầu, cố bôi xóa ý nghĩ ấy đi, và vỗ nhẹ vào đầu gối con trai ông. “Tốt hơn hết là con nên tự chăm sóc mình thật tốt cho cha đi. Con là tất cả những gì cha có lúc này”. Ông đứng lên. “Cha có cảm giác như mình đang nói chuyện trong lúc ngủ. Cha sẽ ổn thôi, Gregg. Cha sẽ đi tắm, thay quần áo rồi về nhà. Cha hoàn toàn vô dụng ở đây. Với lịch làm việc của con ở bệnh viện, con cần có thời gian nghỉ ngơi khi về đây, và ở nhà, cha sẽ vững vàng hơn, cha hi vọng thế. Cha sẽ quay trở về những việc thường lệ trong lúc chúng ta chờ xem có điều gì tiến triển”.
Gregg nhìn cha với con mắt của một bác sĩ lâm sàng, quan sát những vòng quầng hằn sâu trên đôi mắt với những nét trông vắng, ảm đạm trong đó, cái cách khiến thân hình gọn gàng của ông chỉ trong vòng bốn ngày qua đã trở nên cực kỳ mỏng mảnh. Ông chẳng ăn gì kể từ khi biết tin về Leesey, Gregg nghĩ, về phương diện nào đó, anh muốn phản đối việc cha anh bỏ về, nhưng về phương diện khác, tốt hơn hết ông nên quay về Greenwich, nơi ông tình nguyện làm việc tại một trung tâm chăm sóc cấp cứu ba ngày một tuần và là nơi ông có những người bạn thân ở quanh đó.
“Con hiểu, cha ạ”. Anh nói. “Và có lẽ cha nghĩ cha đã từ bỏ mọi hi vọng. Nhưng con không tin cha như thế”.
“Hãy tin cha”. Ông đơn thuần nói thế.
Bốn mươi phút sau, khi đã tắm rửa và thay quần áo xong, ông sẵn sàng ra đi. Đứng trước cửa căn hộ, hai người đàn ông ôm chầm lấy nhau. “Cha ơi, cha biết có hàng tá người đang chờ ăn cơm tôi với cha. Hãy đi ra câu lạc bộ với ai đó trong số họ tối nay”. Gregg thúc giục.
“Không phải tối nay. Nhưng cha sẽ sớm đi với họ”.
Sau khi cha anh đi rồi, căn hộ trở nên trống vắng. Cả cha và mình đều đang cố gắng duy trì dáng vẻ bên ngoài để làm yên lòng nhau, Gregg nghĩ. Tốt hơn hết ta cũng có lời khuyên cho chính mình và cũng giữ cho mình bận rộn. Ta sẽ có cuộc chạy bộ dài trong Công viên Trung tâm rồi sau đó ngủ một chút. Anh đã dự định đi về giữa khu Woodshed và căn hộ của Leesey khuya nay, lúc ba giờ sáng, cùng thời điểm con bé bắt đầu chuyến đi dạo. Có thể ta sẽ tìm ra ai đó để nói chuyện cùng, một ai đó mà cảnh sát đã hụt mất, anh nghĩ. Thám tử Barrott đã bảo với anh rằng những thám tử mặc thường phục đang làm việc đó mỗi tối, nhưng nhu cầu giúp đỡ trong việc tìm kiếm đã tạo thành tình trạng kích động mãnh liệt trong Gregg.
Khi cha còn ở đây, ta không thể làm điều đó, anh nghĩ. Chắc chắn ông sẽ khăng khăng đòi đi với ta.
Ngày trở nên u ám, nhưng khi anh ra ngoài lúc mười một giờ, mặt trời đã chiếu rọi qua lớp mây mù, và Gregg cảm thấy tinh thần phấn chấn lên một chút. Chắc chắn vào một buổi sáng mùa xuân tuyệt đẹp như thế này, đứa em gái nhỏ bé của anh, Leesey vui vẻ, xinh xắn không thể ra đi được. Nhưng nếu con bé không chết, thì nó đang ở đâu? Hãy cứ là tình trạng suy sụp tinh thần hoặc ảnh hưởng mạnh mẽ của chứng mất trí tạm thời, Gregg cầu nguyện trong khi đi hết ba dãy phố dẫn đến công viên bằng những bước sải dài. Ở đó anh quyết định đi về phía bắc và đánh vòng lại quanh Nhà thuyền của Công viên Trung tâm.
Chân phải, chân trái, chân phải, chân trái. Chúng ta… hãy tìm ra… con bé… Chúng ta… hãy tìm ra… con bé. Anh cầu nguyện theo bước chân và nhịp chạy.
Một giờ sau, mệt mỏi và có hơi căng thẳng, anh đi bộ về căn hộ của mình thì nghe chuông điện thoại reo vang. Với những cảm xúc xung đột nhau, vừa hi vọng vừa lo sợ, anh túm lấy nó lôi ra khỏi túi áo khoác, mở nắp và thấy cuộc gọi là từ cha anh.
Những lời nói “Chào cha” chết trên môi khi anh lắng nghe một cách tuyệt vọng. Anh nghe thấy tiếng nức nở không kìm hãm được. Ôi, lạy Chúa, anh nghĩ, họ đã tìm ra thi thể con bé.
“Leesey,” David Andrews cố nói “Gregg ơi, đó là Leesey. Con bé đã gọi điện”.
“Con bé sao cơ?”
“Nó để lại lời nhắn trên máy trả lời tự động cách đây chưa đầy mười phút. Cha chỉ vừa bước vào nhà. Cha không thể tin được. Cha vừa mới hụt cuộc gọi của con bé”.
Một lần nữa, Gregg Andrews nghe thấy những tiếng nức nở của cha anh.
“Cha ơi, con bé đã nói gì? Nó đang ở đâu?”
Những tiếng nức nở bất chợt dừng lại. “Nó bảo… rằng… nó yêu cha, nhưng phải đi theo cách sống của nó. Con bé yêu cầu cha tha thứ cho nó. Nó bảo… nó bảo… rằng nó sẽ gọi lại vào Ngày của Mẹ”.