Ma Sói

CHƯƠNG 9



Chủ nhật ngày 21 tháng Sáu, trời mưa như trút tại Paris. Từ sáng đã thế rồi. Jean-Baptiste Adamsberg, trước cửa sổ phòng ngủ của anh, trên tầng sáu một tòa nhà đổ nát thuộc khu Marais với mặt tiền nghiêng ra hè phố nom hết sức nguy hiểm, nhìn dòng nước trút xuống rãnh bên đường, cuốn theo rác rưởi. Một số mảnh ngoan cố chống cự lại, một số mảnh khác để mặc nước cuốn đi không phản kháng gì. Đó là sự bất công của cuộc đời, ngay cả trong thế giới không được đánh giá đúng mức của những mẩu rác. Một số chống chọi được, một số thì không.
Anh đã phải chống chọi từ năm tuần nay. Không phải là nước muốn cuốn anh đi, mà là ba phụ nữ muốn giết anh. Nhất là một cô gái trẻ, cao nhẳng tóc hung gầy mõ vừa tròn hai mươi lăm tuổi, chơi ma túy, nhưng không thường xuyên, được hộ tống bởi hai cô bé vừa tròn đôi mươi bị mê hoặc, tuân lệnh cô ta như hai cái bóng gầy guộc, kiên quyết, đáng thương. Chỉ có cô nàng tóc hung là thật sự nguy hiểm. Cách đây mười ngày, cô ta bắn anh ngay giữa phố, cách hai centimét phía trên vai trái. Sớm hay muộn, cô ta cũng sẽ găm một viên đạn vào bụng anh. Định kiến của riêng cô ta là vậy. Cô ta từng cảnh báo anh nhiều lần qua điện thoại bằng một giọng đùng đục, giận dữ. Một viên đạn vào bụng, hệt như viên đạn anh đã bắn vào tên thủ lĩnh cách đây sáu tuần, gã đàn ông được gọi là Dick D, nhưng thật ra tên chỉ đơn giản là Jérôme Lantin.
Dưới cái tên hống hách hơn này, Dick D chỉ đạo vài đứa trai gái, một đám thảm hại và hèn hạ, giữ vai trò hộ vệ cho hắn. Dick là một tên thô thiển hay đúng hơn là đáng gờm, một tay anh chị với những phương pháp triệt để, có khả năng uốn nắn đàn em trong tay hắn, một gã đàn ông mập mạp, chắc nịch, đủ thông minh để xử lý công việc làm ăn của hắn, nhưng không đủ thông minh để hiểu rằng có những kẻ khác đang tồn tại. Hắn bó cổ tay bằng những cái vòng sắt có đinh chìa ra và bó đùi trong những cái quần da. Ta có thể giả thiết rằng D ở đây để chỉ Dictateur (độc tài), Divin (thần thánh), hoặc Démon (quỷ dữ). Qua vài thăng trầm khá tồi tệ của số phận, cô gái tóc hung phục tùng Dick D cả tinh thần lẫn thể xác. Hắn là người bán lẻ thuốc cho cô, người đàn ông của cô, Thượng đế của cô, tên đao phủ của cô, người bảo hộ của cô. Chính hắn đã bị Adamsberg hạ vào hai giờ sáng, trong một căn hầm.
Một cuộc tấn công đẫm máu đang diễn ra giữa băng đảng của Dick D và băng đảng của Oberkampi thì cảnh sát phá cửa vào, súng lăm lăm trên tay. Bọn chúng không phải những kẻ thích đùa, tên nào cũng được vũ trang. Dick nhắm vào một viên cảnh sát, Adamsberg ngắm vào đùi hắn. Một thằng ngu nào đó đã quăng cái bàn uống nước bằng gang vào cảnh sát trưởng, làm anh bật lại phía sau ba mét còn viên đạn từ khẩu súng tự động của anh thì văng lên phía trước bốn mét, vào trúng bụng Dick D.
Kết cục, một người chết và bốn người bị thương, trong đó có hai cảnh sát.
Kể từ đó, cảnh sát trưởng Adamsberg sống với một gã đàn ông ám ảnh lương tâm và một phụ nữ đeo bám sát gót. Đây là lần đầu tiên anh bắn chết một người trong hai mươi lăm năm trong nghề. Chắc chắn anh đã từng phá hỏng nhiều tay, đùi, chân khác để bảo vệ các bộ phận tương tự của mình, nhưng chưa bao giờ nguyên một con người cả. Tất nhiên đó chỉ là một tai nạn. Tất nhiên là tại cái bàn gang thằng ngu nào đấy đã quăng ra. Tất nhiên Dick Dingue (gàn điên), Dément (điên rồ), Disgracieux (xấu xí), sẽ xả súng tiểu liên vào họ như vào lũ chuột và đó là thằng đểu giả. Tất nhiên đó là một tai nạn, nhưng cũng là định mệnh không tránh được.
Bây giờ thì, cô gái đó đeo đuổi anh. Đám băng đảng ít ỏi đó đã tan rã ngay sau cái chết của Dick, trừ người phụ nữ đầy thù hận và hai kẻ bám riết cô ta mà cô ta kéo theo sau. Người phụ nữ đầy thù hận đó sở hữu một lượng lớn vũ khí thu nhặt được từ đống tàn dư của băng đảng, nhưng cảnh sát vẫn chưa xác định được hang ổ của cô ta. Cứ mỗi lần bắt được cô ta đang lẩn trốn đâu đó trên đường đi của Adamsberg thì cô ta lại tìm cách tẩu tán số vũ khí trên người trước khi bị bắt quả tang. Cô ta luôn đứng trốn sau một cái thùng rác, tay chắp sau lưng. Khi cảnh sát đến bắt cô ta thì vũ khí đã biến đâu mất. Tình huống thật nực cười nhưng không thể buộc tội cô ta. Thậm chí Adamsberg còn ngăn cản các đồng nghiệp. Bắt giữ cô ta không ích gì. Cô ta sẽ ra khỏi tù và sẽ bắn anh, chỉ là sớm hay muộn thôi. Thì cứ để cô ta ở ngoài và bắn đi, mẹ kiếp. Rồi sẽ biết ai chiến thắng, cô ta hay anh. Xét cho cùng, người phụ nữ đầy thù hận đó sẽ gột rửa tội cho anh. Không phải anh quyết định để mình bị hạ. Nhưng cuộc săn đuổi dài hơi, từ ngày này qua ngày khác, xói mòn anh, nạo vét anh.
Adamsberg quan sát cô ta đang đứng yên, ướt lướt thướt, tựa vào cánh cửa ngôi nhà đối điện. Có lúc cô ta lẩn trốn, có lúc cô ta hóa trang, hoặc cải trang hoàn toàn, như trong một câu chuyện cổ. Anh không biết khi xuất đầu lộ diện như vậy, liệu cô ta có vũ khí hay không. Cô ta thường theo dõi anh theo cách đó, không lẩn trốn, cốt để làm anh mệt thần kinh, anh nghĩ vậy.
Nhưng Adamsberg không có thần kinh. Anh không biết thế nào là co rúm, bồn chồn, căng thẳng, thậm chí thư giãn. Sự uể oải bẩm sinh giữ cho anh nhịp điệu đều đặn, luôn luôn chậm rãi, gần như hờ hững. Cũng khó có thể biết liệu cảnh sát trưởng có quan tâm đến điều gì đó hay anh hoàn toàn mặc kệ. Muốn biết phải hỏi. Và cũng gần như là vì lãnh đạm chứ không phải vì dũng cảm mà anh hầu như không biết đến sợ hãi.
Tính đều đặn đó có tác dụng làm dịu người khác, một cách gần như là bí hiểm, và tạo nên những điều kỳ điệu không thể chối cãi trong các cuộc hỏi cung.
Nhưng cùng lúc, nó có vẻ gì như chọc tức, bất công, xúc phạm. Những người, như thanh tra Danglard chẳng hạn, đều tuyệt vọng trong việc tìm cách làm Adamsberg phản kháng lại, như khi ta dập mông trên yên xe đạp. Phản kháng, dù sao cũng đâu phải là tận cùng của thế giới.
Cô gái tóc hung, tên cô ta là Sabrina Monge, không hề hay biết về khả năng thẩm thấu phi thường của cảnh sát trưởng. Cô ta cũng không biết rằng, ngay từ những ngày đầu trong cuộc truy tìm cô ta, đám cảnh sát đã bố trí một lối thoát theo hệ thống tầng hầm, dẫn Adamsberg đến hai dãy phố sau đó. Cuối cùng, cô ta không biết rằng anh có một kế hoạch cụ thể dành cho cô và anh đang nghiên cứu nó thật kỹ.
Adamsberg liếc mắt nhìn cô ta lần cuối trước khi đi ra khỏi phòng. Sabrina đôi khi khiến anh thương hại nhưng Sabrina cũng là một kẻ giết người đáng gờm, đồng thời, anh nghĩ, phù du.
Anh bình thản đi đến một quán bar đã khám phá ra cách đây hai năm, cách nhà anh sáu trăm mét, đối với anh thì đó gần như là một điều hoàn hảo. Đó là một quán rượu Ailen xây bằng gạch có tên Suối nước Đen Dublin, nơi ngự trị bầu không khí ồn ã đáng nể. Cảnh sát trưởng Adamsberg yêu thích nỗi cô đơn, nơi anh có thể cho suy nghĩ của mình trôi dạt ra ngoài khơi xa, nhưng anh cũng yêu thích con người, những hoạt động của con người và anh tự nuôi dưỡng mình như loài muỗi bằng sự hiện diện của họ quanh anh. Điều duy nhất phiền toái nơi họ là họ nói không ngừng nghỉ, đến mức đôi khi câu chuyện của họ làm phiền tâm trí anh lúc nó đang phiêu bạt. Tình thế buộc anh phải thối lui nhưng thối lui đồng nghĩa với việc quay lại với nỗi cô đơn mà anh đang muốn làm lạc lối trong vòng vài giờ đồng hồ.
Suối nước Đen Dublin mang lại một giải pháp tuyệt vời cho tình trạng tiến thoái lưỡng nan của anh, đến quầy chỉ có những tay bợm rượu và hay gào thét người Ailen, đối với Adamsberg, họ nói một thứ tiếng bí hiểm. Đôi khi cảnh sát trưởng nghĩ mình là một trong những người cuối cùng trên trái đất này không biết đến một từ tiếng Anh. Sự dốt nát nguyên thủy đó giúp anh chìm đắm trong hạnh phúc ở Suối nước Đen Dublin, tận hưởng dòng thác của sự sống mà không bị nó làm xao động bằng bất cứ cách nào. Ở nơi ẩn náu quý giá đó, Adamsberg đến viết nguệch ngoạc hàng giờ, chờ đợi những ý tưởng lộ ra trong tâm trí mà không lay động một ngón tay.
Adamsberg tìm kiếm ý tưởng bằng cách đó: anh chờ đợi chúng, đơn giản vậy. Khi một trong số đó nổi lên đập vào mắt anh, tựa như một con cá chết nổi lên mặt nước, anh vớt nó lên, nghiên cứu nó, xem liệu có cần đến nó bây giờ không, liệu nó có lợi ích gì không. Adamsberg không bao giờ suy nghĩ, anh tự hài lòng với việc mơ mộng, rồi sau đó lựa chọn trong số những gì thu nhặt được, như ta vẫn thấy người đi câu bằng vợt cá lục lọi bằng một bàn tay nặng nề dưới đáy lưới, dùng ngón tay tìm kiếm con tôm trong số những sỏi đá, rong tảo, vỏ ốc hay trong cát. Có khá nhiều sỏi đá và rong tảo trong số những suy nghĩ của Adamsberg và cũng không hiếm khi anh bị rối bời trong đó. Anh phải vứt đi rất nhiều, loại bỏ rất nhiều. Anh ý thức được rằng tâm trí cung cấp cho anh một tập hợp hỗn loạn những suy nghĩ khác nhau mà không phải với ai cũng vậy. Anh từng nhận ra rằng giữa suy nghĩ của mình và suy nghĩ của viên trợ lý Danglard có sự khác nhau tựa như giữa đáy cái vợt cá đầy những thứ lộn xộn và một gian hàng ngăn nắp của một người bán cá. Anh có thể làm gì chứ? Xét cho cùng, rốt cuộc anh sẽ cho ra một thứ gì đó, nếu ta chờ được. Adamsberg sử dụng bộ não của mình như vậy, như một mặt biển bao la nơi ta trao gửi lòng tin nhưng đã từ lâu ta không chịu thuần hóa nó.
Anh cho rằng khi anh đẩy cửa bước vào Suối nước Đen Dublin là khoảng gần tám giờ. Cảnh sát trưởng không đeo đồng hồ và luôn thương lượng với cái đồng hồ trong người anh, độ tin cậy chênh lệch chừng mười phút, đôi khi ít hơn, và không bao giờ nhiều hơn. Quán rượu bồng bềnh mùi chua chua nặng nặng của bia Guinness và của những cuộc nhậu nhẹt xung quanh bia Guinness, thứ mùi anh đã học cách yêu thích, thứ mùi mà cái quạt lớn trên trần nhà không bao giờ xua đi được. Những cái bàn bằng gỗ đánh véc ni dính dính vào tay, nhớp nháp bia bị đổ ra và được lau vội. Adamsberg đặt cuốn sổ gáy xoắn của mình lên một chiếc bàn, để dành chỗ, rồi vắt bừa áo khoác lên thành ghế. Đó là bàn tốt nhất, được đặt dưới tấm biển kếch xù vẽ vụng ba pháo đài bằng bạc bị lửa thiêu đốt tượng trưng cho, có người từng giải thích cho anh, vũ khí thành Dublin của dân tộc Xen tơ.
Anh gọi món qua Enid, cô chạy bàn tóc vàng đậm người cưỡng lại được cám dỗ của bia Guinness chứ không như những người khác, và yêu cầu đặc ân được xem bản tin thời sự lúc tám giờ. Ở đây họ biết anh là cảnh sát và khi cần thiết họ cho anh quyền sử dụng cái ti vi đặt kẹt dưới quầy rượu. Adamsberg quỳ gối rồi bật máy lên.
— Có ẩu đả ư? Enid hỏi anh bằng giọng rất nặng âm Ailen.
— Có một con sói ăn thịt cừu, nhưng ở xa đây lắm.
— Thế liên quan gì đến anh?
— Tôi không biết.
“Tôi không biết” là một trong những câu trả lời thường gặp nhất của Adamsberg. Không phải vì lười trả lời hay là vì lơ đãng mà anh phải dùng đến nó nhưng quả đúng là vì anh thật sự không biết câu trả lời là gì nên mới nói thế. Sự không biết một cách thụ động đó vừa mê hoặc vừa chọc tức viên trợ lý Danglard, người không chấp nhận việc ta có thể hành động một cách thích đáng mà hoàn toàn không biết đến lý do vì sao. Ngược lại, trạng thái phân vân ấy lại là yếu tố tự nhiên nhất trong con người Adamsberg, và cũng là yếu tố hiệu quả nhất.
Enid quay ra phục vụ phòng ngoài, hai tay ôm hàng chồng đĩa, Adamsberg thì tập trung vào bản tin đang bắt đầu. Anh bật ti vi to hết cỡ vì trong sự hỗn loạn của Suối nước Đen thì không có cách nào khác hơn để nghe thấy giọng phát thanh viên. Kể từ thứ Năm, tối nào anh cũng theo dõi bản tin tối nhưng không thấy nói đến con sói vùng Mercantour nữa. Kết thúc rồi. Kết cục đột nhiên này khiến anh sửng sốt. Anh luôn tin rằng hồi kết thúc này chỉ là một đoạn tạm nghỉ ngắn ngủi, rằng câu chuyện còn tiếp tục, không vui vẻ gì cho lắm, tựa như bị một sự cần thiết mang tính định mệnh thúc đẩy. Tại sao thì anh không biết. Và tại sao điều này lại khiến anh quan tâm, anh cũng không biết nốt. Anh cũng đã nói với Enid vậy rồi.
Vậy nên anh chỉ hơi ngạc nhiên khi lại thấy trên quảng trường làng Saint Victor-du-Mont xuất hiện những gương mặt quen thuộc. Anh gí sát mặt vào màn hình để nghe. Năm phút sau, anh đứng dậy, hơi loạng choạng. Liệu đó có phải là điều anh đang tìm kiếm? Cái chết của một phụ nữ, bị cứa cổ ngay tại chuồng cừu của bà ta? Và liệu đó có phải là điều thâm tâm anh chờ đợi trong suốt cả tuần qua? Trong những giây phút này, khi thực tế bắt kịp những viễn cảnh tối tăm nhất của nó thì Adamsberg lại ngập ngừng và gần như cảm thấy sợ. Thâm tâm anh không hẳn lúc nào cũng khiến anh hoàn toàn tin tưởng. Anh ngờ vực, như ngờ vực cái đáy cháy đen của chiếc nồi của tên phù thủy.
Anh chậm rãi đi lại bàn mình. Enid đã để sẵn đĩa của anh trên bàn, anh xiên qua củ khoai tây mà không cần nhìn, khoai tây già nhồi pho mát là món anh luôn gọi ở Suối nước Đen Dublin. Anh tự hỏi sao cái chết của người phụ nữ đó lại không khiến anh ngạc nhiên. Mẹ kiếp, sói không tấn công người, chúng chuồn đi, như lũ sói dũng cảm đầy tinh ranh vẫn làm. Một đứa trẻ con thì có thể, nhưng một người lớn thì không. Bà ta hẳn đã thật sự dồn nó vào chân tường. Nhưng ai lại ngu ngốc đến mức dồn một con sói vào chân tường? Vậy mà sự việc hẳn đã diễn ra như vậy. Lại vẫn tay bác sĩ thú y điềm tĩnh từ những ngày đầu xuất hiện trên màn hình. Giờ là chỗ của khoa học. Anh ta lại nói tới những cái răng thịt, ở đây, ở kia, lỗ thứ nhất, lỗ thứ hai. Tay này khiến ta thật buồn ngủ. Tuy nhiên hắn có vẻ thạo việc, và gần như chắc chắn rằng đó chính là vết răng của một con sói, con sói lớn vùng Mercantour, đã cắn chết người phụ nữ. Phải, đáng lẽ anh phải cảm thấy ngạc nhiên. Mày nhíu lại, Adamsberg đẩy cái đĩa sạch nhẵn ra xa, bỏ dường vào cà phê. Có lẽ ngay từ lúc đầu anh đã thấy sự việc rất kỳ lạ. Quá tuyệt, quá nên thơ để có thể là sự thật. Khi sự thi vị bất ngờ xuất hiện trong cuộc đời, chúng ta ngạc nhiên, chúng ta bị quyến rũ, nhưng một thời gian ngắn sau ta nhận ra mình đã bị lừa, rằng đó chỉ là một âm mưu, một trò lừa đảo. Có thể anh cứ nghĩ rằng chuyện một con sói khổng lồ nhảy ra từ bóng đêm để tấn công một ngôi làng là điều không tưởng. Nhưng quái thật, đó thật sự là vết răng của một con sói. Có thể là một con chó điên? Không, tay bác sĩ thú y đã nói rất rõ rồi. Tất nhiên là rất khó để phân biệt chỉ bằng những vết cắn, nhưng dù sao cũng không phải là một con chó. Sự thuần dưỡng, sự thoái hóa, kích thước giảm, khuôn mặt co lại, răng hàm chồng lên nhau. Adamsberg không nhớ hết được nhưng tóm lại là, một con chó không thể thích hợp với khoảng cách lớn mà ta đo được giữa các vết răng cắn. Trừ khi, tất nhiên, là trong trường hợp một con chó rất lớn, giống chó dogue của Đức. Liệu có thể có một con chó dogue Đức để sổng trong rừng không? Không, làm gì có. Vậy là một con sói, một con sói to.
Và lần này, họ đã tìm ra một dấu vết trên mặt đất, vết chân trái phía trước, hằn lên bãi phân cừu, ở bên phải xác chết. Vết đó rộng gần mười centimét, vết chân sói. Khi ta giẫm chân trái vào cứt, ta sẽ gặp may mắn. Adamsberg tự hỏi không biết điều đó có ứng với lũ sói hay không.
Hẳn phải vô cùng thiếu cẩn trọng nên mới tấn công một con thú tầm cỡ đó. Khi ta đâm xổ vào thì sự việc sẽ diễn ra như thế. Luôn luôn muốn làm thật nhanh, muốn đốt cháy mọi giai đoạn. Việc đó không mang lại điều gì tốt dẹp cả. Tội thiếu kiên nhẫn. Hoặc là, đó là một con sói không như những con khác. Không chỉ to lớn, nó còn bị loạn tâm thần. Adamsberg mở cuốn sổ vẽ, lôi một mẩu bút chì ra khỏi túi, đầu bút chì bị gặm nham nhở, anh quan sát nó với thái độ quan tâm mơ hồ. Cây bút chì hẳn phải là của Danglard. Đó là loại người gặm nhấm tất cả những cây bút chì tồn tại trên trái đất này. Adamsberg quay cây bút trên đầu ngón tay, mơ màng quan sát những vết răng viên trợ lý để lại.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.