Phía đông vườn địa đàng
Chương 1
Thung lũng Salinas ở về phía bắc tiểu bang California là một dải đất dài và hẹp nằm giữa hai dãy núi và con sông Salinas ngoằn ngoèo uốn khúc ở chính giữa cho đến khi đổ thẳng ra vịnh Monterey.
Tôi còn nhớ tên các loài kì hoa dị thảo buổi ấu thời. Tôi cũng còn nhớ rõ những hang hóc nào lũ cóc nhái thường trú ẩn, vào mùa hạ chim chóc thức dậy vào giờ nào – cả mùi hương riêng của từng thứ cây trong từng mùa – những người dân trông ra sao, đi đứng cách nào và có mùi gì. Ký ức về các mùi hương thật phong phú.
Tôi nhớ rõ hình ảnh dãy núi Gabilan nằm về phía đông của thung lũng là một dãy núi tươi sáng, luôn luôn chan hòa ánh mặt trời thật đáng yêu và đầy vẻ mời gọi đến nỗi chúng ta chỉ muốn leo ngay lên các ngọn đồi ấm áp dưới chân nó như đứa con bé muốn leo ngồi vào lòng người mẹ yêu dấu. Chúng đầy vẻ quyến rũ đối với dãy núi chỉ có toàn cỏ nâu. Rặng Santa Lucias đứng sừng sửng nổi bật trên nền trời phía tây, ngăn cách thung lũng với biển cả. Dãy núi này tối tăm âm u, lạnh lùng và đầy vẻ đe dọa.
Từ hai bên sườn thung lũng, những dòng suối nhỏ từ các sườn đồi chảy xuống đổ vào lòng sông Salinas. Vào mùa đông những năm ướt át, các con suối hoạt động hăng hái, đổ nước xuống dòng sông thật nhiều đến nỗi, đôi khi làm cho con sông phẫn nộ sôi sục, nước tràn lên hai bờ, phá vỡ những đường đê của các vùng đất trồng trọt cuốn trôi mất nhiều mẫu đất. Rồi khi mùa xuân chậm trễ đến, con sông rút xuống mức cũ và bãi cát ven bờ lai hiện ra. Đến mùa hạ, dòng sông cạn xợt, chỉ còn một ít nước bày cả đáy sông. Sông Salinas chỉ là một con sông có nước theo từng mùa.
Trải nhiều dặm bao la của thung lũng, lớp đất trên cùng rất màu mỡ, những thứ hoa xuân vào những năm ướt át thì phong phú vô kể. Khắp thung lũng, kể cả những ngọn đồi thấp dưới chân núi hoa lapine và hoa anh túc nở đầy như thảm hoa. Khi các loại hoa này tàn rụng hết mùa, thì loại hoa cải hoang màu vàng tươi mọc lên, thật cao. Lúc ông tôi ghé đến thung lũng, thì loại cải hoang này đã lên cao đến nỗi một người ngồi trên ngựa cũng chỉ cao hơn những đóa hoa vàng tươi được cái đầu thôi.
Vào tháng sáu, các loại cỏ rũ xuống và ngã màu vàng úa. Gió lùa qua thung lũng, thổi tốc cát bụi và rơm rạ lên mỗi lúc một dữ dội và cuồng bạo hơn trên đường xuống phương Nam. Đó là một thứ gió chướng thật khó chịu, bắn những hạt cát nhỏ làm nhức cả da thịt và rát cả mắt. Những người làm việc ngoài đồng ruộng phải mang kiếng che kín quanh mắt và buộc khăn tay quanh mũi để ngăn bụi.
Đất đai trong thung lũng thì trũng và màu mỡ, nhưng các ngọn đồi thấp dưới chân hai dãy núi chỉ có một lớp đất mỏng trên mặt không sâu hơn lớp rễ cỏ.
Càng lên các ngọn đồi cao hơn, lớp đất càng mỏng dần, rải rác những viên đá lửa bám sâu cho đến một độ nào đó, chỉ toàn một loại đá sỏi khô cứng phản ảnh ánh mạt trời chói chang hơi nóng.
Lịch sử của thung lũng Salinas cũng giống như lịch sử tất cả những vùng khác của cả tiểu bang.
Đầu tiên là dân da đỏ, thuộc giống thấp kém, chỉ sống bằng loại côn trùng, châu chấu và sò hến tôm cua dễ bắt chứ họ rất lười biếng không đánh cá để ăn. Rồi người Tây Ban Nha đến. Ho là bọn người thực tế và nhiều tham vọng. Họ thèm khát vàng và truyền bá đạo Thiên Chúa.
Họ vừa sưu tập các linh hồn vừa sưu tập vàng bạc. Những địa danh đầu tiên trong thung lũng là các tên thánh hoặc tên các ngày lễ tôn giáo.
Sau đó là người Hoa Kỳ kéo đến. Họ càng ham hố hơn vì họ đông. Họ chiếm đất đai, sửa lại luật lệ để hợp lý hóa việc chiếm đoạt của ho. Các nông trại mọc lên khắp nơi, lúc đầu chỉ ở trong các thung lũng, sau đến các sườn đồi thấp. Những ngôi nhà bằng gỗ nhỏ nhắn, có rào quanh một khoảnh bằng những trụ cây cách quãng làm nơi nuôi súc vật, loại phong lữ thảo và loại hường được trồng ở sân trước. Những cánh đồng trồng bắp, lúa mạch và lúa mì viền quanh bằng loại cải vàng. Dọc theo đường chính, cứ cách khoảng mười dặm, có một hiệu tạp hóa lớn và một lò rèn. Đó là trung tâm điểm cho các thị trấn nhỏ như Bradley, King City, Greenfield.
Gió thường thổi lồng lộng qua các khu cư trú đó về buổi chiều. Các chủ nông trại đã phải lo trồng những cây khuynh diệp dài hàng dặm để ngăn lớp đất trên cùng có thể trồng trọt được khỏi bị thổi tốc đi hết. Ông tôi đã đem vợ đến cư ngụ trên các ngọn đồi thấp ở về phía đông thành phố King City, giữa lúc thung lũng Salinas đang ở trong thời kì ấy.
Chàng trai trẻ Samuel Hamilton gốc gác ở miền bắc Ái Nhĩ Lan. Tại sao ông phải rời bỏ quê cha đất tổ thì tôi không được rõ. Theo lời đồn đãi trong gia đình tôi, thì ông ra đi vì một chuyện tình, không phải là chuyện tình giữa ông và bà vợ mà ông kết hôn.
Ông đã đến thung lũng Salinas với tất cả sự hăm hở và nghi lực. Ông là một người to lớn nhưng khéo léo, trong công việc đồng áng lắm láp, ông vẫn luôn luôn có vẻ tươm tất. Ông rất lanh trí, luôn luôn tìm tòi một đường lối mới để thực hiện một công việc cũ xưa một cách nhanh chóng và kết quả mỹ mãn hơn. Dù vây, suốt đời ông là kẻ không có tài làm giàu.
Ông đến thung lũng khoảng ba mươi năm trước khi đổi qua thế kỉ này, đem theo bà vợ người Ái Nhĩ Lan, một người đàn bà nhỏ nhắn, trầm lặng như một cái bóng. Bà có tinh thần khắc khổ của giáo phái Trưởng Lão. Chính tinh thần đó làm hỏng tất cả những gì đáng lẽ ra có ý nghĩa và đáng vui.
Tôi không biết ông Samuel đã gặp trong trường hợp nào và đã tán tĩnh bà ra sao để đi đến việc kết hôn với nhau! Ông thuộc mẫu đàn ông đa tình nhưng bà vợ thì ngược lại quá thầm kín. Tuy vậy trong suốt những năm ông sống lại thung lũng Salinas, không có tai tiếng gì về việc ông từng ve vãn một người đàn bà nào khác.
Khi ông Samuel và Liza đến thung lũng này, tất cả những vùng đồng bằng đều đã có người chiếm hết rồi. Chỉ còn những ngọn đồi thấp cằn cỗi ở về hướng đông mà ngày nay gọi là thị xã King City nên ông Samuel Hamilton đành chọn làm đất sống.
Ông vẫn áp dụng đường lối thông thường, nghĩa là chọn một khoảnh đất phần ông và một khoảnh phần bà vợ. Hai người sinh hạ được chín đứa con, bốn trai năm gái, mỗi đứa con được sinh ra lại chiếm thêm được một phần đất nhập vào nông trại. Vậy là tổng cộng được mười một phần đất, tính ra được một ngàn bảy trăm sáu chục mẫu.
Nếu số đất đai trên mà màu mỡ thì gia đình Hamilton đã có thể giàu có rồi. Nhưng nhiều mẫu lai khô cằn. Ngay cả trong những năm thời tiết tốt vẫn không có đủ số cỏ cho súc vật ăn, nên chúng hầu hết đều gầy guộc.
Ông Samuel tự tay cất lấy nhà, một vựa chứa thóc và một lò rèn. Bàn tay khéo léo của ông đã chế tạo được một cái máy đào giếng và thường đi đào giống thuê cho những trại chủ khá giả trong vùng. Ông còn sáng chế ra được một kiểu máy đập lúa và di chuyển ra giữa cánh đồng vào mùa gặt để đập lúa riêng của mình, nhưng không nhờ thế mà số lúa nhiều hơn được.
Trong lò rèn của mình, thì ông chuyên mài lưỡi cày và đóng móng ngựa. Người dân trong vùng thường mang các dụng cụ hư đến nhờ ông sửa hoặc cải biến lại cho tốt hơn. Ngoài ra họ còn thích đến để nghe ông kể chuyện. Ông có giọng nói khá trầm ấm và tài kể chuyện rất hấp dẫn đối với những nông dân vốn ít nói trong thung lũng. Không ngày nào mà không có ít ra ba hoặc bốn người đứng quanh lò rèn để nghe ông Samuel vừa đập búa vừa kể chuyện.
Với dụng cụ đào giếng, cũng như với máy đập lúa và cái lò rèn, ông Samuel đã có thể giàu có, nhưng tiếc thay ông lại không có khiếu làm giàu. Các khách hàng của ông lại rất keo kiệt, họ không chịu trả tiền ngay mà thường khất sẽ trả sau mùa gặt, rồi hẹn đến sau lễ giáng sinh, cuối cùng… họ quên luôn. Ông Samuel lại không có khiếu đòi nợ. Vì thế, gia đình Hamiltons vẫn nghèo túng như thường.
Con cái vẫn ra đời đều đặn theo với năm tháng, số bác sĩ ít ỏi quá bận rộn của quận hạt không đến các nông trại thường xuyên được, nên ông Samuel phải làm công việc đỡ đẻ mỗi khi vợ ông sinh con: Ông khá mát tay, nên nhiều láng giềng cách xa đến hai mươi dặm cũng tìm đến nhờ ông đi đỡ đẻ giùm.
Ông Samuel còn có tài trấn an người loạn trí và đem lại sự yên tâm cho một đứa bé đang la khóc vì sợ hãi.
Sỡ dĩ được vậy là nhờ ở lối nói dịu dàng và tâm hồn đầy nhân ái của ông.
Ông thuộc loại người có một tinh thần minh mẫn trong một thân thể tráng kiện. Các nông dân thường ưa tạt vào lò rèn của ông để tán gẫu dăm ba câu dù không có chuyện gì cần phải đến đó.
Liza Hamilton, vợ ông là một người đàn bà Ái Nhĩ Lan nhỏ nhắn và độc đáo. Bà nấu ăn rất khéo, chăm sóc nhà cửa ngăn nắp và sạch sẽ. Bà có một quan niệm khá khắt khe về vấn đề tội lỗi. Nhàn rỗi quá cũng là một tội. Bà rất e dè không thích đùa bỡn, khiêu vũ, hát xướng hoặc cười giỡn.
Bà quan niệm rằng những người ham vui thái quá, dễ đi vào con đường tội lỗi. Ông Samuel là một người hay cười đùa, như vậy nghĩa là ông rất dễ phạm tội nên bà vợ của ông bất cứ khi nào có cơ hội, thường nhắc nhở giùm cho chồng.
Bà luôn luôn chải tóc ra phía sao và buộc lại gọn gàng thành một búi to thật chặt. Tôi không nhớ rõ lắm về cách ăn bận và những y phục hợp với sở thích riêng của bà. Lũ cháu bà rất sợ bà vì tính nghiêm khắc của bà.
*
George, người con cả của bà khá đẹp trai, hiền lành và lịch thiệp, George là một thiếu niên thánh thiện, cho đến khi trưởng thành vẫn không thay đổi.
Sau George là Will, cậu con thứ hai, mập lùn và lạnh nhạt. Will kém óc tưởng tượng, nhưng từ nhỏ anh đã là một người làm việc cần mẫn.
Anh là một người bảo thủ, không những trong lãnh vực chính trị mà cả trong trong mọi vấn đề khác. Will thích sống một cách mẫu mực để không ai có thể tìm được ở anh một khuyết điểm đáng kể nào và anh muốn sống bình thường như bất cứ một người lương thiện nào. Có lẽ cha anh đã có ý định muốn sửa chữa tính ưa thụ động thái quá của anh. Hồi Will đang tuổi phát triển, cha anh không có dịp ở nhà nhiều để hướng dẫn anh. Ông là một người ngoại quốc, một người Ái Nhĩ Lan. Vào thời đó ở Hiệp chủng Quốc người Ái Nhĩ Lan không được ưa lắm. Ông Samuel chỉ là một người hay suy tư. Không ai có thể biết ông ta sẽ nghĩ gì nói gì hoặc làm gì. Về sau khi nhiều đứa con khác được sinh ra và lớn lên, ông Samuel mới ràng buộc hẳn vào thung lũng. Ông rất hãnh diện về điểm này. Trong khi đó, Will càng ngày càng trưởng thành.
Giữa lúc cha mình làm không ra tiền, Will cũng chẳng giúp cha được chút nào. Như một cậu bé, anh thích nuôi gà. Khi lứa gà mái của anh nuôi bắt đầu đẻ trứng, thì giá trứng bỗng tăng vọt. Anh chở trứng trên một chiếc xe đạp đem đến bán cho hiệu tạp hóa để trang trải các món nợ vặt.
Rồi vài người giàu có trong thung lũng bắt đầu mua xe hơi. Tiếng động xe hơi làm cha con Samuel bàng hoàng. Họ bị thúc đẩy bởi một thi sĩ thực tế mà giấc mơ toàn những thứ như đồng, sắt và cao su. Tên người đó là Henry Ford và các dự án của ông ta thật kì quái. Will miễn cưỡng nhận phân nửa phía nam của thung lũng như khu vực độc quyền của mình và trong vòng mười lăm năm Will đã trở nên một người giàu có.
Tom, người con trai thứ ba, giống cha hơn hết thảy các anh em khác. Anh rất chững chạc trong cuộc sống, luôn luôn vui tươi và niềm nở. Anh cũng có sáng kiến như ông bố, nhưng bạo dạn hơn.
Ngôi nhà của gia đình Hamiltons cũng lớn dần theo với số người gia tăng trong đó, ngôi nhà được vẽ kiểu một cách linh động, lúc nào trông cũng có vẻ như chưa hoàn tất để khi cần, những cái chái được làm thêm vào. Căn chính và nhà bếp chẳng bao lâu bị khuất hẳn giữa những cái chái mọc thêm này.
Trong khi đó, ông Samuel vẫn không giàu hơn chút nào. Thói quen ưa sáng chế cái này cái nọ càng làm ông thêm kiệt quệ. Dần dần từ năm này qua năm khác, số tiền kiếm được nhờ đập lúa và rèn đồ thuê cạn dần vào công việc sáng chế của ông. Lũ con ông phải đi chân đất, áo ấm của chúng thì rách nát. Đôi khi cả thức ăn cũng thiếu thốn vì tiền đã dành để mua các vật dụng cho việc sáng chế.
Trong gia đình ông, một phe thì cho rằng làm như vậy là tốt, phe thì không thực tế. Ông Samuel và hai cậu con Tom và Joe thì cho là phải, còn George và Will thì cho là nhảm. Joseph là người con trai thứ tư. Anh này thuộc loại lêu lổng, vì được cả gia đình cưng chiều. Anh ta sớm thấy được rằng chỉ cần đáp lại lời sai bảo bằng một cái cười lười nhác là xong chuyện, khỏi cần mó tay vào việc gì cả. Anh lông bông hết ngày tháng chẳng cần lo lắng gì cả, vì má anh thương anh hơn tất cả những người con khác. Bà nghĩ rằng anh tội nghiệp và không có khiếu làm việc.
Gia đình Hamiltons quyết định rằng Joe cần có một trình độ học vấn cao hơn, để sau này có thể sinh sống được. Anh không bệnh tật hay yếu đuối, nhưng anh không tỏ vẻ lanh lợi hoạt động chút nào. Anh cỡi ngựa rất tồi rồi cuối cùng không thèm cởi nữa. Cả gia đình đều cười anh một cách thương hại khi thấy anh định tập cày ruộng. Đường cày thứ nhất của anh ngoằn ngoèo như một con suối cạn. Đường cày thứ hai đụng phải đường thứ nhất rồi chạy trật qua bên kia.
Khi thấy Joe thất bại trong mọi công việc, cha anh thất vọng sai anh chăn thử sáu mươi con cừu. Đây là công việc tương đối dễ hơn hết. Anh chỉ cần trông chừng bầy cừu. Nhưng anh cũng để lạc bầy cừu lúc nào không hay. Lạc cả sáu mươi con và không thể tìm ra được chúng ở đâu.
Mãi sau, người ta mới tìm thấy chúng lọt hết dưới một cái khe. Theo lời những người trong gia đình kể lại thì sau việc đó, ông Samuel đã cho gọi cả gia đình lại, cả con gái lẫn con trai, bắt những người này hứa sẽ săn sóc giúp đỡ Joe sau khi ông qua đời, vì nếu không có ai giúp chắc chắn Joe sẽ chết đói chứ không thể làm gì để sống được.
Xen lẫn giữa những người con trai đó, ông Hamilton có năm người con gái: Una là con gái lớn nhất, chín chắn, siêng năng, biết suy nghĩ. Kế đó là Lizie, tôi không được biết nhiều về dì này. Dì kết hôn sớm và theo chồng đi xa, chỉ về lại vào những dịp tang chế. Tiếp đến là Dessie. Dì này có lối cười rất giòn, nên ai cũng muốn gần để nghe dì cười.
Tiếp theo đó là Olive, mẹ tôi. Và cuối cùng là Mollie, khá xinh đẹp với mái tóc vàng và cặp mắt màu tím nhạt.
Đó là những người trong gia đình Hamiltons. Thật là một phép lạ đối với người đàn bà nhỏ nhắn gầy yếu như Liza mà có thể đẻ đều đều chừng ấy người con và nuôi nấng chúng, lo cho chúng ăn, lo cho chúng áo quần cũng như dạy dỗ chúng một cách cẩn thận bằng những lời lẽ cứng rắn.
Nhất là việc giáo huấn con cái của Liza thật đáng ngạc nhiên. Bà ít giao thiệp và gần như không có một chút kinh nghiệm nào ngoài đời. Tất cả kiến thức của bà chỉ nằm trong quyển thánh kinh. Trong quyển sách duy nhất đó bà tìm hiểu lịch sử, thi ca, sự hiểu biết về người và vật, luân lý và sự cứu rỗi cho riêng bà. Bà không hề học hỏi, tra cứu thánh kinh. Bà chỉ đọc thôi, nhiều chỗ có vẻ khúc mắc, nhưng đối với bà chẳng có gì đáng gọi là khó hiểu cả. Cuối cùng bà tạm bằng lòng với những gì bà hiểu rồi bà đọc lên mà không cần thắc mắc gì nữa.
Các con của Samuel và Liza Hamilton đều khôn lớn trước khi bước qua thế kỉ này. Đó là một gia đình tương đối đàng hoàng, vững vàng, và khá thành công trong thung lũng Salinas.
Tuy không giàu bằng những người giàu, nhưng cũng không nghèo lắm so với nhiều người khác. Ông Samuel rất hài lòng về những thành quả mà ông gặt hái được.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.