Phía đông vườn địa đàng

Chương 3



Hầu như mọi người trên cõi đời này đều có những khát vọng, những hứng khởi, những ích kỉ, những đam mê riêng giấu kín dưới một bề mặt có vẻ bình thản. Phần lớn thường tìm cách che giấu kĩ không dám để lộ ra ngoài. Hồi mới lớn, Cathy đã thấy trong người có những rạo rực lạ lùng và đã bắt đầu buông thả một cách thầm lén. Nàng thường thơ thẩn một mình rất lâu qua những khu rừng vắng. Đôi khi một vài cậu con trai rình sẵn, giả bộ tình cờ ôm chầm lấy người nàng.

Nàng không có những phản ứng quyết liệt gì lắm. Trong thái độ của nàng có một vẻ gì đặc biệt làm cho anh con trai kia thấy như ngầm chứa một sự đồng lõa.

Trong đầu óc của cha nàng luôn luôn thoáng một nỗi lo ngại. Cathy có tất cả những ưu điểm để gặt hái thành công. Nàng có nhan sắc, có tiền bạc, có một cái thánh giá bằng bạc nhận những viên đá quý màu đỏ mà người ta gọi là hồng ngọc.

Có lần ông đăng trên tuần báo Courier về chiếc thánh giá, nhưng không có ai đến nhận cả.

William Ames là một người biết tự trọng. Ông luôn luôn tự tra vấn chính mình xem có làm điều gì bất chính không. Mẹ của Cathy cũng không khỏi thắc mắc ít nhiều về những chuyện dối trá của con gái, nhưng bà không đặt thành vấn đề quan trọng gì lắm.

Cathy học hết lớp tám với một thành tích hiểu rất khá, nên cha mẹ nàng đã cho nàng vào một trường trung học địa phương, dù vào thời đó con gái rất hiếm khi được cho học cao. Họ hi vọng nàng sẽ trở thành một cô giáo, đó là một nghề danh giá rộng mở cho các cô gái con những gia đình nề nếp nhưng không giàu có lắm.

Vị giáo sư tiếng La Tinh ở trường trung học là một thanh niên nghiêm khắc, xanh xao, đã từng thất bại ở trường Thần học nhưng có thừa kiến thức để dạy học. Tính chàng khá trầm lặng. Trong thâm tâm chàng có mặc cảm Chúa đã khước từ mình.

Đôi lúc người ta thấy trong con người ôn giáo trẻ James Crew này như một ngọn lửa bừng lên người trong ánh mắt. Nhưng giữa chàng và Cathy không có sự giao thiệp nào có thể nghi ngờ được.

James Crew đã trải qua thời kì khủng hoảng khi trở thành đàn ông. Chàng đi lang thang, hát nghêu ngao một mình. Chàng viết những bức thư thật nồng nàn đến nỗi các vị Giám đốc trường Thần học của chàng phải lưu ý.

Rồi ngọn lửa đó tắt lịm dần. Hai vai chàng xệ xuống. Cặp mắt buồn bã. Hai bàn tay chàng nắm chặt lại. Giữa đêm người ta thấy chàng quỳ gối trong giáo đường, miệng lâm râm cầu nguyện.

Một đêm kia, đã khuya, chàng gõ cửa nhà gia đình Ames. Ông Ames vừa bước ra khỏi giường để đốt đèn sáp lên vừa càu nhàu trước khi mở cửa xem khách nào lại đến vào giờ này làm gì. Trước mặt ông ta là anh chàng James Crew trông bơ phờ như kẻ mất hồn.

– Tôi đến thăm ông. – Chàng khàn khàn giọng nói với ông Ames.

– Khuya quá rồi mà. – Ông Ames xẵng giọng trả lời.

– Tôi muốn gặp riêng ông một lát vì có chút chuyện cần thưa với ông.

– Tôi chắc cậu say rượu hay mắc bệnh gì rồi. Về nhà ngủ đi. Bây giờ đã khuya lắm rồi. Có chuyện gì sáng mai đến xưởng thuộc da của tôi, cậu hãy nói cũng không muộn.

Ông Ames đóng mạnh cửa lại cương quyết không tiếp chuyện ông khách lạ đời. Ông nghe léo xéo tiếng khẩn nài tuyệt vọng của chàng trai. “Tôi không thể đợi đến sáng mai được. Tôi không thể đợi được.” Rồi tiếng bước chân anh ta mệt mỏi kéo lê xuống bậc cấp.

Ông Ames trở vào giường để ngủ lại. Ông thoáng thấy cửa phòng Cathy đóng lại rất khẽ, nhưng ông nghĩ có lẽ ánh nến chập chờn đã làm ông lóa mắt chứ không hẳn đúng như vậy.

Sáng hôm sau, người giữ nhà thờ tìm thấy xác chết của James Crew nằm giữa sàn, trước mặt bàn thờ thánh. Bên cạnh chàng là một khẩu súng lục. Chàng không để lại một lá thư nào. Không ai hiểu tại sao chàng lại tìm một cái chết như vậy.

Sau khi nghe tin đó, ông Ames liền đi đến cơ quan hữu trách trách tiết lộ về vụ James Crew gọi cửa nhà mình hồi nửa đêm để giúp việc điều tra được dễ dàng phần nào. Nhưng sau đó nghĩ lại ông thấy chẳng ích gì hơn, vì những điều ông nói không mấy quan trọng.

Trong bữa ăn tối mẹ của Cathy bàn chuyện về vụ tự tử của ông giáo trẻ đó. Cathy hoàn toàn im lặng nhưng nàng ăn một cách lơ là từng miếng nhỏ và luôn tay chùi miệng bằng chiếc khăn.

Bà Ames hỏi con gái:

– Cathy, con thường gặp mặt ông ấy hằng ngày ở trường. Trong mấy hôm gần đây con thấy ông ấy có vẻ gì buồn rầu hay khác lạ lắm không?

Cathy cúi gằm xuống đĩa thức ăn rồi ngẩng mặt lên trả lời:

– Con tưởng thầy ấy bị ốm nên mới có vẻ bơ phờ như vậy. Ở trường cả ngày nay người ta cũng bàn tán về cái chết của thầy. Một người nào đó, con không nhớ là ai tiết lộ rằng thầy ấy có chuyện rắc rối ở Boston. Con không nghe rõ vụ rắc rối gì. Tất cả học sinh chúng con đều rất mến thầy ấy.

Nàng khẽ đưa khăn lên chùi miệng một cách duyên dáng.

Đó là cách thức đặc biệt của nàng. Hôm sau, cả thị trấn đều biết tin James Crew có chuyện rắc rối ở Boston và không ai có thể tượng được rằng chính Cahty đã dựng đứng ra chuyện đó. Ngay cả mẹ của nàng, cũng không nhớ đã nghe tin đó từ đâu.

Cathy là một học sinh khá xuất sắc, nhưng sau lần sinh nhật thứ mười sáu, đột nhiên nàng, có một thay đổi khó hiểu. Một buổi sáng nàng không chịu thức dậy để đi học. Mẹ nàng vào phòng riêng của nàng thì thấy nàng đang nằm im trên giường, mắt nhìn sững lên trần nhà.

– Dậy mau con, trễ quá rồi. Đã gần chín giờ mà còn nằm ỳ ra đó sao?

– Con không đi học nữa đâu, – giọng nàng thật điềm tĩnh, – từ nay con sẽ ở nhà luôn.

Bà Ames há hốc mồm kinh ngạc:

– Con nói sao?

– Con không bao giờ đến trường nữa. – Cathy vẫn nhìn sững lên trần nhà thản nhiên đáp.

– Con đang đọc quyển gì đó? Ồ! Con mà đọc quyển “Alice lạc vào tiên cảnh” này à? Con đâu còn là một đứa bé nữa.

Cathy trả lời mẹ:

– Con có thể thu hình lại thật bé đến độ má cũng không nhận ra con nổi đâu.

– Con có ý nghĩ kì cục đó để làm gì?

– Để không ai nhận ra con.

Mẹ nàng giận dữ gắt:

– Mày đừng có bày trò con nít nữa. Tao không biết mày đã điên chưa? Để tối này ba mày đi làm về, ông sẽ dần mày một trận cho mày biết thân.

Cathy từ từ quay mặt lại nhìn mẹ. Mắt nàng vẫn lạnh lùng dửng dưng vô cảm giác. Bà mẹ bỗng thấy lo ngại cho con gái mình. Bà lặng lẽ bước ra, đóng cửa phòng lại.

Cũng như hầu hết những bậc làm cha mẹ khác, bà cảm thấy mất bình tĩnh vì có cảm tưởng chiếc dây cương để kiềm giữ Cathy bấy lâu nay vừa tuột khỏi vòng tay mình. Bà không ngờ rằng bà đã mất hết uy lực đối với Cathy, hơn nữa bà lại còn bị nàng lung lạc hồi nào không hay.

Tối hôm ấy ông Ames dù không muốn chút nào cũng phải chịu khó ngồi thuyết cho cô con gái một hồi lâu.

Ông nhắc nhở về bổn phận của nàng và khích động lòng hiếu kính tối thiểu của một người con đối với cha mẹ. Nói say sưa một hồi, cuối cùng ông mới khám phá ra rằng Cathy chẳng thèm chú ý nghe ông nói chút nào. Ông đùng đùng nổi giận quát tháo ầm ĩ. Ông nhắc cho cô con gái hay rằng thượng đế đã trao cho ông là cha nàng cái quyền lớn lao đối với con cái và quyền này cũng được luật pháp quốc gia nhìn nhận, nàng không được coi thường. Đến đó lúc Cathy mới có vẻ chịu chú ý nghe. Nàng ngước mắt nhìn thẳng vào mặt cha. Miệng hơi mỉm cười, mắt mở thao láo không chớp. Cha nàng đâm khó chịu phải tránh tia mắt của nàng và càng giận dữ thêm. Ông đe sẽ đánh đòn nếu nàng không chịu vâng lời ông. Cuối cùng không có cách nào hơn, ông đã phải đáng đòn Cathy.

Nàng vội vã la khóc inh ỏi, làm cha nàng phải dừng tay vì sợ mình nặng tay với con và ngại gây náo động không hay ho gì, Cathy lăn lộn trên giường tê khóc, nhưng khi nhìn kĩ vào mắt nàng, ông không thấy chút nước mắt nào.

Ông xẵng giọng hỏi:

– Sao, mày có chịu đi học chưa?

– Dạ, con sẽ đi học lại. Ba tha thứ cho con. – Cathy vừa trả lời với cha vừa quay mặt qua phía khác để ông không thấy được mặt mình.

Ông Ames nghiêm trọng kết thúc câu chuyện:

– Mày nên nhớ rằng tao là cha mày. Đừng có lộn xộn.

Cathy nấc khan lên một tiếng:

– Dạ, con không dám quên đâu.

*

Dường như sự trừng phạt đó có hiệu quả tốt đối với Cathy. Trong những tuần lễ sau đó nàng đã đi học lại đều đặn. Nàng cũng chịu giúp đỡ mẹ nhiều hơn trước.

Ông Ames nói với vợ:

– Tôi chưa thấy ai có thể thay đổi hẳn tính tình được như con Cathy. Thật là một chuyện lạ.

Bà vợ ông cũng sung sướng phụ họa thêm:

– Nó dễ thương quá phải không mình? Em thấy nó đẹp hẳn lên và rất đáng yêu.

Thật vậy, Cathy trông rạng rỡ hẳn lên, một nụ cười trẻ thơ luôn nở trên môi nàng suốt trong những lúc nàng làm lụng. Nàng dọn dẹp lau chùi đến cả hầm rượu và sắp xếp mọi thứ thật ngăn nắp. Khi nhà bếp đã xong việc, nàng lấy dầu chùi những bản lề và ổ khóa nào sét và rít, nàng còn chùi những bản lề ngoài cửa trước.

Nàng lãnh trách nhiệm chế dầu đầy đủ vào các cây đèn và thông các ống khói thật sạch. Nàng chế ra một cách thông ống rất hay, dùng cái lon đựng dầu lớn tìm được dưới nhà hầm thọc vào để cào sạch khói dơ.

Cathy cũng tự vá hết quần áo sắp xếp thứ tự.

Một hôm trong tháng năm, khi nàng vừa đi học về, mẹ nàng cũng bận đồ cẩn thận, bà bảo nàng:

– Mẹ có việc đi đến Altar Guild để bàn chuyện bán bánh vào tuần tới. Cha con muốn nhờ con đến ngân hàng lãnh số tiền mà ông đã gửi ở đó đem đến xưởng thuộc da ngay cho ông có việc cần.

– Con rất vui được giúp ba việc đó. Cathy vui vẻ nói:

– Họ đã để sẵn số tiền trong một cái bao, con chỉ việc đến lấy thôi. Bà Athes nói xong câu đó tất tả đi ngay.

Cathy làm việc thật nhanh, nhưng không vội vã gì. Nàng choàng tấm vải làm bếp lên thân trước để khỏi dơ áo, rồi ra chuồng gà sau nhà bếp bắt một con gà mái tơ đặt lên một tấm thớt, chặt phăng đầu, hứng nửa tô huyết. Xong nàng đem xác con gà chôn dưới một đống phân. Trở vào bếp, nàng cởi tấm vải choàng bỏ vào bếp lò thiêu hủy luôn. Nàng rửa tay sạch sẽ liếc sơ mắt mình trong gương. Hai gò má ửng hồng, đôi mắt sáng long lanh, miệng hơi mỉm một nụ cười ngây thơ duyên dáng. Trước khi ra khỏi nhà, nàng đặt tô huyết gà ở bậc cấp cuối của nhà bếp. Lúc đó mẹ nàng mới rời khỏi nhà chưa đầy mười phút.

Cathy thật nhẹ nhàng, gần như khiêu vũ quanh nhà rồi đi thằng về phía trung tâm thị trấn, ở đó có nhà ngân hàng mà nàng cần ghé vào. Nàng tươi mát và xinh như mộng, đến nỗi nàng đi ngang tới đâu người ta đều ngoái cổ nhìn theo.

*

Lửa phát cháy vào khoảng ba giờ khuya. Ngọn lửa bốc cao, lan nhanh, gào thét, lồng lộn tàn phá dữ dội trước khi có người phát giác kịp. Cả gia quyến họ Ames kẹt trong ngọn lửa, nhưng người ta chỉ tìm thấy hai thi thể của ông và bà Ames, những người láng giềng gần gũi với gia đình xác định vị trí căn phòng mà Cathy ngủ nhưng chẳng tìm thấy một cái răng hay một khúc xương nào của nàng còn lại.

Viên chỉ huy trưởng sở cứu hỏa tìm được hai cái tay nắm và ổ khóa cửa nhà bếp. Ông nhìn kĩ miếng kim loại cháy đen, co rúm, rồi ông đi tới chỗ cửa trước tìm được cái ổ khóa ở đây cũng cong queo, nóng chảy hết phân nửa. Viên chức chuyên khám nghiệm từ khi sau khi tìm tòi quan sát, đến nói chuyện với ông kia.

– Ông George, ông có thấy gì lạ không?

Viên chỉ huy sở cứu hỏa khó chịu nói:

– Trong các ổ khóa không có chìa.

– Có lẽ chúng tan chảy hết.

– Các ổ khóa đâu có tan chảy?

– Có lẽ Bill Ames đã rút ra trước rồi.

– Từ bên trong à? – Ông ta giơ mấy ổ khóa móp méo lên. – Cả hai cái lưỡi khóa đều đã thụt vào trong.

Rõ ràng tấm thảm kịch không phải là tai nạn. Đám đông bu quanh nhà họ Ames bắt đầu bủa rộng ra.

Một lát sau, họ tìm thấy trong nhà để xe “những dấu hiệu của cuộc kháng cự”, một cái hộp bị vỡ, một cây đèn bị đập nát vụn, tung tóe trên mặt đất, một vũng máu trên sàn. Viên cảnh sát trưởng đích thân điều tra. Ông lục lọi kĩ khắp căn phòng, lượm ở góc này một vật, ở góc kia một nhóm khác. Ông ta đem những vật vừa khám phá được trong tay ra cửa lớn kiểm soát kĩ: một cái băng buộc tóc màu xanh dính máu và một cây thánh giá nhỏ bằng hồng ngọc.

– Ai đã thấy những cái này chưa? – Ông ta hỏi.

Cả vùng đất mấy dặm quanh đó đều được tìm tòi kĩ xem có dấu đất mới bị cào xới không, cả những ao nước cũng được mò kĩ để kiếm xác của Cathy.

Nhưng chẳng tìm thấy gì cả. “Cô ấy đẹp quá, tội nghiệp thật.” Mọi người đều có vẻ thương tiếc nàng. Khi nói câu ấy, họ đã thầm nghĩ rằng có lẽ đó là lý do khiến nàng bị bắt cóc đem đi. Đối với một thị trấn nhỏ như ở đây, thường thường những chuyện quấy đều bị nghi cho một người lạ mắt, một tên du thủ du thực hắc ám nào đó từ xa lẻn vào, không ai chịu tin rằng một người quen biết trong thị trấn lại có thể nhúng tay vào một vụ giết người.

Cathy để lại đằng sau nàng một hình ảnh đẹp và nỗi xót thương trong lòng mọi người.

*

Ở mãi tận thành phố Boston, một ông Edwards nào đó, luôn luôn tổ chức công việc làm ăn của mình một cách thứ tự và tàn nhẫn. Thỉnh thoảng người ta xầm xì rằng nhiều thiếu nữ bị bộ hạ của ông Edwards bắt cóc hoặc dụ dỗ làm những tên nô lệ trong kĩ nghệ của ông ta.

Hầu hết những chuyện đó đều có thật. Nhưng đại đa số những cô gái bước vào nghề đó vì lười biếng hoặc ngu dại. Ông ta chẳng bao giờ bận tâm đến việc tuyển mộ hay kiểm soát họ làm gì.

Tôi không biết Cathy đã nghe người ta nói thế nào về ông Edwards, nhưng thực ra khi một cô gái muốn biết rõ một việc như vậy không có gì là khó.

Khi Cathy đến văn phòng ông Edwards, ông này không thâu nhận nàng ngay đâu. Ông đã thấy ngay rằng. Cô gái khai tên Catherine Amesbury không thuộc loại gái tầm thường như dưới tay ông hiện nay. Cô ta quá đẹp, quá mảnh mai, và rất khả ái. Dù trong khi hỏi nàng những câu hỏi thông thường về bà con thân nhân, ông không nhìn nàng gần lắm, nhưng ông đã cảm thấy ở nàng có một vẻ gì khác lạ. Chính ông cũng tự ngạc nhiên về mình, ông nhìn lên mặt thiếu nữ với vẻ soi mói. Hai hàng lông mi nàng cong xuống một cách dịu dàng, bí mật. Môi nàng nở một nụ cười ranh mãnh. Ông Edwards chồm người tới trước để nhìn thật thật tường tận, ông thấy rằng ông muốn chiếm cô gái này cho riêng mình.

– Tôi không hiểu tại sao một thiếu nữ xinh cô mà lại…

Ông ngập ngừng bỏ lững câu nói và tự nhiên thấy mình tin chắc rằng cô gái mà ông yêu thích này, là một con người bằng xương bằng thịt và thuộc hạng gái nhà lành.

– Cha tôi đã qua đời, – Catherine thỏ thẻ nói, – trước khi chết, ông ấy đã thế nông trại để vay tiền. Tôi không muốn nhà ngân hàng tịch thâu nông trại cha mẹ tôi. Trước biến cố đó, mẹ tôi quá xúc động nên cũng chết luôn.

Cặp mắt Catherine nhòa lệ. – Tôi chỉ muốn tìm cách giữ lại tài sản của cha tôi.

Trong đầu ông Edwards bắt đầu lùng bùng những tiếng vo ve, nhưng không đến nỗi quá lớn. Tám mươi phần trăm những cô gái đến với ông ta đều bảo cần tiền để trang trải những món nợ cần kíp. Ông xem lối nói đó như một quy tắc bất di dịch của các cô ấy, nên không bao giờ tin cả. Tuy vậy ông Edwards cũng nói:

– Được rồi cưng. Để chúng ta bàn kĩ xem. Có thể chúng ta sẽ có cách để cho cô có tiền chuộc lại tài sản.

Ông Edwards không ngờ mình đã si mê Catherine Amesbury một cách đau khổ và tuyệt vọng đến thế. Tình yêu thường đòi hỏi sự tin cậy, nhưng ông ta lại không hề tin cậy Cathy chút nào. Ông bị những thắc mắc nghi ngờ vò nát tâm can. Ông không biết rõ nàng có thật chung thủy với mình không? Nàng thường lộ vẻ bồn chồn như người sẵn sàng bỏ đi bất cứ lúc nào. Mỗi khi ông ta đến thăm nàng, nàng thường than phiền rất nhiều về những bực bội khi bọn đàn ông bám riết ngoài đường mà nàng không biết làm cách nào tránh được. Nàng luôn luôn làm cho ông ta mất bình tĩnh, để nhìn một cách khoái trá cảnh ông bực tức đến nỗi hai bàn tay run lẩy bẩy. Khi thấy ông ta ghen tức đến cực độ, nàng mới trấn an ông ta và làm cho ông ta tạm tin rằng nàng trong trắng.

Khi đã chiếm được lòng si mê của ông Edwards, chẳng bao lâu, Cathy bắt đầu khai thác kĩ những gì mà cô ta muốn. Nàng bắt đầu bòn rút tiền bạc. Nàng đòi những quà tặng bằng nữ trang đắt giá. Nhưng rồi một đêm, chiếc chìa khóa của ông Edwards không tra lọt vào lỗ khóa của chính ngôi nhà mà ông ta đã mua tặng nàng. Sau khi để cho ông ta đập cửa một hồi lâu, nàng mới chịu mở cửa. Nàng đã thay ổ khóa, đáng lẽ trao cho ông chìa khóa mới, nhưng nàng lại không. Sau đó thường phải một thời gian lâu nàng mới mở cửa. Đôi khi chẳng thấy có tiếng trả lời ông Edwards đành chịu không làm sao biết được có nàng trong đó không.

Ông Edwards rất muốn hết lòng tin yêu Cathy, nhưng kinh nghiệm về đàn bà của ông, bắt ông không thể tin được. Quá tò mò, ông quyết tìm hiểu cho ra sự thật về tung tích nàng. Ông mướn một thám tử tư để điều tra giùm.

Một hôm người ta gửi đến tận văn phòng làm việc của ông ta một mẩu báo cũ, cắt từ một tuần báo của một thị trấn nhỏ trong tiểu bang Massasgusetts, viết về một vụ hỏa hoạn ở đó. Sau khi đọc xong mẩu báo, ông lạnh toát cả người, ruột gan phèo phổi như tan biến đi đâu hết. Nỗi khiếp hãi lẫn tuyệt vọng làm ông choáng váng cả người.

Ngay chiều hôm đó, ông nặng nề lê bước đến ngôi vườn nhỏ trước nhà của Cathy, bấm chuông.

Lần này Catherine mở cửa ngay. Nàng nhìn ông ta với vẻ dò xét. Nàng nghi chắc có chuyện gì đổi thay.

– Có chuyện gì lạ không anh?

– Chúng ta đi du lịch một chuyến chơi, em thích không?

– Đi đâu anh? Tôi không thể đi được.

– Đến một thị trấn nhỏ ở Connecticut. Tôi có chút việc ở đó.

Ông ta mỉm cười một cách dễ sợ đến nỗi nàng hoảng hồn bước lùi về phía sau…

– Có lẽ em nên về thăm tỉnh nhà một chuyến. Cách đây mấy năm có một trận hỏa hoạn khủng khiếp ở đó. Em còn nhớ chứ?

Nàng tròn xoe mắt soi mói kĩ xem ông ta có ngụ ý gì không, nhưng cặp mắt ông ta vẫn bình thản.

– Anh muốn tôi đến đó làm gì? – Nàng dịu dàng hỏi.

– Chỉ đi theo anh một chuyến thôi.

Ông Edwards đã dự định trước những gì ông sẽ hành động. Khi đưa Cathy ngang thị trấn nhỏ ở Connecticut ra một con đường nhỏ ở ngoại ô. Ông đã đánh nàng một trận nhừ tử và tin rằng nàng sẽ không dám đi thưa Cảnh sát. Nhưng sau một hồi đấm đá, ông vẫn thấy chưa hả. Cơn tức mỗi lúc một dâng lên như song triều, ông tìm được một cục đá gần đó.

Sau đó, nhìn xuống bộ mặt bầm tím của nàng, ông ta thấy thương hại bỏ đi. Chẳng ai hỏi han gì đến mình cả, ông ta tiếp tục làm việc bình thường và từ đó không dám dại gái nữa.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.