Thiên Thần Bay Qua Mộ Con

CHƯƠNG 4



Thế nào? Có chuyện gì không mẹ? – Jamal hỏi, ngay khi tôi trở về từ căn hộ của Terrence và bước chân vào cửa. Tôi chưa bao giờ giấu được nó điều gì và nó cảm nhận rất rõ ràng là có chuyện.
– Không có gì đâu. – Tôi nói, không nhìn vào mắt nó và đưa cho con trai tôi bộ complê vừa lấy về từ hiệu giặt.
– Mẹ đã tìm ra cái gì đó, đúng không?
– Thay đồ đi! – Tôi ra lệnh và đuổi nó đi bằng ánh mắt mà chắc chắn là Jamal không dám chống lại. Cái chết của Terrence không dễ giải thích như tôi đã tưởng vào buổi sáng chủ nhật, nhưng hiện tôi vẫn chưa muốn cho Jamal biết chuyện đó. Nếu nỗi nghi ngờ của tôi là đúng thì sớm muộn gì nó cũng sẽ biết thôi. Trước mắt tôi còn cần phải kiểm tra một vài yếu tố khác. Con trai tôi nhăn mặt, cầm bộ complê lên rồi rút lui về phòng.
Tôi thay quần áo thật nhanh, mặc một bộ váy áo bằng vải len màu nâu, bộ váy áo mà tôi đã mua trong đợt hạ giá mùa hè năm trước, thêm vào đó đôi hoa tai bằng vàng mà anh Johnny đã tặng trong buổi lễ kết thúc trường phổ thông. Tôi luôn đeo nó như đeo bùa hộ mệnh và buổi tối hôm nay tôi rút nó ra hầu như không suy nghĩ. Một chút xíu nước hoa Chloe, hy vọng thích hợp cho nghi lễ, rồi tôi đi ra ngoài.
– Trông đẹp đấy, con trai. – Tôi nói với Jamal khi nó bước từ phòng ra. Một bộ complê có thể thay đổi một cậu thiếu niên tới lạ kỳ. Con trai tôi có đôi mắt nâu của tôi và hàng mi rất đẹp của bà ngoại nó, hàng mi mà nó căm hận vì quá dài quá rợp. Đôi mắt đó bây giờ đang u tối.
– Mẹ… Mẹ đã tìm ra cái gì đó…?
– Không nghe mẹ nói là mẹ không tìm ra cái gì cả sao? – Tôi sừng sộ trả lời.
Jamal là người gan lỳ, giống y như mẹ nó. Nhưng người ta đúng là có thể nổi điên lên khi gặp lại chính nét tính cách mà ta tôn trọng nhất ở bản thân, trong đứa con mình. Con trai tôi dài mặt ra, tôi áy náy lương tâm một thoáng, thế rồi tôi suy nghĩ lại và thấy đó là quyền của một bà mẹ.
– Nghe này, – Tôi nói khi hai chúng tôi đi ra ngoài. – mẹ con mình không còn thời gian để ăn trước đám ma. Khi quay trở về ta có muốn ghé qua Red Lobster và…
Jamal nhìn thẳng vào mặt tôi, mắt nó toé lửa.
– Mẹ đừng có tưởng mẹ mua nổi con với hai mươi con tôm trong quán Red Lobster. Con không còn là một thằng bé con nữa, mà ngoài ra mẹ con mình cũng không đủ tiền để ăn thứ đó. Con có quyền được biết mẹ đã tìm ra những gì. – Giờ tới lượt nó sừng sộ với tôi.
– Đừng có cãi lời mẹ. Con không có quyền được biết những gì mà mẹ không muốn cho con biết. Cứ thử mà tìm lời cãi lại câu đó xem!
Chúng tôi đi xuống nhà để xe và cả hai cũng im lặng cho tới khi gần ra tới đường.
– Con đã quá ngán cái cảnh bị mẹ coi như một đứa bé, – Jamal lại bắt đầu lên tiếng.
– Con vẫn còn là một đứa bé. – Tôi khẳng định một cách cưỡng bức.
– Terrence là anh trai con, – nó nói và nhìn ra ngoài cửa sổ, cứ như thể ngoài đó có cái gì đó đáng nhìn. – Mẹ muốn nói gì thì nói. Bọn con là máu mủ ruột rà và mẹ thì luôn luôn đề cao chuyện “tình ruột thịt”. Tại sao mẹ không hiểu chuyện này? Mẹ luôn kể cho con nghe mẹ đã khổ như thế nào khi bác Johnny qua đời. Tại sao con lại không khổ như thế khi Terrence chết?
– Con không biết bác Johnny là người như thế nào và con không biết bác ấy chết ra sao. Nếu con biết bác ấy thì con sẽ không hề so sánh như thế được. – Tôi nói. Thật ra tôi không muốn tàn nhẫn, thế nhưng nó vuột ra ngoài và tôi không lấy lại lời đã nói nữa, vậy là tôi hất đầu ra sau gáy, coi như đó là toàn bộ sự nghiêm trang của mình.
– Mẹ hoàn toàn không hiểu tâm trạng con bây giờ. Mẹ chẳng hiểu chuyện gì cả!
– Thế thì tại sao tôi lại ngồi đây và cãi nhau với một đứa bé 14 tuổi? – Tôi cân nhắc thành tiếng.
– Mẹ không nói cho con biết là mẹ không công bằng và thật ra mẹ cũng hiểu như thế. – Jamal nói với tôi, độ lượng kẻ cả như thể nó là bố tôi.
– Vậy tại sao con lại tin là con hiểu rõ những tình cảm của mẹ như thế?
– Bởi vì con hiểu mẹ. Mẹ biết không, con biết là mẹ biết một cái gì đó mà không muốn nói cho con nghe. Mà như thế là không tốt, không công bằng. Như thế là không công bằng!
– Cuộc đời không có công bằng. – Tôi đáp lại với niềm hy vọng có thể kết thúc câu chuyện. Tôi thoáng liếc con trai mình qua khoé mắt. Ở một điểm nào đó nó có lý: Tôi thật sự không biết tâm trạng của nó trước cái chết của Terrence. Và nó quả thật có quyền để biết chuyện. Tôi im lặng lái xe qua một vài con phố nữa, cuối cùng tôi kể cho nó nghe về nỗi nghi ngờ của mình.
– Căn phòng trông không đúng với những gì mà họ đã nói về cái chết của thằng bé. – Giọng tôi dịu dàng. – Con biết tất cả những đoạn phim truyền hình có tiêu đề “bộ não của bạn trông sẽ như thế này đây dưới tác dụng của thuốc phiện”, thế rồi sau đó người ta nhìn thấy một quả trứng rán đang cháy thâm lại trong chảo phải không? Điều đó đúng đấy. Thuốc phiện hủy hoại óc não. Mà người nghiện thuốc phiện chẳng bao giờ có tiền mà cất giấu. Họ chẳng bao giờ chỉ ăn một nửa khuôn bánh táo và cất một nửa còn lại cho bữa sau.
– Con đã biết là anh trai con không nghiện thuốc phiện! – Jamal quả quyết. – Ý mẹ nghĩ sao, có kẻ nào giết anh ấy? – Nó hỏi ngay sau đó.
– Mẹ không biết. Mẹ sẽ cố kiếm những bản báo cáo của cảnh sát, tìm xem tại sao họ lại kết luận đây là một cái chết vì thuốc phiện quá liều. Cánh điều tra dấu vết đã làm việc cẩu thả. Mọi triệu chứng đều cho thấy thằng bé đã không dùng thuốc phiện quá liều, người ta chỉ cần quan sát kỹ một chút thôi.
– Họ có thể tiến hành một vài xét nghiệm khác không?
– Quá muộn rồi.
– Mẹ ơi, kẻ nào muốn giết Terrence?
Cái đó tôi không nói cho con trai tôi nghe được, vì thế mà câu hỏi cứ trôi lững lờ trong không khí, không có câu trả lời, trong khi chúng tôi theo những bậc thang của cơ sở mai táng đi lên trên, đi lên chỗ để xác Terrence.
Cơ sở mai táng Morgan là một trong những doanh nghiệp xưa cũ ở Đại Lộ Trung Tâm miền Cam Đông, nằm giữa một cây xăng và một cửa hiệu tạp hóa đã từng có thời kỳ phát đạt hơn bây giờ. Tới đại sảnh, chúng tôi thấy hương hoa huệ phả vào mặt và ông già Morgan bước tới chào. Morgan luôn bày ra một vẻ mặt u sầu ủ dột, đẩy người đối diện ngay lập tức vào không khi buồn thương. Cách cư xử của ông ta buồn bã chậm chạp đến mức độ thiếu chút nữa thì thành nực cười. Một lần, đúng vào lúc tôi suýt chết vì nhàm chán khi tham gia buổi lễ an táng một bà cô cao tuổi của một người quen, tôi đã thử tưởng tượng hình ảnh Morgan trong những lúc bồi hồi, nồng nhiệt. Tôi không tưởng tượng nổi. Nhưng tôi mến và tôn trọng ông ta. Người ta có thế tuyệt đối tin tưởng vào người đàn ông này; khi cha mẹ tôi lần lượt qua đời trong vòng chỉ hai năm trời, Morgan đã làm lễ an táng cho cả hai. Tôi biết ông từ nhiều năm nay và chưa bao giờ nhìn thấy ông mỉm cười.
– Rất mừng được đón tiếp mẹ con chị ở đây, mặc dù lý do khiến chúng ta gặp nhau thật đáng buồn. – Ong trang trọng nói và dè dặt cầm lấy cánh tay tôi. Khi ông thả ra, mùi Old Spice trộn lẫn Formaldehyd thoảng vào mũi tôi. Cả anh Johnny cũng đã được Morgan chôn cất. Hồi ức đó còn hiện ra trước mắt tôi rõ ràng hơn là cái chết của cha mẹ và tôi phải gắng lắm mới để xua đuổi nó khi bước chân vào căn phòng tối lạnh.
Những khuôn cửa sổ lát kính màu cùng những dãy ghế dài bọc nhung xanh mang lại cho căn phòng chút vẻ nhà thờ. Morgan chỉ cho chúng tôi lên đằng trước, nơi DeWayne đang đứng và vẫy tay về phía Jamal.
– Con ra ngồi với cha con và các anh trai của con, – Tôi thì thào. – mẹ muốn đứng ở lại dưới này. Sau khi nghi lễ kết thúc mẹ sẽ chờ con ở ngoài kia. – Tôi đẩy nhẹ vào lưng nó, thế rồi con trai tôi bước đi, không ngoái lại nhìn, nó chững chạc bước về phía cha nó. DeWayne ôm lấy Jamal, chỉ vào chỗ bên cạnh Hakim và Jamal ngồi xuống. Khi DeWayne nhìn về phía tôi, tôi gật đầu với anh ta. Trông anh ta còn tệ hơn sáng chủ nhật vừa rồi. Morgan chỉ về hướng cuối phòng và tôi ngồi xuống hàng ghế cuối cùng, nơi tôi có thể bao quát rõ nhất toàn bộ những người có mặt lẫn những người mới vào.
Kẻ nào muốn giết Terrence? Dù linh cảm cho tôi biết Terrence không dùng thuốc phiện quá liều, nhưng mãi tới khi Jamal nói câu đó thành lời thì luồng suy nghĩ tôi đang đi tìm một kẻ sát nhân mới bắt đầu hiện hình rõ ràng hơn. Trong trường hợp này đã có hai chuyện chắc chắn. Thứ nhất, kẻ sát nhân có liên quan tới nạn nhân qua tình họ hàng hoặc tình yêu; và thứ hai, kẻ sát nhân đó sẽ lại xuất hiện trong khi đi bộ ngang qua ngôi nhà đó, trong khi lái xe ngang qua nghĩa trang hoặc đứng với bộ mặt buồn thương và mộ đạo trong lễ mai táng. Ai cũng có khả năng giết người nếu ở trong trạng thái đủ giận dữ, đủ ghen tuông hoặc đủ tham lam. Đó là sự thật cay đắng. Một số kẻ thực hiện điều đó một cách thông minh, một số lại ngu ngốc; thế nhưng ứng với mỗi dáng người ngồi sau chấn song sắt thì thế giới cũng có ít nhất một tay lưu manh đang tự do chạy đi chạy lại bên ngoài này, kẻ không cho ai nhìn vào quân bài thật của hắn và biết cách xoá đi mọi dấu vết.
Ngồi trong vẻ tĩnh lặng của viện mai táng Morgan, tôi cầu Trời trợ giúp, cầu xin Chúa có một con mắt chăm chút đến con trai tôi và kể cả những đứa con trai khác, những đứa tình cờ xuất hiện sai thời điểm và sai địa chỉ. Thế rồi tôi nhìn quanh. Bà mẹ Delores của Terrence ngồi bên cạnh DeWayne trên hàng ghế đầu tiên. Đôi vai bà ta rung rung; bà ta đang khóc. Bà ta là người vợ thứ nhất của DeWayne. Người đàn ông ấy đã cưới bà ta vào năm 1971, ngay sau khi anh ta lên miền Bắc này, rất nhiều năm trước khi anh ta cưới tôi. Mặc dù thỉnh thoảng có gặp gỡ Terrence, nhưng đã lâu lắm tôi không nhìn thấy Delores và những năm tháng đã qua tỏ ra chẳng mấy tiếc thương người đàn bà đó. Trước đây đã có thời bà ta xinh đẹp lắm. Một người đàn bà sáng da với mái tóc màu nâu đỏ và những vết tàn nhang trên khuôn mặt trái xoan. Buổi tối hôm nay bà ta mặc một chiếc áo dài màu đen bằng vải bông, cái áo hút hết mọi màu sắc ra khỏi mặt người mặc. Trước đây vài năm bà ta đã làm thu ngân trong một nhà băng và tôi có nghe kể, gần đây bà ta đã được thăng lên chức phó trưởng chi nhánh. Trước khi cưới tôi và trước khi cưới cô vợ hiện thời Carlota, DeWayne thường mê thích những chị em gái “đứng đắn”, những bà nội trợ tự tay nhào bột bánh Paste và không bao giờ yêu người tình theo kiểu Pháp. Delores hoàn toàn phù hợp với khuôn mẫu đó. Thế nhưng bất chấp vẻ ngoài đứng đắn, bà ta cũng có một nét gì đó tàn nhẫn, cái nét tàn nhẫn có thể đột ngột nhô ra với sự sắc nhọn của một lưỡi dao cạo và có thể băm nhỏ một người đàn ông hay là một chàng trai ra thành từng mảnh.
Bên cạnh Delores là Hakim, hai bàn tay đang chấp lại như một cậu bé trong đoàn thánh ca. Nó vẫn còn để tang bà mẹ Amina của nó. Cô ấy là người đàn bà duy nhất mà DeWayne nói thành tiếng là người thật sự yêu anh ta, có lẽ vì cô ấy là người dễ thương và chết trước khi bị anh ta chán. Khi Amina qua đời, Hakim vẫn còn rất bé và mặc dù được bà ngoại nuôi nấng, Hakim vẫn muốn tìm một bà mẹ thay thế trong mỗi một người đàn bà mà DeWayne mang về nhà. Trong một thời gian ngắn, người đó đã là tôi. Cũng có thể Delores đã có thời lo lắng cho nó. Cũng có lẽ bà ta có những tính tốt của mình, bất chấp những gì mà DeWayne đã kể.
Hakim ngước mắt lên từ đôi bàn tay chắp lại và nhìn xung quanh; khi thấy tôi, nó rụt rè mỉm cười. Nó hơn Jamal hai tuổi; nhưng gây ấn tượng trẻ hơn và mỏng manh hơn. Cả hai cùng có ánh mắt xuyên xoáy, ánh mắt bám chặt vào người khác và không buông tha cho đối tượng, cả hai cùng có cái mũi hơi khoằm khoằm và cùng có quai hàm cằm bạnh ra phía trước. Jamal cao hơn, phần di truyền từ cả phía DeWayne lẫn từ phía tôi, Hakim vẫn còn cái vẻ ngoài ngây thơ mà đa phần các cậu bé đã đánh mất ngay từ năm 10 tuổi.
Gerard, đứa con trai của DeWayne với cô vợ thứ hai Emma, ngồi phía bên kia của DeWayne. Là một chàng trai 20 tuổi với mái tóc màu đồng, nó gây ấn tượng Ả Rập hơn là người Châu Phi. Ngày trước nó là một đứa bé xinh đẹp, có mái tóc phẳng, một số người yêu thích nó và rất thích vuốt ve nó, nhưng bây giờ mặt nó buồn và dài ngoẵng ra. Đằng sau nó là bà mẹ Emma, một bàn tay dịu dàng đặt lên vai con trai. Như theo một mệnh lệnh, cả hai mẹ con đột ngột đứng lên và đi về phía trước, về phía quan tài đang để mở của Terrence. Tôi thấy mình cũng có thể bước lên như thế và nói lời chia tay với thằng bé, thế nhưng khi tôi vừa ngẩng lên, có cái gì đó chạm vào vai tôi và một giọng nói quen thuộc giữ tôi ở lại.
– Tại sao em không ngồi cùng hàng với những bà vợ của anh ta? – Basil Dupre hỏi bằng giọng Jamaica của anh, cái giọng phủ xuống từ ngữ một âm hưởng du dương, gợi tình.
– Anh cũng biết rõ là em không phải vợ của DeWayne. Anh làm cái gì ở đây? – Tôi ném cho anh ta một cái nhìn giận dữ qua khóe mắt. Nhưng tôi không giận thật và anh cũng biết như vậy. Tôi không tin anh thật lòng, mà đồng thời lại thấy anh hấp dẫn hơn tất cả những người đàn ông khác tôi từng gặp gỡ.
– Cho phép anh ngồi xuống chứ? – Basil lờ đi cả câu hỏi cũng như câu trả lời mà tôi định nói ra, ngồi xuống bên cạnh tôi và mỉm cười. Tôi không quen một người đàn ông nào có thể nhìn ngắm một người đàn bà như anh và kể cả trong khung cảnh trang nghiêm hiện thời, tôi vẫn cảm giác rõ là cơ thể mình đang phản ứng theo một kiểu cách mà tôi hoàn toàn không thích.
Basil Dupre có thể dùng ánh mắt trói chặt tôi lại như kiểu rắn thôi miên con mồi mà người ta thường kể. Làn da nâu sáng màu của anh óng lên như tỏa sáng từ bên trong, những chuyển động sang trọng của một con báo, một con báo mà ai cũng biết là vừa có thể dịu dàng vừa có thể ra đòn tàn nhẫn. Anh đã lớn lên trong cảnh nghèo khó tột cùng miền Kingston đất Jamaica và chưa bao giờ quên những bài học của sự nghèo khó. Trong ánh mắt anh có cái gì đó tàn nhẫn, một vẻ lạnh lùng xa cách không bao giờ biến đi ngay cả khi anh cười, khi anh nhăn trán hoặc khi anh ra vẻ ga–lăng.
– Thế bao giờ em mới thực thi lời hứa mà ta đã trao cho nhau? – Basil Dupre hỏi với một tiếng cười khẽ trong cổ họng và ánh sáng thấp thoáng trong con ngươi, cho tôi biết là anh hiểu tôi chưa hề quên một điều gì, mặc dù “lời hứa” đó chưa bao giờ được nói bằng lời. Từ ánh mắt anh tỏa ra vẻ tin chắc là tôi vẫn còn bị anh hấp dẫn giống y như ngày nào. Và anh có lý. Đã từ lâu tôi rút ra kết luận là tôi phải quen biết Basil từ một kiếp trước, từ cái thời mà đạo đức và lý trí còn chưa đóng một vai trò nào trong việc sắp xếp cuộc đời của tôi. Cái cảm giác nôn nao bồn chồn giữa hai chúng tôi ngay từ đầu đã là hỗn hợp của thèm khát và nghi ngờ, bất chấp mọi ý nghĩa và bất chấp mọi logic: đó là sự háo dục thuần túy bản năng.
Khi tôi quen anh, lúc đó tôi đang là vợ của DeWayne và đang có thai hai tháng. Nhìn bên ngoài người ta chưa biết, nhưng sáng nào tôi cũng thấy nôn nao khó chịu, mặt khác tôi đang vô cùng sung sướng vì đứa con sắp chào đời và vì người chồng mà tôi chưa hiểu rõ. Một buổi tối nọ Basil tới nhà chúng tôi để đưa một vật gì đó. Tôi mở cửa cho anh bước vào và không khí giữa hai chúng tôi đột ngột được tích đầy điện năng, đến mức độ vạn vật xung quanh chẳng thứ gì không bị ảnh hưởng, nghĩa là chỉ trong một thoáng, chẳng còn ai trong phòng. Người ta có thể đọc thấy những câu chuyện như vậy trong những tờ tạp chí sặc sỡ và nếu điều này chưa xảy ra với tôi, chắc tôi sẽ là người cuối cũng khẳng định rằng trên đời này có một thứ gì đó như lực hút. Vậy mà chính tôi đã cảm giác nó trên cơ thể mình: lòng háo hức dục tình ngay ở cái nhìn đầu tiên. Tôi chưa bao giờ trải qua cảm giác đó ở một người đàn ông nào khác kể cả đối với DeWayne và nó khiến tôi sợ muốn chết. Tôi cúi xuống với nền phòng, không dám nhìn vào mặt anh. Còn anh thì táo bạo hơn và tìm ra một cái cớ để chạm được vào người tôi.
– Một nụ hôn cho cô dâu mới cưới. – Anh tuyên bố và không thèm quan tâm đến cử chỉ từ chối giận dữ của DeWayne, anh kéo tôi lại gần, hôn tôi nồng nhiệt đến mức độ người tôi bây giờ còn nóng lên mỗi lần nhớ lại.
DeWayne dĩ nhiên bực bội vô cùng. Rất có thể đó cũng là một nguyên nhân sâu xa cho chuyện rạn vỡ sau này giữa hai người đàn ông, thế nhưng tôi không rũ bỏ được nỗi ngờ rằng câu chuyện còn một nguyên nhân khác. Một nguyên nhân sâu xa như những thứ có thể khiến đàn ông trở thành kẻ sát nhân và khiến cho họ không tin một người đàn bà. DeWayne và Basil giờ đã trở thành kẻ thù của nhau.
Tôi có cảm giác Basil thâm hiểm như một người đàn ông có thể giết chết người khác mà không thèm nháy mắt lấy một lần. Vậy mà lần nào gặp gỡ, mối nghi ngờ này của tôi cũng chìm ngay xuống dưới những khuấy động của hormon và tôi chỉ còn nghĩ đến cảm giác làn môi anh sẽ ra sao nếu anh thực hiện “lời hứa đó” ở tất cả những vị trí khác nhau trên cơ thể tôi.
Nhưng bất chấp những háo hức của người đàn bà trong tôi, lý trí một thám tử tư vẫn thấy sự có mặt của anh ở đây là một câu đố.
– Anh nói gì, tại sao anh lại tới đây? – Tôi hỏi lần nữa. Nhưng trước khi anh kịp trả lời thì Carlotta, người vợ cuối cùng của DeWayne, người mà tin đồn cho biết là vừa mới rời bỏ anh ta xong, đã thu hút trọn vẹn sự chú ý của cả Basil lẫn của tôi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.