Thiên Thần Bay Qua Mộ Con

CHƯƠNG 9



Bác Gerard Curtis đã được tìm thấy trong ngôi nhà của bà mẹ DeWayne tại Belvington Heights, một khu ngoại ô nằm ở phía Bắc của Newark với đa phần là cư dân da trắng. Người hàng xóm đã được DeWayne trả tiền để thỉnh thoảng ngó sang trông coi ngôi nhà vào sáng sớm ngày thứ sáu đã phát hiện thấy nó đang bơi trong bồn tắm. Đối với cảnh sát, đây là một vụ chết đuối do tai nạn. DeWayne và tôi nghĩ khác.
Chúng tôi ngồi trong văn phòng của Roscoe L. DeLorca, đại úy cảnh sát khu vực Belvington Heights và lắng nghe cái phiên bản chính thức của các sự kiện. Trước đây năm năm, bản thân tôi cũng đã làm việc nơi này và đây là lần đầu tiên tôi lại tới đây kể từ khi bỏ việc. Vẫn cái mùi ngày trước, cái mùi tởm lợm của khói thuốc là lưu cửu, của những bộ quần áo không được phơi phóng giặt giũ và của loại cà–phê rẻ tiền được đun quá lâu. Cả DeLorca cũng không thay đổi. Đó là một người đàn ông béo phị với những cử chỉ nặng nề và một nụ cười còn chậm rãi nặng nề hơn nữa, có thể gây ấn tượng dễ thương mà cũng có thể gây ấn tượng u ám, tùy theo cái ngày hôm đó của ông đã bắt đầu ra sao. Bộ mặt ông trông như hõm vào trong, nó luôn mang lại cho ông một vẻ ngoài thất vọng và hai con mắt ti hí màu xám cho ta đoán ông luôn chuẩn bị tinh thần cho tình huống xấu xa nhất. Vào những ngày tồi tệ, DeLorca gây ấn tượng như là một bức tranh tiếu lâm về một tay cớm gớm ghiếc.
Nhưng tôi quý và tôn trọng ông. Trong những năm tháng chiến đấu đơn côi của một người vừa là đàn bà vừa mang màu da đen trong ngành cảnh sát Mỹ, ông chưa bao giờ khiến cho cuộc đời tôi nặng nề thêm hoặc ngại ngần nói ý kiến của ông vào mặt các bạn đồng nghiệp khác, những bạn đồng nghiệp cứ tối thứ sáu lại cùng ông đi uống rượu và là những người thà thấy “một con điếm da đen” hoặc chết cứng hoặc nằm ngửa hơn là nhìn nó đeo quân hàm cảnh sát, đeo bằng vẻ tự tin cứ như thể nó được phép làm như vậy. Năm năm trời ròng rã, DeLorca làm người cha tinh thần và người bảo vệ miễn cưỡng cho tôi và khi tôi xin thôi việc, ông cáu kính không thể tả: ông giận tôi bởi ông đã tin tôi và ông giận bản thân mình bởi ông là người không ngửi nổi thất bại. Thế nhưng vào buổi sáng thứ bảy ngày hôm nay, tôi đến đây trong tư cách nữ thám tử tư, đứng về phía người cha của đứa con trai đã chết, chứ không phải là một trong những “chàng trai” của ông và ông đóng vai trò là bạn và người giúp đỡ khi hỏi chuyện DeWayne.
– Ngôi nhà đã bị bỏ hoang trên một năm nay rồi?
– Đúng, từ khi mẹ tôi qua đời trước đây một năm rưỡi. Tôi đã mua ngôi nhà đó cho bà trước khi bà chết được hai năm, – DeWayne kể. Anh ta gây ấn tượng mất bình tĩnh. Tôi biết, đó là hậu quả từ mối căm ghét của anh ta đối với bọn cớm nói chung. – Ngôi nhà đó bây giờ được khóa kín. Từ một vài tháng nay chúng tôi có treo biến bán. Trừ những người môi giới khi tới thăm nhà và một người đàn ông già nua thỉnh thoảng tới chăm sóc thì chẳng có ai ở đó cả.
– Ông có biết, con trai ông từ thời vị thành niên đã nhiều lần bị bắt vì tội buôn bán thuốc phiện? –DeLorca hỏi.
DeWayne uống nhanh một ngụm cà–phê.
– Có. Cái đó tôi biết. – Anh ta đáp.
– Còn người vợ cũ của ông, người mẹ của đứa trẻ, có khai rằng từ cuối trung học nó thường xuyên dùng thuốc phiện và rượu. Tôi chỉ nhắc lại tất cả những điều đó, bởi chúng tôi đoán rằng sử dụng thuốc phiện và rượu quá liều có đóng một vai trò nhất định trong bi kịch này. Chúng tôi đoán thằng bé đã vào nhà ông, rất có thể trong trạng thái đang say thuốc phiện, trộn lẫn thuốc an thần và trộn lẫn rượu, rồi vì một lý do nào đó đã đi tắm để rồi sau đó bị ngất đi trong bồn tắm và chết đuối. Cái chết đến vào lúc 23 giờ 50 phút.
DeLorca ngừng lại, chờ phản ứng của DeWayne. Khi thấy người đối diện im lặng, ông liền nói tiếp. Giá ông thoáng liếc về phía tôi một chút thôi, ông sẽ nhận được những gì ông muốn.
– Ngoài ra còn những điểm đáng chú ý khác, ông Curtis, cho thấy con trai ông đến đó không phải là lần đầu tiên. Có khả năng thỉnh thoảng nó đã tới sống trong nhà đó, bà vợ cũ của ông nói rằng nó ít khi ở nhà và theo chúng tôi thì rất có thể nó đã ở đó vào những lúc nó không ở nhà. Nó có chìa khóa không?
– Không.
– Ông có thể đoán liệu nó vào được nhà bằng cách nào không?
Trong mắt DeWayne lóe lên một cái gì đó, một thứ mà tôi không giải nghĩa nổi. Xấu hổ? Bực bội? Đau đớn? Nhưng anh ta nhanh chóng đè nó xuống. DeLorca cũng đã nhận ra và từ đó trở đi ông quan sát anh ta kỹ hơn, chăm chú hơn, không bỏ qua bất kỳ một cử chỉ nào.
– Không, – DeWayne nói sau một thoáng, khi đã tự chủ trở lại. – Tôi không biết nó làm cách nào mà vào được nhà. Nhưng có một điều tôi biết rất chính xác, đại úy: cái chết của con trai tôi không phải tai nạn. Trong vòng chưa đầy một tuần lễ đã có hai đứa con trai tôi qua đời, đại úy. Thằng con Terrence của tôi chết vào thứ bảy tuần trước. Thứ bảy. Có những người rất muốn giết tôi, có những người mong cho tôi chết đi và cũng sẵn sàng trả tiền cho chuyện đó và bây giờ họ chĩa vào thứ duy nhất mà tôi yêu mến, cụ thể là những đứa con tôi. Các con tôi đang bị giết, đại úy, và ngoài tôi ra thì chẳng ai thèm quan tâm mảy may.
DeLorca nhận ra cái nét nhăn cương quyết bao quanh khuôn miệng của DeWayne và nỗi tuyệt vọng trong ánh mắt anh ta, ông nhìn xuống dưới cuốn sổ ghi chép của mình. Người ta tuyệt đối không thể nhận ra liệu ông tin lời DeWayne hoặc ông chỉ rút ra kết luận rằng ở đây lại có một thằng mọi đen điên khùng đánh cắp thời gian của ông.
– Tôi không cho cái đó là tình cờ, đại úy. – Giờ thì tôi cũng nói thêm ý kiến của mình, với hy vọng kéo ông đứng về phía chúng tôi. – Có một vài yếu tố bí hiểm trong mối liên quan tới cái chết của Terrence, của cậu bé đầu. Tôi không tin là nó chết vì dùng thuốc phiện quá liều theo như dự đoán của cảnh sát khu Newark. Rất có thể người ta không tiến hành mổ xác. – Tôi trình bày ý kiến theo cái giọng lưỡi tốt nhất của cánh cảnh sát. Ngược lại với DeWayne, tôi không tin vào một âm mưu chống lại anh ta, nhưng từ khi Gerard bỏ mạng, tôi tin chắc rằng nó và Terrence đã cùng nhau lao vào một chuyện làm ăn tăm tối nào đó và cả hai đã phải trả bằng mạng sống. Giờ thì tôi cũng quyết tâm y như DeWayne sẽ điều tra vụ này cho tới cùng.
– Dĩ nhiên là người ta đã tiến hành mổ xác, – DeLorca nói. – Trong một trường hợp như thế người ta luôn tiến hành mổ xác. Người ta không thể đơn giản quyết định đó là một cái chết do thuốc phiện nếu không có bằng chứng trong tay.
Nhưng bất chấp câu trả lời này, tôi vẫn nhận ra một chút giật rất nhẹ trong con mắt trái của DeLorca, cho biết tôi đã khiến ông quan tâm. Cả DeWayne cũng nhận ra cái giật nhẹ đó và hàm ơn tôi bằng cái gật đầu. Tôi gật đầu đáp trả ý rằng đã hiểu.
Gần nửa đêm hôm trước, anh ta đã tới nhà tôi để an ủi Jamal, chúng tôi đã nói chuyện với nhau cho tới gần sáng rồi cùng đi tới trạm cảnh sát này. Tôi đã báo cáo lại cho anh ta nghe những phát hiện của mình trong căn phòng của Terrence vào ngày thứ ba cũng như kết quả chuyến viếng thăm của tôi tại nhà Emma vào ngày thứ tư, rồi tôi hỏi anh ta coi Basil Dupre là người như thế nào. Khi cái tên Basil được buông ra, ánh lửa hổ thẹn bập bùng cháy trong mắt anh, nhưng rồi anh ta chuyển để tài và bắt đầu nói về Carlotta. Anh ta giải thích rằng người con gái đó là sự cứu thoát của anh ta. Anh ta đã cưới cô ta chỉ hai tuần sau cái chết của DeWayne con. Ngày đó cô ta là người duy nhất trong cả cuộc đời có thể khiến cho anh ta cười trở lại. Giờ đây anh ta đã nhìn rõ tính đểu giả của Carlotta,
– Nhưng anh không thể rời cô ta mà đi được. – Anh ta thú nhận rằng cả đời anh ta đã sử dụng những người khác cho mục đích của mình và giờ thì anh ta phải trả bằng những gì mà trái tim anh ta yêu mến nhất. Anh ta thề bên nấm mộ của mẹ mình là anh ta sẵn sàng găm một viên đạn vào não, nếu qua đó có thể yên tâm rằng những đứa con trai khác của anh ta được sống, chỉ có điều đáng tiếc là chắc việc này cũng chẳng giúp được ích chi. Đó là những lời lẽ trung thực nhất mà tôi nghe được từ miệng DeWayne từ bao nhiêu năm nay và rõ ràng là tôi sẽ nói dối nếu khẳng định rằng chúng không hề khiến tôi xúc động.
– Ông Curtis. – Đại úy DeLorca lại kéo tôi quay trở lại Với hiện tại. – Hoàn toàn không có căn cứ để kết luận cậu con trai Gerard của ông đã bị giết chết. Chúng tôi chưa có bản báo cáo pháp y hoàn chỉnh, nhưng mọi triệu chứng cho biết trước khi chết đuối đã có hành động sử dụng rượu và thuốc phiện. Anh ta có một vết bầm nhỏ ở mắt cá chân bên phải, thế nhưng rất có thể anh ta đã có vết bầm này từ trước. Không có một triệu chứng gì bất thường. Chúng tôi đoán rằng vào thời điểm xảy ra cái chết anh ta đã ở một mình.
– Liệu có thể cho phép chúng tôi xem bản báo cáo được không? – Tôi hỏi.
DeLorca ném cho tôi một cái nhìn qua khóe mắt, nhắc cho tôi nhớ lại những điều luật bất thành văn của ngành cảnh sát: Ai muốn biết điều gì sẽ nhận được ít thông tin như có thể.
– Ông Curtis sẽ nhận được một bản copy của giấy báo tử, chừng nào quy trình mổ xác kết thúc và giấy báo tử được cơ quan y pháp hữu trách xác nhận.
Đó là bước nhảy từ một chuyên gia công cộng quay trở về một công chức thứ thiệt.
– Ông có nói về những căn cứ, – DeWayne cắt ngang lời DeLorca. – Đó là những căn cứ gì vậy?
DeLorca lắc đầu.
– Không có bằng chứng cụ thể, thế nhưng việc dìm người chết đuối rất hiếm khi xảy ra. Ở đây chúng ta đang có một tai nạn.
– Nhưng người ta không thể tin chắc hoàn toàn. – Tôi nói
– Người ta không bao giờ tin chắc hoàn toàn, Hayle. Cái đó cô biết cũng rõ như tôi vậy. – Rõ ràng hiện thời ông đã quên đi vị trí mới của tôi và sấn sổ vào mặt tôi như ngày trước, khi tôi còn là cảnh sát viên dưới quyền ông.
Đại úy DeLorca lắc chuông gọi và một cảnh sát viên xuất hiện ngay lập tức, dáng vẻ rất sốt sắng.
– Hansen, anh hãy đi cùng ông Curtis đến gặp bác sĩ pháp y để ông ấy có thể nhận lại những đồ vật riêng của người con trai mình, – Đại úy DeLorca nói khẽ. Rồi sau đó, ông quay về phía tôi: – Cô Hayle, – ông nhấn mạnh chữ “cô”, – liệu cô có thể ở lại đây thêm một chút?
Ngay sau khi nghe thấy bước chân của DeWayne và Hansen đã nhỏ dần ở phía xa, DeLorca xoay về phía tôi.
– Cô liên quan gì tới chuyện này?
– DeWayne là chồng cũ của tôi và là cha của Jamal.
– Ồ! – Ông nói, rõ ràng là ông đang dồn hết sức lực để nhớ lại câu chuyện đời của tôi. – Cậu bé bây giờ thế nào?
– Nó khỏe và ổn, thưa sếp. – Tôi quay trở lại kiểu ăn nói thân mật giữa hai chúng tôi.
– Bây giờ nó bao nhiêu tuổi?
– Mười bốn. Nhưng nó có vẻ quá to so với tuổi.
Đó chỉ là một lời nhận xét bên rìa, thế nhưng DeLorca gật đầu, nhìn xuống mặt bàn làm việc và tránh ánh mắt tôi. Lúc bấy giờ thì tôi biết rằng ông chưa quên một điều gì cả. Việc đó xảy ra khi Jamal chín tuổi, đó là nguyên nhân khiến tôi thôi việc và sự kiện đẩy con trai tôi bước qua ngưỡng cửa thành người da đen và thành đàn ông. Vào buổi tối hôm đó, cậu thiếu niên Marvin Wiggins nhà hàng xóm nhận nhiệm vụ canh chừng con tôi. Marvin Wiggins là một cậu bé dễ thương, ham mê bóng đá và rất được yêu mến, một chàng da đen trẻ tuổi tiêu biểu với nụ cười nghịch ngợm và điệu bộ khuynh khoang của nhạc sĩ nhạc Rap, những thứ mà Jamal thấy là bảnh chọe và chăm chỉ học theo khiến tôi bực vô cùng. Hôm đó tôi nhận ca từ sáu giờ chiếu tới hai giờ sáng và Marvin Wiggins muốn rủ “đám trai” của cậu ta, tức là những thiếu niên khác ở cùng khu, đến Willowbrook Mall để mua một đôi giày thể thao cho Jamal. Chúng đến thăm tôi ở trạm cảnh sát để xin tiền, món tiền mà tôi quên đưa cho chúng trước khi đi làm, thế rồi sau đó chúng đi thật nhanh, bởi chúng lên đường từ lúc 8 giờ tối mà cửa hàng Mail lại đóng cửa vào lúc 9 giờ. Ngoài ra đó còn là một đoàn con trai da đen lái một chiếc xe thật mới đi lại thản nhiên trong khu Belvingotn Heights khi trời đã tối rồi và chuyện đó không thể kết thúc tốt đẹp.
Những anh em cùng mặc bộ đồ cảnh sát như tôi đã bắt chúng dừng xe trong một con phố nhỏ, với nguyên cớ chính thức là tội đi quá tốc độ cho phép và họ nổi khùng lên khi Marvin Wiggins giở giọng láo. Đám cảnh sát đánh thằng bé chảy máu mũi, vì cái tội “cư xử như một thằng mọi đen trâng tráo”, rồi đập cho Marvin Wiggins gục xuống và hỏi đám con trai còn lại xem có đứa nào “muốn được tẩy sọ hay không”. Jamal sợ quá “đi” cả ra quần. Khi nó bắt đầu khóc, họ mới nhận ra nó vẫn còn là một đứa bé dù “quá cao so với tuổi”, họ bắt đầu thấy lo và thả bọn trẻ ra. Chuyện chưa kết thúc bởi một số cảnh sát viên có thói quen tự cho mình là đồ quan trọng.
“Năm con bọ da đen to đùng”. Tôi nghe thấy có người kể chuyện tiếu lâm như thế trong phòng thay quần áo. Tôi không biết họ nói chuyện gì cho tới một tiếng đồng hồ sau đó, khi DeLorca gọi tôi tới nói chuyện và giải thích chuyện vừa xảy ra. Ông đã nghe qua một tay cảnh sát viên dự bị hơi có vẻ ngu đần, kẻ mà nửa năm sau đó đã bị đuổi việc. DeLorca biết đó chính là đám con trai của tôi (bốn con bọ da đen lớn và một con bọ da đen nhỏ, con trai tôi).
Mặt đỏ lên vì giận dữ, DeLorca thề thốt với tôi rằng nhóm cảnh sát viên đó sẽ bị trừng trị thích đáng, thế nhưng tôi nhận thấy dạ dày mình đang thót lên cao. Tôi chỉ gật đầu, đi ra phòng vệ sinh và nôn ra ngoài tất cả những món ăn tôi đã nuốt vào cách đó hai tiếng đồng hồ.
Đến cuối đời tôi cũng không quên được ánh mắt của bà mẹ Marvin Wiggins khi tôi quay về nhà vào buổi tối hôm đó. Bà đã ở bên Jamal cho tới khi tôi có mặt. Tôi cũng không quên được đôi mắt của con trai tôi. Hai tuần sau tôi đâm đơn thôi việc và tất cả, ngoại trừ Jamal, đều cho tôi là điên; mà tôi thì chỉ coi ý kiến của nó là quan trọng.
– Thế mọi việc khác ra sao? – DeLorca hỏi, nhìn vào mặt tôi. Ông luôn là người đứng vững trên mảnh đất hiện thực và cảm giác tội lỗi hối hận không phải là sở trường của ông. Ngài đại úy cho rằng lẽ ra tôi phải dày dạn hơn, cứng rắn hơn, nhưng ông đâu có biết làm mẹ có nghĩa là gì. – Chuyện làm ăn thế nào?
– Tốt. – Tôi nói. – Toàn là những chuyện thường thôi, lừa đảo bảo hiểm, trẻ em trốn nhà, những ông chồng thiếu chung thủy, giết người, những vụ giết người mà cảnh sát không muốn mó tay tới.
– Ôi trời, Hayle! Vụ này không phải án mạng. Tại sao cô cứ khăng khăng muốn biến nó thành một vụ giết người?
– Bởi nó là một vụ như thế, đại úy. – Tôi nói, cố gắng không để lộ nỗi sợ hãi của mình ra ngoài. Tôi biết nếu tôi gây ấn tượng điên khùng, DeLorca sẽ không còn phí lấy một nửa suy nghĩ nữa về tôi, đúng theo cái cách cảnh sát viên.
Ông châm một điếu thuốc lá, chẳng thèm đoái hoài gì đến cái biển No Smoking trên tường.
– Như tôi vừa nói với cha của đứa trẻ, Hayle, chết đuối rất hiếm khi là chuyện bị giết, cái đó cô cũng biết rõ như tôi.
– Nhưng ông cũng hiểu rõ như tôi, rằng người ta chưa có được những kết quả thử nghiệm tuyệt đối chắc chắn cho việc bị giết hay tự tử trong một vụ chết đuối. Nó có thể là cả hai. Ông nói nó là một tai nạn, nhưng ông không thể chắc chắn loại trừ trường hợp giết người.
– Hoàn toàn không có dẫn chứng và căn cứ gì cả, về một ai đó dù là đàn ông đàn bà hay là một thứ nào khác đã ở trong căn phòng đó khi thằng bé qua đời. Không có một dấu hiệu nào cho một cuộc vật lộn. Chúng tôi đoán rằng thằng bé đã đi vào nhà để hút thuốc phiện. Thằng bé đã phạm tội từ khi chưa sang tuổi thành niên; nó nổi tiếng là kẻ sử dụng và buôn bán thuốc phiện. Rất có thể nó đã tiến hành trò buôn bán thuốc phiện trong ngôi nhà của người bà đã chết của nó. Rất có thể nó đi tắm, bởi nó muốn gặp một người khác, rất có thể nó thậm chí còn có một cuộc hẹn với một đứa con gái, làm sao tôi biết được. Nếu vòi tắm hoa sen hoạt động, có lẽ thằng bé vẫn còn sống. Thế nhưng vì nó hỏng nên thằng bé đã tắm bồn, trong trạng thái say rượu và cocain. Nó đã ngủ gật trong bồn tắm và bị chết đuối giống y như diễn viên Jimmi Hendrix.
– Jimmi Hendrix đã bị chết ngạt vì những thứ mà anh ta nôn ra; Jimmi không chết đuối trong bồn tắm, ngoài ra còn có hai cô gái có mặt khi anh ta chết.
DeLorca phẩy tay.
– Đây không phải chuyện giết người, Hayle, lần này cô đoán sai rồi. Cô hãy kiếm tiền nơi khác đi. Chúng tôi biết chúng tôi đang làm gì. Cụ thể là chúng tôi không đi tìm một kẻ sát nhân đâu. – Ông ném một tập ảnh của Gerard về phía tôi, tập ảnh đã được chụp tại hiện trường của cái chết. – Đây, cô thử nhìn những tấm ảnh này mà xem. Cô tin là cô có thể phát hiện ra một cái chết bất thường hay sao, cô nàng ưa thích những vụ giết người? Ở đây chỉ có một thằng con trai ngu ngốc đã chết thôi, cái thằng đã chết đuối trong một bồn tắm, chỉ thế thôi.
Nhìn những tấm ảnh trắng đen tỉnh táo, tôi muốn ngộp thở. Tôi nhớ lại, Gerard còn sống động biết bao nhiêu vào buổi chiều ngày thứ tư, nó còn chửi bới mẹ nó, vậy mà tối thứ năm nó đã chết rồi. Tôi không ưa nó. Thậm chí cả mẹ nó cũng không ưa nó, thế nhưng với cái cơ thể trần truồng nhợt nhạt đang lập lờ trong một bồn tắm kiểu cổ với những chân bồn xòe ra như móng thú, sao nó gây ấn tượng bé và mỏng manh quá. Tôi nhìn những tấm ảnh được chụp từ nhiều góc độ khác nhau; một số chỉ ra hiện trường của cái chết, một số là hình ảnh chụp cận cảnh xác chết trước khi mổ. Tôi thấy người nôn nao; bao giờ nhìn xác chết tôi cũng bị nôn nao.
– Báo cáo pháp y bao giờ mới xong? – Tôi hỏi và trả ảnh lại cho DeLorca.
– Cuối tuần này, nhưng bây giờ tôi đã có thể cho cô biết kết luận sẽ ra sao. Chết đuối vì tai nạn.
Cửa mở ra và DeWayne bước vào với gương mặt màu tro xám và hai con mắt ẩm. Một bàn tay anh ta cầm một cái túi giấy màu nâu có chứa những đồ đạc riêng tư của Gerard, tay kia vẫn còn lơ đãng cầm cái tách cà–phê mà ban nãy anh ta đã mang theo. DeLorca giơ một tay ra để chia buồn. DeWayne đặt tách cà–phê xuống và bắt tay ông. – Tôi xin thành thật chia buồn, ông Curtis. – Đại úy DeLorca nói.
DeWayne nhận câu nói đó bằng một cái gật đầu yếu ớt. Chúng tôi cảm ơn DeLorca và lên đường quay về. Trong im lặng tuyệt đối, chúng tôi đi ô tô qua khu Belvington Heights về Cam Đông và cũng không nói thêm một lời nào nữa khi anh ta cho tôi xuống xe.
Trong nhà tôi không có ai. Bất giác tôi lại nghĩ tới Gerard. Trước đây năm năm nó vào độ tuổi của Jamal. Tôi tự hỏi, liệu thời đó nó có giống con trai tôi chút nào không. Liệu nó cũng trêu chọc mẹ nó, cũng chơi bóng rổ và chẳng mơ mộng một điều gì khác ngoài những trò quậy phá được phép làm vào tối thứ bảy? Thế nhưng mọi chuyện đã chệch ra khỏi đường ray từ lúc nào? Năm năm, năm ngày, năm tiếng đồng hồ cũng có thể thay đổi một cuộc đời. Chúng nó có máu mủ với nhau, nó và Jamal. Chúng nó là anh em ruột. Một cơn lạnh chạy suốt người tôi, đâm sâu vào tận xương tủy, thấm tới linh hồn.
Đang có một thiên thần bay qua mộ con!
Thời còn bé, bà tôi hay nói như thế mỗi khi tôi bị rùng mình. Câu nói bao giờ cũng khiến tôi sợ không ít.
– Nhưng mà bà ơi, con đâu đã chết nào.
Không cần phải chết cũng có thiên thần bay trên mộ! Hay là bay trên mộ con trai con!
Tôi rót cho mình một ngụm Brandy mặc dù bây giờ mới là đầu giờ chiều, tôi hy vọng mình sẽ không biến thành một mụ già nghiện ngập. Khi Jamal bước vào, tôi để Brandy vào bồn rửa bát.
– Con vừa ở đâu về? – Tôi hỏi nó.
– Con đi chơi bóng.
– Ở đâu?
– Ở sân.
– Con biết rằng con luôn phải nói cho mẹ biết con đi đâu. Tại sao con không kể cho mẹ nghe là con đi chơi bóng? Quỷ Satan làm cho con mụ mẫm đi hay sao thế? Con biết rất rõ là con phải để giấy lại cho mẹ biết hoặc là gọi điện cho mẹ hoặc là nói cho mẹ biết trước khi con đi.
– Trời đất ơi, mẹ, sao mẹ lại hét lên như vậy, trời đất thánh thần! Mới có một giờ trưa thôi. Con đâu còn bé nữa, khốn kiếp! – Nó ngạc nhiên giơ hai tay và đảo tròng mắt lên trên. – Trời ạ, mẹ bị làm sao thế?
– Có mặt mẹ ở đây không được rủa!
– Nhưng mẹ cũng vừa rủa xong!
– Mẹ bị căng thẳng thần kinh quá.
– Mẹ bao giờ cũng bị căng thẳng thần kinh.
– Con cần phải cẩn thận, Jamal. – Tôi nói.
– Tại sao? – Nó nghi ngờ nhìn tôi.
Từ cuộc điện thoại với nó ở nhà Basil và sau một cuộc nói chuyện ngắn khi tôi trở về nhà, con trai tôi không nói một lời nào nữa về cái chết của Gerard, về những nét tương tự với cái chết của Terrence và mối liên quan có thể có giữa hai sự kiện. Nó đã nói chuyện với DeWayne khi anh ta ở đây, nhưng lúc đó nó nói ngắn thôi như giữa hai người đàn ông với nhau, như thể nó không muốn làm một thằng bé trước mặt cha nó nữa. Nhưng tôi biết nó sợ. Chắc chắn nó phải sợ.
– Lại đây, Jamal.
– Tại sao?
– Cứ lại đây.
Nó bước lại và ngồi xuống cạnh tôi.
– Con không thấy lo về những chuyện vừa xảy ra hay sao? Về những gì vừa xảy ra với Gerard?
Nó im lặng và căng thẳng suy nghĩ, cuối cùng nó trả lời
– Không! – Giọng nó có vẻ bướng bỉnh. – Con không phải đồ thỏ hèn chó chết.
– Đừng có nói thỏ hèn chó chết!
– Sao mẹ cứ càu nhàu con liên tục thế? – Nó kêu lên và thở dài não nuột cứ như thể đang phải gánh toàn bộ những gánh nặng của thế giới này trên vai.
– Con đã nghe ba mẹ nói chuyện hôm qua và cha con nói rằng những tai nạn đó hoàn toàn chẳng phải tai nạn. Rằng có kẻ nào đó muốn đánh đòn thần kinh ông ấy. Tuy nhiên ông ấy không thể ngăn cản được chuyện này.
– Chả có gì để ngăn cản cả.
– Có kẻ nào muốn giết con không?
– Không, dĩ nhiên là không. – Câu trả lời của tôi đến quá nhanh và nó biết điều đó.
– Làm sao mà mẹ biết?
– Tại vì mẹ biết. Thế thôi. – Tôi lại sa vào cái giọng quyền thế quen thuộc từ xưa tới nay, cái giọng “chỉ có những gì mẹ nói mới đáng kể, chứ không phải những gì mẹ làm”, một cái giọng luôn luôn dễ chịu, nhưng tôi thừa hiểu chẳng phải như thế mà đã xong chuyện. – Không một ai muốn đánh đòn thần kinh DeWayne cả, – Tôi giải thích, cố gắng chắc giọng như có thể. – có lẽ có một mối liên quan giữa cái chết của Terrence và cái chết của Gerard. Rất có thế cả hai đứa chúng nó đã cùng sa vào một trò chơi chó chết, thứ mà chúng ta chưa biết. Mẹ sẽ cố tìm ra chuyện này.
Khi nghe tới “một trò chơi chó chết”, Jamal thoáng mỉm cười với tôi như muốn nói “giờ thì con tóm được mẹ nói bậy”. Nhưng rồi nét mặt nó trở lại nghiêm trang ngay lập tức.
– Cái bọn cớm ngu ngốc đó chẳng bao giờ tóm kẻ nào một khi nó mắc tội. Tại sao chúng nó không chịu điều tra cho tử tế? Bây giờ mẹ muốn làm gì?
– Mẹ sẽ làm những gì có thể. Mẹ sẽ nói chuyện với một vài người. – Tôi dừng tại đây, bởi tôi hiện vẫn còn chưa biết thật rõ có thể nói những gì.
– Bọn cớm còn muốn làm gì nữa không?
– Có, chừng nào chúng ta có nhiều bằng chứng hơn. Nhưng hiện thời họ chẳng làm được gì hơn. Ở cả hai trường hợp họ đều kết luận là tai nạn.
Đúng lúc đó có tiếng chuông reo. Đoán là dành cho mình, Jamal nhảy lên và chạy ra cửa ra vào.
– Chào cháu, mẹ cháu có nhà không? – Một giọng nói loáng thoáng quen thuộc cất lên. – Cô vừa tới đây từ văn phòng của cha cháu.
– Mẹ ơi, có một cô nói là đến từ văn phòng của cha, – Jamal kêu lên bên cửa, thế rồi nó chỉ cần nhảy một bước đã lại đứng ở giữa nhà và chạy theo cầu thang lên trên. – Mẹ ơi, chút nữa ta nói chuyện tiếp nhé? Con sẽ gặp Hakim ở quảng trường bên đại lộ Cam Nam, sau đó chúng con sẽ sang nhà Jerome để xem video. Nếu Hakim gọi tới, mẹ nói cho anh ấy biết là con đi rồi.
– Ừ, – Tôi nói. – trở về nhà trước khi trời tối đấy.
– Trước khi trời tối? Mẹ này, Jerome sống ở ngay bên kia thôi, ở Evergreen Terrace! Thôi nào mẹ.
– Con đi ra khỏi cái sân đó trước khi trời tối! – Tôi khẳng định. Tôi nghe tiếng nó còn bực bội lẩm bẩm điều gì đó, trong khi chân bước lên trên để rồi chạy ra theo cửa sau.
Tháng Bảy vừa cười vừa đứng bên cửa và nghe cuộc chuyện trò của hai mẹ con tôi. Cô ta cầm trong tay một cái phong bì rất lớn màu nâu.
– Chào chị, – Cô ta nói vui vẻ. – tôi muốn mang cái này đến cho chị. Lẽ ra tôi phải gửi bằng đường bưu điện, nhưng chị sống ngay trên đường tôi trở về nhà, vậy là tôi nghĩ tội gì mà mất một con tem? Có phải đó là JamaI không? – Cô ta hỏi khi nhìn thấy cái đầu của Jamal thoáng hiện qua khe cửa. Cô ta mặc một chiếc áo thun rất rộng nhãn Gap, bên dưới là quần jean rất chật. So sánh với cuộc gặp trước của chúng tôi, Tháng Bảy hôm nay gây ấn tượng trẻ hơn và khỏe mạnh hơn nhiều. Rõ là niềm tự tin của cô ta đã lớn dậy và cái lối nói miền quê còn tồn tại trong lần trước giờ đã hoàn toàn biến mất. Thêm một lần nữa tôi cân nhắc, liệu cô ta và DeWayne có gần gũi với nhau không. Người ta thường nói, khi một người đàn bà muốn thu hút sự chú ý của một người đàn ông, thì ánh mắt cô ta có thể lóe sáng, mà bản năng mách cho tôi biết là Tháng Bảy đang cần một cái gì đó.
– Đúng, đó là Jamal. – Tôi nói. – Tại sao cô lại phải làm việc vào thứ bảy?
– Bình thường ra thì không, nhưng khi gặp những chuyện buồn này tôi đã làm quá một vài tiếng đồng hồ.
– Nhiệm vụ của cô ở chỗ anh ta là gì vậy?
– Đánh máy, nhận các cuộc gọi điện thoại, tất cả những việc linh tinh. Tôi kiếm sống bằng những chuyện linh tinh như thế, – cô ta nói và đưa cho tôi cái phong bì. – Nó được gửi đến bằng đường bưu điện, trông có vẻ như là thư từ của công sở và tôi đã gọi điện cho DeWayne. Anh ấy bảo tôi cần phải đút nó vào trong một bì thư và gửi đến cho chị.
– Cô vào đây một chút đã. – Tôi nói và mở cái bì thư lớn ra, bên trong chứa một bì thư nhỏ hơn, trông có vẻ công sở. Nó được gửi đi từ viện y tế và chăm sóc thanh thiếu niên Newark và tôi nhận ra rằng nó là một bản copy giấy báo tử của Terrence. Tôi đặt cái thư đó lên trên chiếc bàn nhỏ, rồi sau đó mở nó ra và đọc.
– Ôi trời, tôi phát ghen với chị. – Tháng Bảy nói khi bước vào và đưa mắt nhìn quanh phòng khách.
Kể từ chủ nhật vừa qua khi cơn vận hạn bắt đầu, tôi không còn thời gian đâu để mà dọn dẹp nữa và phòng khách trông bừa bộn không mê được. Tôi tự hỏi không biết cô ta đang nói chuyện gì.
– Cô ghen với tôi sao?
– Vâng.
– Tại sao?
– Chị biết chị muốn gì. Chị có một cơ sở riêng.
– Cơ sở không mang lại tiền.
– Một ngôi nhà xinh xắn.
– Cái ngôi nhà này còn khiến cho tôi phá sản tận cùng. Hồi trước nó là nhà cha mẹ tôi. Tôi được thừa kế.
– Chị có một cậu con trai dễ thương.
– Cái hạnh phúc làm mẹ thường hay được người ta đánh giá quá cao, cô cứ tin tôi đi! – Tôi nói. – Cô muốn uống gì không? Có lẽ trà? Hay là nước khoáng?
– Nước khoáng tốt hơn.
Tôi lấy cho cả hai người một chai Sprite, thế rồi chúng tôi ngồi xuống ghế sofa và im lặng uống.
– DeWayne nói rằng ông ta thuê chị tìm ra câu chuyện gì đang xảy ra ở đây.
Giờ thì tôi ngạc nhiên khi biết anh ta đã kể cho cô ta nghe chuyện đó. Rất có thế họ ngủ với nhau?
– Cho tới nay tôi cũng chưa tìm ra được nhiều đâu, – nhưng rồi tới một lúc nào đó sẽ có cái gì đó lộ ra, bao giờ cũng vậy. Sự thực thì chẳng có gì bắt buộc tôi phải lộ ra điều gì vào một lúc nào mà tôi không muốn.
– Ở trong đám ma chị có nói chị muốn hỏi tôi một vài câu. Vậy chị muốn hỏi gì? – Cô ta uống một ngụm Sprite, rồi nhá nhá một mẩu đá nhỏ.
– Cô có nói, cô biết rất nhiều về DeWayne và thế là tôi quan tâm không biết ý cô muốn nói gì.
– Chẳng muốn nói gì cả. Tôi chỉ buột miệng ra thế thôi. – Cô ta mút miếng đá rồi cắn cho nó kêu côm cốp. – Chuyện ngồi lê đôi mách vớ vẩn ấy mà. Đám ma hôm đó điên quá phải không? Tôi sẽ không gọi nó là điên đâu. Đúng hơn là đáng buồn. Rất đáng buồn. Chẳng có sự tôn trọng. Thôi thì, ít nhất họ cũng có một đám ma.
– Cô đã quen một người chết nào mà không được làm ma chưa? – Tôi hỏi đùa.
– Có, nhiều. – Cô ta nghiêm trang đáp lời, rồi cô ta uống thêm một ngụm Sprite và hạ ánh mắt xuống. – Tôi chẳng hạn, sẽ không có ai thèm làm đám ma cho tôi đâu.
– Kìa, Tháng Bảy! Dĩ nhiên là cô sẽ có một đám ma. Người nào rồi cũng có một đám ma cả. – Tôi nói. Rồi sẽ có một ai đó mến cô đến mức giữ tất cả những kỷ niệm của cô trong danh dự. Bọn mình vừa mới nhắc đến từ điên xong, cái này mới thật là một suy nghĩ điên khùng đấy!
– Tôi đang ở trong một tâm trạng điên khùng. Cuối tuần vừa qua là sinh nhật tôi, – Cô ta nói nhanh, như muốn ngỏ lời xin lỗi hoặc muốn thay đổi đề tài. – vào ngày một tháng mười tôi tròn 30 tuổi. Nhưng tất cả những người thân của tôi đã chết rồi. Và vì thế sẽ chẳng có ai nghĩ tới tôi. Chẳng có ai để làm lễ, chẳng có ai để buồn thương. Tôi sống một mình.
Cô ta nói điều đó bằng giọng buồn và lo, chạm tới tận nơi nào đó thật sâu trong tôi. Bất chấp thói phũ phàng của cô ta, tôi chợt thấy mình quý Tháng Bảy.
– Cả cha mẹ tôi cũng qua đời rồi..
– Mẹ tôi tự tử. – Tháng Bảy nói tiếp, nói nhanh, trước khi tôi kịp kết thúc câu của mình. Cô ta nói câu đó dửng dưng, không một chút buồn và câu nói không cho phép người đối diện buông ra một lời an ủi nào khác ngoài chuyện là tôi cũng có chung một nỗi buồn đó.
– Anh trai Johnny của tôi cũng tự tử. – Tôi nói sau một thoáng ngưng ngắn. – Trước đây 15 năm anh ấy đã găm một viên đạn vào đầu. Lúc đó tôi tròn 20 tuổi.
Tháng Bảy nhìn tôi, nét ấm áp của sự liên kết thầm kín tỏa ra, mà cũng có thể là sự hàm ơn, trong ánh mắt cô cho biết tôi vừa nói một câu đúng đắn. Cô gái cầm lấy tay tôi, dịu dàng bóp nó một chút rồi lại buông ra, như đột ngột cô thấy ngượng.
– Ít nhất thì cha mẹ chị, anh trai chị cũng để lại cho chị ngôi nhà này. – Tháng Bảy nói. – Mẹ tôi chẳng để lại cho tôi cái chó gì.
Thật kỳ lạ, cái cách mà cô ta nói, cái cách mà cô ta nhảy từ cái chết của Johnny sang ngôi nhà này, thế nhưng chính cuộc đời tôi cũng khắc sâu dấu ấn của những nỗi đau thời trẻ. Tôi hiểu những triệu chứng này. Tôi nhìn thấy nó ở con người Tháng Bảy và một trong những triệu chứng đó là sự chai cứng không cho phép mình có cảm xúc. Trời mới biết, cả tôi cũng đã có nét đó. Nhiều khi bộ mặt Tử Thần có những hình dạng mà người ta có thể sờ mó thấy, đôi hoa tai của người mẹ đã qua đời trở thành đối tượng khát khao và tranh giành của những chị em gái đang thương nhớ chẳng hạn. Bất kỳ một cái gì đó mà người ta có thể chạm thấy được, để cho cái chết không chạm vào ta. Tháng Bảy có lý. Tôi có ngôi nhà, có được chiến lợi phẩm của cái chết, do cha mẹ và Johnny để lại cho tôi. Nhưng Tháng Bảy cũng có một thứ.
– Cô. – Tôi nói sau một hồi im lặng. – Mẹ cô đã để lại cô đó Tháng Bảy.
– Như thế chưa đủ. Chị có biết cảm giác đó không? – Cô ta hỏi tôi, mãnh liệt đột ngột.
– Có, tôi biết.
– Tôi đọc tất cả những bài tư vấn về lòng tự trọng mà tôi vớ được. Bao giờ người ta cũng khuyên phải tìm được nguồn gốc của nỗi đau và diệt trừ nó đi. Tôi đã làm chính điều đó. Chậm rãi nhưng chắc chắn. Hết cái này đến cái khác.
– Chắc chắn đó cũng là một cách. – Tôi nói. Giờ thì tôi hiểu cái nét điên khùng ở người con gái này. Cái nét điên khùng mà tôi biết từ chính bản thân mình.
– Giờ tôi đi về nhà đây và nộp thân tôi cho cái vẻ buồn bã của một căn hộ trống vắng vào buổi tối thứ bảy. – Cô ta nói với một nụ cười khúc khích vui vẻ, cho tôi biết cô ta coi bản thân mình cũng chẳng mấy quan trọng; cô ta đang gạn đục khơi trong, đúng như bà chị Pet muôn đời lạc quan của tôi luôn nói và khuyên bảo.
– Ta có thể đi ăn chung vào lúc nào đó không? – Tôi hỏi, hầu như không suy nghĩ.
– Dĩ nhiên. – Cô ta nói. – Rất sẵn lòng.
Tôi đưa cô ta ra ô tô.
– Xin gửi lời chúc mừng thành thật cho ngày sinh nhật. – Tôi nói.
– Cám ơn. – Cô ta kêu qua khuôn cửa ô tô khi lăn bánh. – Chị hãy cho tôi biết bao giờ chị có sinh nhật, có lẽ chúng ta cùng làm tiệc.
Khi quay trở vào nhà, tôi vẫn còn thầm mỉm cười về Tháng Bảy. Tôi mở bao thư nhỏ nằm trong bao thư lớn và nhanh chóng đọc lướt qua nội dung của bản thông báo. Terrence đã chết vì dùng cocain quá liều. Vậy ra thằng bé đã dùng thuốc phiện. Tôi nổi giận và có cảm giác mình bị lừa, nhưng rồi nhận thấy đó là chuyện ngu ngốc, bởi suy cho cùng thì nó đã chết. Đó không thể là một vụ giết người. Người ta không thể ép một con người khác dùng cocain quá liều. DeLorca có lý.
– Suy đoán lạc lối, – tôi nói to thành tiếng rồi đút lá thư đó vào phong bì trở lại. – Suy đoán cực kỳ lạc lối.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.