Suốt ba tháng sau cái chết của Isabelle, Jimmy Landi không còn thiết đến bất cứ việc gì khác. Giống như thể não phần kiểm soát các cảm xúc của ông bị tê liệt vậy. Tất cả sinh lực, ý nghĩ chỉ còn chú tâm vào kế hoạch cho cái khách sạn – sòng bạc mà ông đang hoàn tất tại Atlantic-City mà thôi. Nằm giữa lâu đài Trump và Harrah s Marina, nó được thiết kế để vượt xa mấy cái kia với một kiến trúc bóng loáng tuyệt đẹp cùng các tháp và mái nhà vàng chói.
Ngày hôm nay, từ nơi hành lang ra vào, ông đang kiểm tra lại các hoạt động cho việc khai trương sẽ diễn ra trong một tuần lễ tới đây. Ông nghĩ “Mình đã thành công rồi! Mình đã thật sự thành công rồi”. Người ta đang trải thảm, treo các bức tranh, màn và vô số thùng rượu được chất đống sau quầy rượu.
Ông cần thiết phải vượt trên các đối thủ khác nơi đại lộ của mình, phải áp chế họ, phải phô trương sự thành công của mình. Tên nhóc từ dĩ vãng đã lớn lên trong khu West Side của Manhattan, đã phải rời bỏ mái trường lúc mười ba tuổi để đi rửa chén tại câu lạc bộ Stork, đã trèo lên đến đỉnh rồi và nó sẽ cho cái thế giới nhỏ bé này thấy khả năng nó làm được những gì.
Jimmy nhớ lại cái thời xa xưa đó, khi cánh cửa của nhà bếp bật mở để cho ông đưa mắt liếc nhìn tất cả những tên tuổi nổi tiếng đang ngồi kín phòng ăn của câu lạc bộ. Vào thời đó, họ đua nhau phô trương sự sang trọng, các minh tinh màn bạc và những người khác nữa. Vì không có một ai muốn xuất hiện trước công chúng trong bộ quần áo xốc xếch.
Các nhà xã luận đều có mặt mỗi tối tại bàn riêng của họ như Walter Winchell, Jimmy Van Horne, Dorothy Kilgallen. À Kilgallen! Chúa ơi, gần như một đám triều thần đang quấn quít quanh bà ta. Mục xã luận của bà trên tờ Journal American đang làm mưa làm gió, ai mà không muốn được bà nói đến chứ?
Mình đã chiêm ngưỡng họ, Jimmy nhớ lại trong lúc quan sát các thợ làm việc quanh ông. Và mình cũng đã học được trong nhà bếp tất cả những gì cần phải biết về cái nghề này. Nếu như ông bếp trưởng vắng mặt, mình dư sức thế chỗ ông ra. Ông đã leo lên từng bậc thang một: Phụ hầu bàn, sau đó là hầu bàn rồi đến chức maitre nhà hàng. Ở cái độ tuổi ba mươi, ông đã có đủ khả năng để điều khiển cái nhà hàng riêng của mình.
Ông đã học cách cư xử với những người tiếng tăm, làm cách nào phỉnh nịnh họ mà không mất đi phẩm giá của mình, làm sao đón tiếp họ một cách ân cần mà không quên cái mỉm cười khen thưởng cho mỗi người trong họ. Ông cũng hiểu cách phải đối xử với nhân viên, luôn nghiêm khắc nhưng rất công bằng. Kẻ nào định lừa bịp ông chưa bao giờ có cơ hội lần thứ hai. Chưa bao giờ!
Ông hài lòng nhìn người trưởng toán rầy la người thợ đặt thảm khi người này bỏ một dụng cụ trên cái bàn bằng gỗ quý xứ Guyanne dành cho việc ghi nhận đặt tiệc.
Xuyên qua các cửa kính rộng lớn, ông nhìn người ta sắp xếp các bàn đánh bạc trong căn phòng đồ sộ dành cho sòng bạc. Ông bước vào. Bên phải là các máy đánh bạc bằng tiền xu bóng loáng nằm thẳng hàng, như thể đang nôn nóng được hoạt động. Cũng sắp rồi nhé! Chỉ một tuần nữa và người ra sẽ xếp hàng trước mặt chúng. Nếu như ông trời muốn như thế!
Một bàn tay đặt trên vai ông.
– Không tồi, phải không Jimmy?
– Anh hoàn thành công việc chu đáo lắm Steve. Chúng ta sẵn sằng để khai trương vào ngày đã định.
Steve Abbott phì cười.
– Công việc chu đáo à? Phải nói là công việc tuyệt vời mới đúng chứ. Nhưng chính ông là người đưa ra ý tưởng này. Tôi chỉ là kẻ thực hiện mà thôi, tên khó chịu lúc nào cũng để ý đến mọi thứ. Nhưng tôi cũng muốn theo thời lắm chứ. Không hay chút nào hết khi vào đêm khai trương các người thợ còn đang bận vẽ nguệch ngoạc trên tường. Mọi việc sẽ hoàn tất. – Anh ta xoay người lại ông Landi. – Cynthia và tôi sẽ trở về New York. Ông định làm gì đây?
– Không, tôi sẽ nán lại đây thêm một thời gian nữa. Nhưng khi anh về đó, có thể nào anh gọi điện cho tôi được không?
– Được mà.
– Anh biết người thợ chỉnh sửa các bức tranh tường không?
– Gus Sebastiani à?
– Chính hắn. Đúng là một nghệ sĩ. Anh hãy liên lạc với hắn càng sớm càng tốt và yêu cầu hắn bôi hết các hình ảnh của Heather trên các bích họa đi.
– Jimmy à, ông có chắc là muốn điều đó không? – Steve Abbot quan sát gương mặt của người hùn vốn với mình. – Sau này ông sẽ hối tiếc đấy, ông biết không!
– Tôi không hối tiếc gì hết! Đã đến lúc phải làm việc đó rồi. – Bất ngờ ông xoay mặt đi. – Tốt hơn, anh nên làm chuyện đó đi.
Landi chờ vài phút, sau đó đi về cầu thang máy và nhấn nút vào tầng cuối cùng.
Trước khi ra về, ông muốn kiểm tra lại quầy bar piano một lần chót.
Đây là phòng có nhiều góc cạnh, thật ấm cúng, với nhiều cửa sổ tròn nhìn ra biển. Các tường được sơn màu xanh dương đậm, được trang trí bằng các khung nhạc màu bạc rải rác trong vài cụm mây. Đích thân ông Jimmy chọn các bản nhạc thích hợp, những bản nhạc quen thuộc mà Heather vẫn yêu thích.
Ông nhớ cô muốn đặt cho nơi đây cái tên Heather Plan. Con bé nó muốn đùa ấy thôi. Với nụ cười mỉm, ông sửa lại. Nó chỉ thích có phân nửa mà thôi.
Ông thầm nghĩ rằng chỗ này có thể là Heather Place lắm chứ, khi nhìn cách trang trí của nơi đây. Tên nó vẫn được khắc tại cửa ra vào, nhạc của nó được sơn trên tường rồi. Nó sẽ hiện hữu theo đúng ý muốn của nó, nhưng phải ngoài cái nhà hàng tại vì tại đó lúc nào ông cũng phải nhìn thấy mặt nó.
Ông phải loại bỏ quá khứ mới được.
Với vẻ căng thẳng, ông bước đến cửa sổ. Tít xa ở chân trời, vầng trăng khuyết lấp lánh trên mặt nước.
Heather.
Isabelle.
Ông thật sự mất hai người này rồi. Vì một lý do bí ẩn, ông thường nghĩ đến Isabelle hơn. Trước khi chết, bà đã bắt cô gái địa ốc trẻ kia hứa phải trao lại cho ông cuốn nhật ký của Heather. Cô ta tên gì nhỉ? Tracey, không. Lacey. Lacey Farrell. Đương nhiên là ông sẽ rất vui thích khi đọc cuốn nhật ký của cô con gái mình, nhưng trong đó có gì quan trọng đến thế chứ? Vì mới vừa cầm nó trong tay, bọn cớm lại đòi ngay để so với bản chính.
Ông không thể nào làm khác hơn là giao nó cho cảnh sất, nhưng thật miễn cưỡng. Ông đã đọc qua khi Lacey trao nó lại cho ông. Nhưng đến giờ ông vẫn còn đang phân vân. Thế ông phải tìm thấy điều gì trong đó? Ông đã phải nghĩ nát óc cho một việc không đâu. Heather đã ghi trong đó tất cả những chuyện lặt vặt mà một cô gái trẻ thường làm, các cuộc hẹn hò, các buổi tập dượt, các buổi tiếp tân. Đương nhiên là cô có viết trong đó những gì làm cho cô phải lo âu về ông.
Baba.
Lần duy nhất mà nó gọi mình bằng ba, là ngày mà nó tưởng mình giận nó.
Isabelle cho rằng có một âm mưu trong câu chuyện đó và do một sự trớ trêu của định mệnh, nạn nhân của sự tình cờ, chính bà đã chết dưới làn đạn của một tên côn đồ, giả danh người đến mua căn hộ để sau đó trở lại hành độc ác độc.
Một thảm kịch xưa như trái đất này mà Isabelle phải gánh chịu hậu quả. Bà đã hiện diện tại một địa điểm không thích hợp vào một lúc không đáng có mặt.
Và nếu như không phải thế thì sao? Jimmy Landi tự hỏi, không tài nào loại bỏ một chút nghi vấn còn lại đang ám ảnh ông. Có một hy vọng nào, dù cho nhỏ nhặt đến đâu đi nữa, cho thấy là bà ta có lý không, rằng cái chết của Heather không phải do tai nạn? Ba ngày trước khi Isabelle chết, một nữ phóng viên của tờ Post đã viết là người mẹ của Heather, bà Isabelle Waring, một cựu nữ hoàng sắc đẹp “đã nghi ngờ một cách chính đáng là cái chết của người diễn viên trẻ không phải do tai nạn”.
Được cảnh sát hỏi cung, người nữ phóng viên đó nhìn nhận là tình cờ gặp bà và nghe bà nói về các luận thuyết của bà liên quan đến cái chết của cô con gái mình.
Còn về ý kiến cho rằng người này có một chứng cớ nào đó như quả quyết, đó chỉ là sự bịa đặt hoàn toàn của người phóng viên ấy mà thôi.
Cái chết của Isabelle có liên quan gì đến bài báo đó không? Có thể người nào đó đã hoảng sợ không?
Đó là những câu hỏi mà Jimmy luôn không bao giờ nghĩ đến. Nếu như một người nào đó ám sát Isabelle để cho bà ta không mở miệng được, thì cũng chính người đó đã cố tình gây ra cái tai nạn làm cho Heather phải chết cháy trong chiếc xe hơi ở dưới đáy một vực sâu.
Tuần vừa rồi, cảnh sát đã giải tỏa căn hộ và ông đã yêu cầu văn phòng địa ốc rao bán nó. Ông phải kết thúc chuyện này thôi. Nhưng trước hết ông muốn đích thân đến chỗ đó. Ngoài ra ông còn thuê một thám tử tư để bảo đảm rằng cảnh sát không bỏ sót một chứng cớ nào hết. Ông phải nói chuyện với Lacey Farrell.
Các tiếng đập liên hồi rốt cuộc cũng chiếm lấy tâm trí ông. Ông nhìn quanh mình. Đã đến lúc phải đi rồi. Bằng một bước chân nặng nề, ông bước ra ngoài hành lang. Ông đóng các cánh cửa bằng gỗ đào hoa tâm phía sau lưng mình, đứng trước đó để ngắm nhìn chúng. Một người họa sĩ đã vẽ các chữ bằng vàng được đặt cho nơi này. Một hay hai ngày tới chúng sẽ gắn vào.
“Heather Placa” Người ta sẽ thấy như thế để tưởng nhớ đến đưa con gái thân yêu của Baba, ông nghĩ ngợi. Nếu như bố tìm được kẻ nào đó cố tình hãm hại con, đứa con gái thân yêu của bố, tự tay bố sẽ giết chết nó chớ không một ai khác hết. Bố hứa với con như thế.