Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp

CHƯƠNG 9 ULYSSES ĐÁNH CẮP ĐƯỢC VẬT THIÊNG CỦA THÀNH TROY NHƯ THẾ NÀO



Sau lễ mai táng của Hector, diễn biến cuộc chiến diễn ra với nhịp độ rất chậm giống như chín năm đầu của cuộc chiến tranh. Vào thời gian đó, quân Hy Lạp không biết làm thế nào để bao vây một thành phố. Như chúng ta vẫn thấy trong các cuộc chiến khác, muốn vây hãm một thành người ta thường đào hào xung quanh và xây những tòa tháp, tấn công các bức tường bằng máy ném đá. Trên thực tế, những phương pháp kia hoàn toàn có thể làm được mà không cần bất cứ một vật dụng hiện đại nào, chỉ có điều vào thời đó họ chưa thể nhận thức được và chưa nghĩ ra được những biện pháp hay. Phần lớn các cuộc chiến là đấu sức, ít liên quan đến đấu trí. Quân Troy gần như đã mất hết khí thế và không dám ra bên ngoài vùng đồng bằng trống. Họ chỉ biết rút quân bên trong thành và đợi sự viên trợ mới của đồng minh là quân đội Amazon. Đó là lực lượng quân đội bao gồm những nữ chiến binh quả cảm, họ sống ở một vùng đất rất xa và người phương Đông gọi họ là Khita. Đức vua của tộc người này là Memnon, con trai của thần Bình Minh.

Tất cả mọi người đều biết rằng trong đền thờ của nữ thần Pallas Athen trong thành Troy có một vật thiêng rơi từ thiên đàng xuống được gọi là Palladium. Vật thiêng này chính là Vật thiêng của thành Troy và theo quan niệm của mọi người đó chính là vật bảo vệ cho thành. Một khi Vật thiêng còn an toàn trong đền thờ thì tất cả mọi người đều tin rằng thành Troy không bao giờ bị đánh bại. Vật thiêng này được đặt ở trong một đền thờ có nhiều người bảo vệ ở giữa thị trấn và các nữ tu thay phiên nhau túc trực, canh chừng vật thiêng cả ngày lẫn đêm. Nhìn bề ngoài thì có thể khẳng định rằng quân Hy Lạp không thể lẻn vào bên trong thành phố để lấy đi Vật thiêng của thành. Phía thành Troy thì yên tâm rằng, Vật thiêng còn thì họ sẽ không bao giờ bị chiếm mất thành; trong khi đó, quân Hy Lạp thì cho rằng nếu không lấy được Vật thiêng kia thì dù thế nào đi chăng nữa họ cũng không thể tiến sâu vào bên trong.

Như chúng ta đã biết, Ulysses chính là cháu ngoại của kẻ trộm bậc thầy nên chàng thường ước giá như có ông ngoại ở đây cùng quân Hy Lạp thì tốt biết mấy. Có ông ngoại của chàng thì chắc chắn Vật thiêng của thành Troy sẽ biến mất khỏi thành mà ngay cả những người trong thành cũng không thể nào biết được tại sao nó lại biến mất. Tuy nhiên, vào thời gian đó, Autolycus hay ông ngoại của Ulysses đã chết và tất cả những gì Ulysses có thể làm là cố gắng vận dụng những gì chàng được thừa hưởng của ông để nghĩ ra cách đánh cắp Vật thiêng của thành Troy. Chàng tự hỏi nếu gặp trường hợp này thì ông ngoại của mình sẽ làm như thế nào và tin rằng điều đó không thể làm khó ông. Chàng bí mật cầu nguyện thần trộm Hermes và tế dê dâng lên thần. Chàng cầu nguyện rất thành tâm và may mắn thay cuối cùng chàng cũng nghĩ ra một kế hoạch.

Mọi người kể lại rằng Anius, vua của đảo Delos có ba người con gái tên là Oeno, Spermo và Elais. Cả ba cô con gái này đều có những khả năng hết sức đặc biệt mà không phải ai cũng có được: Oeno có thể biến nước thành rượu, trong khi Spermo lại có khả năng biến đá thành bánh mỳ, còn Elais có thể biến bùn thành dầu ôliu. Đó quả là những khả năng phi thường mà ngoài họ ra, chỉ có các vị thần mới có được. Theo như nhiều người kể lại, đó chính là món quà mà thần Rượu Dionysus, nữ thần Ngô Demeter ban tặng cho các nàng. Trong thời gian chiến tranh thì những thực phẩm như ngô, rượu và dầu rất cần thiết đố quân Hi Lạp. Vàng có quý thật nhưng họ lại không thể ăn vàng, và vàng không thể giúp họ duy trì sự sống. Mặt khác, họ cũng quá mệt mỏi khi phải trả một lượng vàng và đồng khổng lồ cho những lái buôn người Phoenix để đổi lấy nguồn cung cấp lương thực. Những lái buôn này lợi dụng tình hình chiến sự cam go để kiếm lời cho bản thân mình. Chính vì vậy, một hôm Ulysses đến gặp Agamemnon và đề nghị Agamemnon để chàng đáp thuyền đến đảo Delos để đưa ba người con gái có khả năng đặc biệt kia đến trại nếu thực sự họ làm được những điều thần kỳ như vậy. Với sự trợ giúp của ba cô, quân Hy Lạp không bao giờ phải lo lắng đến sự thiếu thốn về lương thực, thực phẩm. Vì thời gian đó, chiến tranh tạm thời lắng xuống nên Agamemnon đồng ý để Ulysses đi. Vậy là chàng dũng sĩ cùng với năm mươi chàng trai Ithaca lên thuyền ra khơi làm nhiệm vụ. Theo dự kiến, họ sẽ trở về trong vòng một tháng.

Hai hay ba ngày sau, người ta nhìn thấy một người ăn xin già bẩn thỉu trong doanh trại của quân Hi Lạp. Vào một buổi chiều muộn, người ăn xin trong bộ quần áo rách nát, bẩn thỉu bò lê lết trong căn cứ quân Hi Lạp. Không ai biết ông ta từ đâu đến và tại sao lại đến bãi chiến trường này. Chiếc áo choàng ông ta mặc trên người là da hoẵng nhưng bộ da đã sờn hết theo thời gian, ông cũng cầm một chiếc gậy và một chiếc túi nhỏ để đựng thức ăn. Chiếc túi treo lủng lẳng ở sườn bằng một sợi dây buộc quanh eo. Đầu tiên, người ăn mày đến cửa lều của Diomede, ông vừa ho, vừa mỉm cười với vẻ thân thiện rồi ngồi sụp xuống cửa ra vào như muốn xin ăn. Thấy vậy, Diomede đưa cho ông ta một ổ bánh mì, hai miếng thịt khá to để người ăn mày ăn dần. Ngay lập tức ông ta cảm ơn sự tốt bụng của Diomede, cất số thức ăn trong túi rồi ngồi dạng háng ăn bữa tối một cách ngon lành giống như một con chó đang gầm gừ xung quanh đống xương.

Sau bữa tối, Diomedes hỏi người ăn mày xem ông ta là ai, ông ta từ đâu đến, tại sao lại lạc đến nơi này. Người đàn ông kể cho chàng nghe một câu chuyện rất dài kể từ khi ông ta còn là một tay cướp biển ở vùng Cretan và bị người Ai Cập bắt làm tù binh như thế nào, rồi ông ta trở thành một tên cướp ra sao, làm việc nhiều năm ở khu khai thác đá như thế nào. Ông ta kể rằng, ông ta đã phải làm việc hết sức vất vả ở nơi khai thác đá, tại đây mặt trời, gió mưa đã khiến làn da của ông ta trở thành màu nâu đất như thế này. Không chịu được cảnh khổ cực, ông ta đã chạy trốn bằng cách nấp trong những tảng đá lớn được vận chuyển xuống hạ lưu sông Nile trên những chiếc bè lớn để xây dựng đền thờ trên bãi biển. Chiếc bè đến được đích vào ban đêm và người ăn mày đã lợi dụng cảnh trời tối mà trốn thoát. Sau đó, ông ta phát hiện ra một chiếc thuyền của người Phoenician đậu trong cảng và những lái buôn đã đưa ông ta lên thuyền định sẽ đem bán ông ta làm nô lệ cho những ông chủ giàu có. Tuy nhiên, thật không may là có một trận bão lớn ập đến, làm đắm chiếc thuyền và đưa nó trôi dạt vào đảo Tenedos gần thành Troy. Người ăn mày đã may mắn trốn thoát trên một tấm ván còn sót lại của con thuyền. Từ Tenedos, ông ta đến thành Troy trên một chiếc thuyền đánh cá với hi vọng mình sẽ có thể làm được điều gì đó, hoặc có thể mọi người trong doanh trại sẽ sử dụng ông ta. Tất cả những gì ông ta mong muốn là có thể giữ linh hồn mình trong thể xác tàn tạ này cho đến khi ông ta tìm được một con thuyền quay trở về Crete.

Con người này có cách kể chuyện khá lôi cuốn, khiến các tình tiết trong câu chuyện trở nên thú vị, thu hút người nghe. Ông ta miêu tả những cách sinh hoạt và những thói quen kỳ lạ của người Ai Cập, về việc họ sùng bái mèo và bò như thế nào và những cách họ làm mọi việc trái ngược với người Hy Lạp ra sao. Càng nghe ông ta kể chuyện, Diomedes càng tỏ ra hứng thú, đặc biệt, cách dẫn dắt của ông ta khiến mọi người ngay lập tức tin rằng đó là sự thật. Chính vì vậy, chàng Diomedes của chúng ta đã cho ông ta một tấm thảm và chăn để ngủ ở cổng lều. Ngày hôm sau, kẻ ăn mày kia bắt đầu đi xen ăn quanh doanh trại và nói chuyện với binh lính. Không thể phủ nhận được một điều, mặc dù ở trong bộ dạng bẩn thỉu, nhưng cách nói chuyện của ông ta thật thú vị, khiến người nghe thấy thích thú. Ban đầu thì mọi người còn nói chuyện nhiều nhưng càng ngày ông ta càng thay đổi và trở nên khó có thể chấp nhận được. Rồi đến một lúc, ông ta trở thành một kẻ lêu lổng láo xược, khó chịu nhất và luôn có mặt trong tất cả các cuộc cãi vã. Nếu biết được chuyện bất đồng giữa cha hay ông của các hoàng tử, thì ngay lập tức ông ta đều biết rất rõ và đi kể với người khác. Cho đến một hôm, chính vì cái tính hay chuyện của ông ta mà Agamemnon đã tát cho ông ta một cái, còn Ajax tặng cho ông ta một cú đá khá mạnh, còn Idomeneus cũng không ngần ngại đâm cho kẻ lắm mồm này một nhát vì dám nói xấu bà của chàng, những người khác thì ai cũng ghét ông ta và gọi ông ta là kẻ phiền phức. Thậm chí con người này còn từng cười nhạo Ulysses mặc dù chàng đang ở xa và kể câu chuyện về ông ngoại chàng là Autolycus. Cuối cùng, hắn ta đánh cắp chiếc cốc bằng vàng rất lớn có tay cầm, mỗi bên tay cầm có một chú bồ câu từ lều của Nestor. Người chỉ huy già rất thích chiếc cốc của mình, ông đã mang nó từ nhà đến đây và ngày nào cũng ngắm nghía nó. Khi phát hiện ra chiếc cốc trong túi bẩn thỉu của kẻ ăn mày, mọi người hét lên rằng chắc chắn hắn ta phải bị đá đít ra khỏi lều và nếm đủ mùi doi da. Con của Nestor là Thrasymedes cùng với những người đàn ông trẻ khác vừa cười vừa lôi kẻ ăn xin lắm chuyện đến cổng Scaean của thành Troy. Tại đây, Thrasymedes hét lớn:

– Bọn tôi đã mệt mỏi với tên ăn xin này lắm rồi. Hắn ta thật trơ tráo, không biết thế nào là xấu hổ. Nếu hắn dám quay trở lại thì đầu tiên, chúng tôi cho hắn ăn no doi da, sau đó sẽ chặt tay và chân của hắn rồi ném cho chó ăn. Nếu hắn ta thích thì hắn ta sẽ đến với các người, nếu không, hắn ta sẽ tiếp tục lang thang cho đến khi hắn chết vì đói.

Những người trẻ tuổi ở thành Troy nghe thấy điều này và cười lớn. Một đám đông những người hiếu kỳ tập trung lại cạnh tường thành để xem cảnh người ăn xin mà theo những người chàng trai trẻ vừa nãy nói là đáng ghét bị trừng phạt. Thraymedes liên tục quất roi da vào người ăn mày cho đến khi chàng mệt mỏi và không chịu rời đi cho đến khi kẻ ăn mày kia thôi không la hét nữa, ngã gục xuống dưới đất, máu chảy bê bết và nằm im bất động. Sau đó Thrasymedes dành cho kẻ ăn mày một cú đá tạm biệt và bỏ đi cùng bạn bè mình. Kẻ ăn mày nằm im lặng một lúc, sau đó hắn cử động rồi ngồi dậy, lau nước mắt rồi hét lớn chửi thề và thốt ra những lời nói cay độc về quân Hi Lạp. Hắn cầu nguyện rằng quân Hy Lạp sẽ bị đâm đằng sau lưng và bị chó ăn thịt. Tất nhiên, trước mặt những chàng trai trẻ kia hắn không dám nói gì bởi nếu mắng chửi họ thì tất cả những gì hắn có thể nhận chỉ là những cú đòn chí tử. Phải chịu ngần ấy sự đánh đập đối với hắn ta quả cũng đã đủ lắm rồi.

Cuối cùng hắn cố gắng đứng dậy nhưng cứ mỗi lần như vậy, hắn lại ngã giúi xuống mặt đất. Thấy không thể đi được bằng hai chân, hắn bò lê lết, cố gắng lê đến cổng Scaean. Đến nơi hắn ngồi dậy ở ngay giữa cổng rồi khóc lớn và than vãn thảm thương. Tại sao ông trời lại đối xử với hắn bất công như vậy, tại sao lại bắt hắn chịu đựng những cảnh khốn khổ như thế này. Hắn khóc như một đứa trẻ bị bố mẹ đánh đòn nhưng lại không được vỗ về, an ủi. Một lúc sau, nàng Helen xinh đẹp đi xuống phía dưới, nàng cảm thấy thương xót cho người ăn mày bởi hắn bị đối xử còn tồi tệ ơn một con vật. Nàng là người có trái tim nhân hậu và không thể chịu đựng được khi nhìn thấy ai đó bị đối xử tồi tệ. Nàng hỏi người ăn mày xem tại sao hắn lại bị đối xử một cách dã man như vậy?

Đầu tiên, hắn chỉ rên rỉ và nhẹ nhàng xoa vết thương ở hai bên, một lát sau hắn quay sang kể lể rằng hắn là một người đàn ông bất hạnh, rằng phía quân Hy Lạp nghi ngờ hắn là gián điệp bên phía quân Troy gài sang do thám. Tuy nhiên, hắn nói rằng hắn quê ở Lacedaemon, quê hương của Helen và có thể kể cho nàng biết tình hình về cha và các anh trai của nàng là Castor và Polydeuces, cùng với người em gái nhỏ Hermione. Hắn tuyên bố hắn biết rõ rất cả mọi chuyện về họ và có thể kể cho nàng nghe một cách chỉ tiết bởi hắn tin từ lâu rồi nàng chẳng hề biết tin tức gì về những người thân yêu của mình. Hắn nói:

– Có lẽ quý bà đây không phải là một người phụ nữ bình thường mà là một nữ thần nào đó yêu quí quân Troy. Nếu thực sự, bà là một nữ thần thì tôi tin rằng bà là thần Aphrodite bởi chỉ có nữ thần mới có được vẻ đẹp quyến rũ, nét dịu dàng và sự duyên dáng đến nhường ấy.

Nghe xong, Helen khóc nức nở bởi rất nhiều năm rồi nàng không nghe được bất cứ tin tức nào về cha nàng, em gái và các anh trai của nàng nữa. Nàng không biết rằng các anh trai của mình đã chết nên khi nghe thấy người ăn mày nói như vậy, nàng đã rất đau khổ: Tại sao những người thân yêu của nàng đều lần lượt ra đi như vậy. Helen dang tay ra đỡ người ăn mày dậy rồi đưa hắn vào trong nhà mình phía trong vườn lâu đài của vua Priam. Nàng không câu nệ đó là một kẻ ăn mày bẩn thỉu, bị mọi người khinh ghét, mà quan trọng hơn, hắn thật tội nghiệp và đã kể cho nàng nghe tình hình của những người thân của nàng.

Helen đi trước cùng hai người hầu gái bên cạnh và người ăn mày lê bước theo sau. Khi nàng bước vào trong nhà thì thấy chồng nàng, Paris không có ở đó. Chàng ra lệnh cho nữ tì chuẩn bị bồn tắm nước ấm và quần áo mới cho người đàn ông tội nghiệp kia. Đích thân nàng đã tắm cho người ăn mày già và sức dầu thơm cho hắn ta. Điều này có vẻ như rất lạ đối với chúng ta, từ trước đến giờ chúng ta mới nghe nói tới thánh Elizabeth của nước Hungary tắm và mặc quần áo cho những kẻ ăn mày, còn về phần mình, Helen không nên làm như vậy bởi nàng không phải là thánh mà chỉ là một phụ nữ bình thường. Tuy nhiên, về sau này nàng nói với con trai của Ulyssess là Telemachus rằng nàng đã từng tắm cho cha chàng khi cha chàng đến thành Troy và cải trang giống như một kẻ ăn mày bị kẻ khác đánh đập đau đớn. Tại sao lại có câu chuyện như vậy?


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.