Thứ Sáu, 8 tháng Tư
Modig và Holmberg đến Ga Trung tâm Goteborg đúng 8 giờ sáng. Bublanski đã gọi để chỉ thị cho họ. Họ có thể dẹp đi chuyện tìm taxi để đến ban chỉ huy cảnh sát ở Ernst Fontells Plats, trụ sở của cảnh sát hình sự Miền tây Gotaland. Họ chờ gần một tiếng đồng hồ, thanh tra Erlander mới từ Gosseberga đến cùng Blomkvist. Blomkvist chào Modig, trước đây anh đã gặp chị, và bắt tay Holmberg mà anh chưa biết. Một đồng sự của Erlander đến đem cho họ tin mới nhất về chuyện săn lùng Niedermann. Ðó là một báo cáo ngắn.
– Chúng tôi có một nhóm hoạt động với sự trợ giúp của cảnh sát hình sự tỉnh. Một lệnh truy nã dĩ nhiên đã được tung đi. Sáng nay đã tìm thấy ở Alingsas chiếc xe tuần tra bị mất. Cuộc dò tìm đến nay kết thúc ở đây. Chúng tôi cần giả định là hắn đã đổi xe nhưng chúng tôi không thấy có báo cáo nào về các xe bị đánh cắp.
– Báo đài thế nào? – Modig hỏi, vẻ xin lỗi liếc nhìn Blomkvist.
– Ðây là giết cảnh sát và báo chí đã ném hết quân ra rồi. Chúng tôi sẽ có một cuộc họp báo lúc 10 giờ.
– Có ai có tin gì về tình hình Salander không? – Blomkvist hỏi. Anh cảm thấy dửng dưng lạ lùng với mọi sự liên quan đến việc săn lùng Niedermann.
– Mổ cả đêm cho cô ấy. Họ lấy ở trong đầu cô ấy ra một viên đạn. Cô ấy chưa tỉnh lại.
– Có chẩn đoán gì về bệnh trạng không?
– Như tôi hiểu thì cho đến khi cô ấy tỉnh lại, chúng ta sẽ không biết gì hết. Nhưng bác sĩ mổ nói cô ấy có nhiều hy vọng sống sót, đã ngừa được các rắc rối bất trắc.
– Còn Zalachenko?
– Ai? – Ðồng sự của Erlander hỏi. Ông chưa được cập nhật mọi chi tiết.
– Karl Axel Bodin.
– Tôi biết… Vâng, ông ta cũng được mổ đêm qua. Ông ta bị một vết chém rất sâu vào giữa mặt và một vết nữa ở ngay dưới xương đầu gối. Ông ấy bị nặng nhưng các vết thương không đe dọa đến tính mạng.
Blomkvist đành phải nuốt cái tin này.
– Nom anh mệt, – Modig nói.
– Chị nói đúng. Tôi đã sang ngày thứ ba gần như không có ngủ nghê gì.
– Tin hay không tùy, nhưng suốt từ Nosssebro xuống đây, ở trên xe anh ấy toàn ngủ, – Erlander nói.
– Không thể cố kể lại với chúng tôi từ đầu cho đến đuôi câu chuyện ư? – Holmberg nói. – Nghe cứ như giữa điều tra dân sự với điều tra của cảnh sát có tỉ số là 3-0 đấy.
Blomkvist mỉm cười nhợt nhạt với ông.
– Tôi muốn nghe được điều này từ Ngài sĩ quan Bong bóng.
Họ đi đến căng tin của cảnh sát để ăn điểm tâm. Blomkvist bỏ nửa giờ ra giải thích anh đã từng bước một xâu chuỗi lại như thế nào câu chuyện về Zalachenko. Lúc anh nói xong, các thám tử im lặng.
– Có một ít lỗ hổng trong câu chuyện của anh, – Cuối cùng Holmberg nói.
– Có thể như thế, – Blomkvist nói.
– Thí dụ anh không nói làm sao anh lại có được báo cáo tuyệt mật của Sapo về Zalachenko.
– Tôi tìm thấy nó hôm trước ở nhà Lisbeth Salander lúc tôi mò ra nơi cô ấy ở. Chắc cô ấy đã tìm thấy nó trong căn nhà nghỉ hè của Bjurman.
– Vậy anh đã phát hiện ra chỗ Salander ẩn nấp? – Modig nói.
Blomkvist gật.
– Và?
– Chỗ ấy thì các vị sẽ phải tự tìm lấy. Salander mất rất nhiều công để tạo lấy một địa chỉ bí mật cho cô ấy và tôi thì không có ý để lộ nó ra.
Modig và Holmberg lo ngại nhìn nhau…
– Mikael, đây là điều tra án mạng, – Modig nói.
– Các vị vẫn chưa hiểu, đúng không? Thực tế, Lisbeth Salander là một cô gái vô tội nhưng bằng những cách đểu giả cảnh sát đã xúc phạm cô ấy, hủy hoại thanh danh cô ấy. “Băng đảng đồng tính ái nữ tôn thờ quỷ Satan”… Các vị lấy ở chỗ quái nào ra cái thứ ấy? Chưa nói Salander còn bị truy nã vì dính đến ba vụ án mạng mà cô ấy chả hề liên quan gì hết. Nếu cô ấy muốn báo các vị chỗ cô ấy ở thì tôi chắc là cô ấy sẽ báo thôi.
– Nhưng có một khe hở nữa mà tôi thực sự không hiểu, – Holmberg nói. – Thế nào mà trong câu chuyện này Bjurman lại nổi lên hàng đầu như thế cơ chứ? Anh nói bằng việc tiếp xúc với Zalachenko và nhờ lão giết Salander, Bjurman là người gây ra tất cả cơ sự này. Tại sao hắn lại làm thế?
– Tôi cho là hắn đã thuê Zalachenko thanh toán dứt Salander. Kế hoạch là để cho cô ấy toi đời trong căn nhà kho ở Nykvarn.
– Hắn là người giám hộ của Salander. Động cơ gì khiến hắn phải thanh toán dứt cô ấy?
– Chuyện phức tạp.
– Tôi có thể hiểu được chuyện phức tạp.
– Hắn thừa động cơ cho việc này. Hắn đã làm một cái gì đó mà Salander biết. Cô ấy thành mối đe dọa cho toàn bộ tương lai và hạnh phúc của hắn.
– Hắn đã làm gì?
– Tôi nghĩ nếu ông cho Salander một cơ hội tự nói rõ ra câu chuyện thì tốt hơn. – Anh nhìn chăm chăm vào mắt Holmberg.
– Ðể tôi đoán, – Modig nói. – Bjurman đã cưỡng bức tính dục như thế nào đó với cô gái mà hắn giám hộ…
Blomkvist nhún vai, không nói không rằng.
– Anh không biết hình xăm ở bụng Bjurman ư?
– Hình xăm nào? – Blomkvist giật mình.
– Một hình xăm nghiệp dư chạy ngang bụng hắn với dòng chữ đề: Tôi là một con lợn bạo dâm, một đứa sa đọa, một đứa hiếp dâm. Chúng tôi đang nghĩ cái đó nói lên điều gì.
Blomkvist cười phá lên.
– Gì mà vui thế?
– Tôi luôn nghĩ cô ấy làm gì đây để trả thù. Nhưng xin nghe… tôi không muốn bàn đến chuyện này vì lý do thì cũng là cái tôi đưa ra lúc nãy. Ở đây cô ấy là nạn nhân thực sự. Cô ấy mới là người quyết định xem cần nói gì với các vị. Xin lỗi.
Anh nom vẻ gần như ân hận.
– Hiếp dâm thì luôn cứ là nên báo cáo với cảnh sát, – Modig nói.
– Tôi đồng ý với chị. Nhưng chuyện hiếp dâm xảy ra đã hai năm trước và Lisbeth vẫn chưa nói chuyện đó với cảnh sát. Có nghĩa là cô ấy không định nói. Về chuyện này, việc tôi không tán thành với cô ấy đến đâu không quan trọng, quyết định là do cô ấy. Dù gì thì…
– Vâng, thì sao?
– Cô ấy không có lý do hay ho nào để tin tưởng cảnh sát. Lần cuối cùng định giải thích Zalachenko là một con lợn như thế nào thì cô ấy đã bị đem giam lại ở bệnh viện tâm thần.
o O o
Khi bảo thanh tra Bublanski, người cầm đầu nhóm điều tra ngồi xuống trước mặt mình, Richard Ekstrom, người chỉ huy cuộc điều tra sơ bộ, cảm thấy không vững dạ. Ông chỉnh lại kính, xoa nắn chòm râu dê vốn được ông săn sóc công phu. Ông cảm thấy tình hình rối ren và không ổn. Ông đã săn tìm Lisbeth Salander hàng tuần. Ông đã đích thân tuyên bố khắp nơi nơi rằng cô là một bệnh nhân nguy hiểm, tâm thần rối loạn. Ông đã cho lọt đi thông tin để nó sẽ yểm hộ ông trong một phiên tòa sắp tới. Mọi sự nom đã rất tốt đẹp.
Trong đầu ông không hề nghi ngờ chuyện Salander gây ra ba vụ án mạng. Phiên tòa xét xử tới đây sẽ ngon lành, nó thuần túy là một màn xiếc thông tin đại chúng với ông ở chính giữa sân khấu. Thế rồi mọi cái đâm ra bát nháo và ông thấy mình đang đứng trước một hung thủ khác hẳn, cùng với một mớ bòng bong xem chừng như sẽ không có kết thúc ở trước mắt. Cái con quỷ cái Salander này.
– Ðược, chúng ta đã hạ cánh vào phải một bụi rậm gai góc, – Ông nói. – Sáng nay các ông đã làm được những gì và đến đâu?
– Ðã phát đi toàn quốc lệnh truy nã Ronald Niedermann nhưng không có dấu hiệu gì về hắn cả. Hiện hắn mới chỉ bị lùng kiếm vì vụ giết cảnh sát Gunnar Ingemarsson, nhưng tôi thấy trước là chúng ta sẽ có cơ sở để lên án hắn về ba vụ án mạng ở Stockholm. Có lẽ ông nên mở một cuộc họp báo.
Đưa ra gợi ý họp báo này hoàn toàn là do Bublanski muốn chơi ngang. Ekstrom ghét họp báo.
– Tôi nghĩ lúc này ta nên hoãn họp báo.
Bublanski không nhịn được mỉm cười.
– Trước hết đây là việc của cảnh sát Goteborg, – Ekstrom nói.
– À, chúng tôi có Modig và Holmberg tại hiện trường ở Goteborg và chúng tôi đã bắt đầu cộng tác với…
– Chúng ta hoãn họp báo cho tới khi biết được nhiều hơn, – Ekstrom cộc lốc nhắc lại. – Điều tôi muốn biết là: sao các vị lại chắc chắn rằng Niedermann liên quan thực sự đến ba vụ án mạng ở Stockholm?
– Tôi nhận xét cảm tính ư? Tôi là lý tính trăm phần trăm. Mặt khác, vụ này đúng ra không khó phá. Chúng ta không có nhân chứng về các vụ án mạng, không có bằng chứng pháp y thỏa mãn. Lundin và Nieminen ở Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo đang không chịu nói gì – họ tuyên bố không hề nghe đến Niedermann bao giờ. Thế mà hắn lại sắp bị tù vì giết cảnh sát Ingemarsson.
– Ðúng, – Ekstrom nói. – Vụ giết cảnh sát đang là chuyện chính lúc này. Nhưng hãy bảo tôi: có thể có cái gì đó gợi ý ra rằng Salander có thể bằng cách nào đó đã dính líu đến các vụ án mạng kia không? Có thể như thế nào đó cô ấy đã cùng với Niedermann làm các vụ án mạng kia không?
– Tôi rất ngờ điều này, và nếu là ông thì tôi không có dại nói cái lý lẽ ấy ra với công chúng đâu.
– Vậy sao cô ấy lại đang bị liên quan?
– Đây là một chuyện rắc rối mà ngay từ đầu Blomkvist đã sớm nói ra. Nó xoay quanh tay Zala à… Alexander Zalachenko này.
Ekstrom chột dạ nghe đến tên Blomkvist.
– Nói tiếp đi, – ông nói.
– Zala là một sát thủ chuyên nghiệp người Nga – rõ ràng không có được một chút lương tâm nào – bỏ trốn hồi những năm 70 và Salander không may đã là con gái hắn. Hắn được một cánh trong Sapo bảo lãnh hay nâng đỡ, cánh này đã thu dọn sạch sẽ mọi tội ác của hắn. Một sĩ quan cảnh sát biệt phái sang Sapo cũng đã lo được chuyện đem nhốt Salander vào một bệnh viện tâm thần của trẻ con. Cô ấy mười hai tuổi và là mối đe dọa cho tung tích của Zalachenko, bí danh của hắn, tất cả cái vỏ bọc của hắn lộ tóe loe ra.
– Cái này hơi khó tiêu đây. Khó mà trở thành một câu chuyện đưa ra cho công chúng được đây. Nếu tôi hiểu đúng thì tất cả những gì về Zalachenko đều được xếp vào hạng tuyệt mật.
– Nhưng đây là sự thật. Tôi có tư liệu.
– Tôi xem được không?
Bublanski đẩy qua bàn một tập hồ sơ, trong là một báo cáo của cảnh sát đề năm 1991. Ekstrom soi xét kỹ con dấu cho hay tư liệu này thuộc loại Tối mật còn con số đăng ký thì ông nhận ra ngay là của Cảnh sát An ninh. Ông lật nhanh khoảng trên dưới một trăm trang giấy, đọc nhảy đây đó vài đoạn. Cuối cùng ông để tập hồ sơ sang bên.
– Cần làm cho nó nhẹ bớt đi kẻo không thì hóa ra là chúng ta đã hoàn toàn để mất kiểm soát tình hình. Vậy là vì đã cố giết bố…, tay Zalachenko này, mà Salander bị nhốt trong một bệnh viện tâm thần. Và nay thì tấn công bố bằng một chiếc rìu. Diễn giải thế nào thì cũng là đã có ý giết. Rồi lại còn bị khép vào tội bắn Magge Lundin ở Stallarholmen nữa chứ.
– Ông muốn bắt ai thì bắt nhưng tôi mà là ông thì tôi sẽ phải chui luồn cho cẩn thận.
– Rò rỉ ra việc Sapo dính líu thì tai tiếng cứ là phải rầm trời.
Bublanski nhún vai. Việc của ông là điều tra tội ác chứ đâu phải là dọn dẹp tai tiếng.
– Cha ba láp ở Sapo kia, gã Gunnar Bjorck. Các vị biết gì về vai trò của cha ấy?
– Hắn là một trong những vai chính. Bị lệch một đĩa cột sống, hắn đang nghỉ ốm và hiện ở Smadalaro.
– OK… Hiện thời chúng ta hãy giữ kín việc Sapo dính líu vào chuyện này. Còn ngay bây giờ thì hãy tập trung vào vụ giết sĩ quan cảnh sát.
– Sẽ khó mà giữ kín được chuyện này.
– Ý ông là sao?
– Tôi đã cử Andersson đưa Bjorck đến để thẩm vấn chính thức. Việc đó có lẽ đang diễn ra… – Bublanski nhìn đồng hồ – vào lúc này.
– Ông sao?
– Tôi mong nhất là được thú vị tự lái xe đến Smadalaro nhưng các sự kiện xung quanh việc giết người đêm hôm qua hóa ra lại thành ưu tiên mất rồi.
– Tôi chưa cho phép bất cứ ai bắt Bjorck hết.
– Ðúng thế. Nhưng đây đâu có phải là bắt. Chỉ là đem hắn đến để hỏi thôi.
– Bất kể thế nào tôi cũng không thích làm thế.
Bublanski nhoài ra, gần như để tâm sự riêng.
– Richard… chuyện nó là như thế đấy. Ngay từ khi còn bé Salander đã phải chịu đựng một số vi phạm về quyền lợi. Một khi đã biết việc này, tôi sẽ không để nó tái diễn nữa. Ông định cất tôi ra khỏi việc lãnh đạo cuộc điều tra nhưng nếu ông làm thế, tôi sẽ buộc phải viết một bản ghi nhớ gay gắt về chuyện này.
Ekstrom nom như nuốt phải một cái gì rất đắng.
o O o
Gunnar Bjorck, Phó trưởng phòng Nhập cư của Cảnh sát An ninh đang nghỉ ốm, mở cửa căn nhà nghỉ mùa hè ở Smadalaro ra, ngước lên thấy một người đàn ông cao to lực lưỡng, tóc vàng, mặc jacket da đen.
– Tôi tìm Gunnar Bjorck.
– Tôi đây.
– Curt Andersson, cảnh sát hình sự tỉnh. – Người đàn ông đưa thẻ căn cước ra.
– Vâng?
– Ông được yêu cầu đi với tôi đến Kungsholmen để giúp cảnh sát trong việc điều tra vụ án liên quan đến Lisbeth Salander.
– Ơ, chắc là có nhầm lẫn thế nào rồi.
– Không có nhầm lẫn, – Andersson nói.
– Ông không hiểu rồi. Bản thân tôi cũng là sĩ quan cảnh sát. Ông đừng để cho mình phạm phải một sai sót lớn đi: hãy kiểm tra lại việc này với các sĩ quan cấp trên của ông đi.
– Cấp trên của tôi đang muốn nói chuyện với ông.
– Tôi cần gọi điện thoại rồi…
– Ông có thể gọi ở Kungsholmen.
Bjorck cảm thấy người hắn thình lình mềm oặt. Xảy ra rồi đây. Ta sắp bị bắt rồi. Thằng Blomkvist chết rấp. Và con Salander chết rấp.
– Tôi bị bắt à? – Hắn nói.
– Lúc này thì không. Nhưng nếu ông muốn thì chúng tôi sắp xếp giúp được cho ông chuyện đó.
– Không… không, dĩ nhiên. Tôi sẽ đi với ông. Tất nhiên là tôi muốn giúp các bạn đồng nghiệp của tôi ở lực lượng cảnh sát chứ.
– Được, thế tốt, – Andersson nói, đi vào hành lang để theo dõi sát khi Bjorck tắt máy pha cà phê và nhặt lấy áo khoác.
o O o
Sáng lâu rồi Blomkvist mới chợt nhận ra chiếc xe anh thuê vẫn nằm ở trang trại Gosseberga, nhưng anh mệt phờ, không có hơi sức hay phương tiện để đi ra đó lấy nó về được, càng không thể an toàn lái đi ngần ấy đường sá. Erlander tốt bụng đã thu xếp cho một kỹ thuật viên hiện trường vụ án trên đường về nhà mang nó về hộ anh.
– Coi như bồi thường cho việc anh bị đối xử đêm qua.
Blomkvist cảm ơn rồi đi taxi đến khách sạn Thành phố trên đường Lorensbersgatan. Anh thuê một phòng 800 krona, đi thẳng vào buồng và cởi quần áo.
Anh ngồi trần truồng trên giường, lấy chiếc máy tính Palm Tungsten T3 của Salander để trong túi áo jacket ra, nhâng nhấc trong lòng bàn tay. Anh còn lạ sao khi Paulsson rờ tìm trên người anh, hắn đã không tịch thu nó, chắc nghĩ nó là của anh, sao hắn đã không chính thức bắt giam và lục khám anh. Anh nghĩ một lát rồi lùa nó vào một trong các ngăn túi đựng máy tính xách tay của anh, nơi anh để cả đĩa DVD có đánh dấu “Bjurman” của Salander mà Paulsson cũng đã để lọt. Anh biết mình đang nắm giữ bằng chứng kỹ thuật nhưng chắc Salander chẳng thích để cho thứ này rơi vào những bàn tay không tốt.
Anh mở di động, thấy pin yếu nên cắm sạc. Anh gọi cho em gái, luật sư Giannini.
– Chào, Annika.
– Anh có liên quan gì đến chuyện người cảnh sát bị giết đêm qua thế? – Chị hỏi ngay.
Anh nói vắn tắt cho chị chuyện đã xảy ra.
– OK, thế là Salander đang được chăm sóc cao độ.
– Ðúng, và chúng ta sẽ không biết cô ấy bị thương nặng đến đâu cho tới khi cô ấy tỉnh lại, nhưng nay thì cô ấy thực sự đang cần luật sư.
Giannini nghĩ một lát.
– Anh nghĩ xem cô ấy có muốn em làm luật sư cho cô ấy không?
– Có thể cô ấy sẽ chả muốn luật sư nào cả. Cô ấy không phải kiểu người chịu nhờ vả người khác.
– Mikael…, nghe có vẻ như trong vụ này cô ấy cần đến một luật sư hình sự đấy, trước đây em đã nói đến điều này rồi. Anh cho em xem tư liệu mà anh có với nào.
– Bảo Erika cho em một bản sao.
Vừa tắt máy xong, Blomkvist gọi cho Berger. Di động của chị không trả lời nên anh thử gọi vào máy bàn ở văn phòngMillennium.
Henry Cortez trả lời:
– Erika chạy đâu ra ngoài rồi.
Blomkvist giải thích vắn tắt chuyện đã xảy ra rồi nhờ Cortez chuyển thông tin đến cho Tổng biên tập Millennium.
– Sẽ chuyển. Anh muốn chúng tôi làm gì nào?
– Hôm nay thì chưa, – Blomkvist nói. – Tôi phải chợp mắt cái đã. Nếu không có chuyện gì xảy ra, mai tôi sẽ về Stockholm. Trong số báo tới, Millennium sẽ có cơ hội đưa ra bài viết của mình về câu chuyện này, nhưng phải gần cả tháng nữa mới tới số đó cơ.
Anh tắt máy, bò vào giường. Nửa phút sau đã ngủ.
o O o
Phó giám đốc cảnh sát tỉnh Carina Spangberg gõ bút vào cốc nước của mình, yêu cầu im lặng. Chín người ngồi quanh bàn họp ở văn phòng của chị tại trụ sở cảnh sát. Ba phụ nữ, sáu đàn ông: người đứng đầu Ðội trọng án và chị đội phó của ông; ba thanh tra hình sự gồm cả Erlander và các sĩ quan báo chí cảnh sát Goteborg; người phụ trách điều tra sơ bộ Agneta Jervas ở văn phòng công tố viên và mới nhất là các thanh tra Modig và Holmberg ở cảnh sát Stockholm. Họ được gom lại như là dấu hiệu thiện chí và để chứng tỏ rằng Goteborg mong muốn hợp tác với các đồng nghiệp từ thủ đô đến. Có thể cũng là để cho thấy làm một cuộc điều tra đích thực của cảnh sát thì nên như thế nào.
Luôn là người phụ nữ đơn độc giữa một khung cảnh đực rựa, Spangberg đã nổi tiếng về tác phong không phí thì giờ vào hình thức hay đơn thuần xã giao. Chị cho hay Giám đốc cảnh sát tỉnh đang họp Europol ở Madrid, ngay khi biết một trong các sĩ quan của ông bị giết, ông đã bỏ dở chuyến đi đó nhưng không mong ông về được trước khuya đêm nay. Rồi chị quay hẳn sang người phụ trách Ðội trọng án, Anders Pehrzon, yêu cầu ông thông báo vắn tắt tình hình với mọi người có mặt.
– Khoảng mười tiếng trước, đồng nghiệp của chúng ta bị giết trên đường Nossebrovagen. Ðã biết tên kẻ giết người, Ronald Niedermann, nhưng ảnh của hắn thì chúng ta vẫn chưa có một bức nào.
– Ở Stockholm chúng tôi có một bức ảnh của hắn lúc hai mươi tuổi. Paolo Roberto có được qua một câu lạc bộ quyền Anh ở Ðức nhưng gần như không thể dùng được nó, Holmberg nói.
– Tốt. Xe tuần tra mà ta nghĩ là Niedermann lái đi thì đã được tìm thấy ở Alingsas sáng nay, như các bạn đều biết. Nó đỗ ở một phố ngách, cách ga xe lửa ba trăm năm mươi mét. Sáng nay chúng ta chưa có báo cáo nào về các vụ ăn cắp xe ở khu vực này.
– Tình hình tìm kiếm đến đâu rồi?
– Chúng tôi để ý mọi chuyến tàu đến Stockholm và Malmo. Đã phát đi lệnh truy nã toàn quốc và cũng đã báo động với cảnh sát Na Uy và Ðan Mạch. Ngay lúc này chúng tôi có chừng ba chục cảnh sát đang trực tiếp điều tra và dĩ nhiên toàn bộ lực lượng đều đang chong hết mắt lên.
– Không vân mòng gì?
– Vâng, chưa có gì cả. Nhưng một người mà bề ngoài dễ nhận ra như Niedermann thì sẽ không ẩn náu được lâu đâu.
– Có ai biết Torstensson bị thương thế nào không? – Một trong mấy thanh tra ở Trọng án hỏi.
– Ông ấy đang ở Sahlgrenska. Vết thương của ông ấy giống như vết thương của các nạn nhân bị đâm xe – không tin nổi được là chỉ có bằng tay không thôi mà một người lại có thể gây ra tổn hại đến như thế: một chân gẫy, xương sườn dập, chấn thương đốt sống cổ, thêm nữa có nguy cơ ông ấy sẽ bại liệt.
Mọi người suy nghĩ một lúc về nỗi khổ của đồng nghiệp cho đến khi Spangberg quay sang Erlander.
– Marcus… kể cho chúng tôi nghe thực sự chuyện gì đã xảy ra ở Gosseberga đi.
– Thomas Paulsson đã ở đấy.
Có những tiếng càu nhàu đáp lại câu này.
– Không ai đưa người này về hưu sớm được ư? Ông ấy là một tai họa di động.
– Tôi biết hết về Paulsson, – Spangberg cắt lời. – Nhưng tôi không nghe thấy có phàn nàn gì về ông ấy trong…, ừ, không phải là trong hai năm qua. ông ấy trở nên khó quản hơn là vì sao thế nhỉ?
– Sếp cảnh sát ở trên nữa là bạn cũ với sếp của Paulsson, chắc ông này đang cố che chắn cho Paulsson. Dĩ nhiên với ý tốt thôi, và tôi không có ý phê bình ông ấy. Nhưng đêm vừa rồi Paulsson làm việc kỳ quặc quá khiến nhiều người phải nói lại với tôi.
– Kỳ quặc sao?
Erlander liếc nhìn Modig và Holmberg. Ông bối rối vì phải đem các thiếu sót của tổ chức mình ra nói trước mặt các vị khách Stockholm.
– Như tôi biết, điều lạ nhất là ông ấy đã đi dặn chi li một kỹ thuật viên làm kiểm kê về mọi thứ ở trong lán củi – nơi chúng tôi tìm thấy gã Zalachenko.
– Kiểm kê cái gì trong lán củi? – Spangberg muốn biết.
– Vâng… ư…, ông ấy bảo ông ấy cần biết chính xác có bao nhiêu khúc gỗ ở đó. Để báo cáo cho đúng.
Im lặng nặng nề ở bàn họp trước khi Erlander nói tiếp.
– Sáng hôm ấy té ra Paulsson đã uống ít nhất hai viên an thần khác nhau. Lẽ ra ông ấy nghỉ ốm nhưng chả ai biết ông ấy có bệnh.
– Bệnh nào? – Spangberg hỏi gắt.
– Ừm, thật là tôi không biết ông ấy có chuyện gì – bí mật của người bệnh và mọi sự… – nhưng thuốc mà ông ấy uống thì một đằng là thuốc giảm đau mạnh, một đằng là thuốc kích thích. Suốt đêm ông ấy cứ hưng phấn như diều gặp gió.
– Lạy Chúa tôi, – Spangberg cau mặt nói. Chị trông như cơn mây dông quét qua bầu trời Goteborg sáng nay. – Tôi muốn có Paulsson ở đây nói chuyện chút chút.
– Ông ấy quỵ sáng nay và đã nhập viện vì kiệt sức. Gặp vào giữa lúc ông ấy ốm thì chúng ta đúng là đen.
– Tôi có thể hỏi… đêm qua, Paulsson đã bắt Mikael Blomkvist phải không?
– Trong báo cáo ông ấy có nêu ra hành vi tấn công, kháng cự hung hãn các sĩ quan cảnh sát và sở hữu trái phép vũ khí.
– Blomkvist nói sao?
– Ông ấy nhận là có mắng chửi nhưng nói đó là tự vệ. Ông ấy nói ông ấy kháng cự là muốn dùng lời lẽ gay gắt để bảo Torstensson và Ingemarsson đừng có đơn độc đi bắt Niedermann, chờ cho thêm quân đã.
– Có nhân chứng không?
– À, có Torstensson. Tôi không tin tí nào là có chống cự hung hãn như Paulsson nói. Đây là kiểu trả miếng phòng vệ điển hình để chặn trước Blomkvist kiện.
– Nhưng Blomkvist lại một mình tự tay đánh bại hoàn toàn Niedermann, đúng không? – Công tố viên Jervas hỏi.
– Nhờ chĩa súng vào hắn.
– Vậy là Blomkvist có súng. Như thế cũng đã là có căn cứ gì đó để bắt ông ấy rồi. Ông ấy lấy đâu ra súng?
– Khi mà chưa có luật sư của ông ấy thì Blomkvist không bàn chuyện này. Và chính lúc Blomkvist định trao vũ khí cho cảnh sát thì Paulsson lại bắt ông ấy.
– Tôi có thể hỏi một câu nho nhỏ, không chính thức được không? – Modig nói.
Mọi người quay lại chị.
– Trong quá trình điều tra này, tôi đã có vài dịp gặp Blomkvist. Tôi thấy ông ta khá đáng yêu, dù là một nhà báo. Tôi giả định ông là người phải ra quyết định khép tội ông ấy… – Chị nhìn Jervas và ông gật đầu. – Nếu thế thì tất cả các thứ mắng chửi rồi hung hãn cưỡng chống vừa kể ra kia sẽ chả có nghĩa lý gì hết. Tôi cho rằng ông nên lờ chúng đi.
– Chắc thế. Vũ khí bất hợp pháp nghiêm trọng hơn chứ.
– Tôi mong ông sẽ nghe ngóng đã. Blomkvist đã tự mình xếp lại vào được với nhau tất cả các miếng trong trò xếp hình này; anh ta đi trước lực lượng cảnh sát chúng ta. Giữ hòa khí và cộng tác chặt chẽ với anh ấy thì chúng ta có lợi chứ đừng có để anh ấy xổ ra mà lên án toàn bộ cảnh sát trên tờ tạp chí của anh ấy cũng như trên các báo đài.
Một lát sau Erlander hắng giọng. Nếu Modig dám liều thì ông cũng có thể liều.
– Tôi đồng ý với Sonja. Tôi cũng nghĩ Blomkvist là người chúng ta có thể cùng làm việc. Tôi đã xin lỗi anh ấy về chuyện đêm qua. Anh ấy hình như cũng sẵn sàng bỏ qua mọi chuyện. Ngoài ra anh ấy trung thực. Chả biết sao mà lại dò ra được chỗ ở của Salander nhưng anh ấy không cho chúng ta địa chỉ của cô ấy. Anh ấy không hề sợ phải đấu đá công khai với cảnh sát… Và nhiều phần chắc chắn là anh ấy ở vào một vị trí mà tiếng nói của anh ấy phát đi cũng nặng đồng cân như bất cứ báo cáo nào của Paulsson.
– Nhưng anh ấy từ chối cung cấp cho cảnh sát thông tin về Salander.
– Anh ấy nói chúng ta cần tự hỏi lấy Salander. Anh ấy nói anh ấy sẽ không thảo luận về một người không những chỉ vô tội mà còn có những quyền lợi đã bị vi phạm nghiêm trọng đến thế.
– Vũ khí anh ấy đưa là loại gì?
– Một khẩu Colt 1911 Government. Không biết số đăng ký. Tòa án có số đăng ký ấy nhưng chúng ta không biết nó có dính dáng gì đến một vụ án nào đã được biết đến ở Thụy Điển hay không. Nếu có thì vấn đề sẽ được đặt ra dưới một ánh sáng khác.
Spangberg chỗng bút lên.
– Agneta… bây giờ chị phải quyết định xem có định mở một cuộc điều tra sơ bộ đối với Blomkvist hay không. Nhưng tôi khuyên chị hãy chờ báo cáo của pháp y. Vậy chúng ta hãy bàn tiếp. Cái nhân vật Zalachenko này… Các đồng nghiệp ở Stockholm có cho chúng ta biết được gì về hắn không?
– Sự thật là, – Modig nói, – cho đến chiều hôm qua chúng tôi vẫn chưa nghe nói gì đến Zalachenko hay Niedermann.
– Tôi nghĩ các bạn đã quá mải mê lùng tìm một băng nhóm đồng tính ái nữ thờ quỷ Satan ở Stockholm. Tôi nói có sai không? – Một cảnh sát ở Goteborg nói.
Các đồng nghiệp của ông ta đều nhăn mặt lại. Holmberg săm soi các móng tay mình. Modig đành phải trả lời câu hỏi.
– Giữa chỉ chúng ta ở đây với nhau, tôi có thể nói với các bạn là chúng tôi cũng có một Paulsson tương tự và tất cả cái trò về nhóm đồng tính ái nữ thờ quỷ Satan kia chỉ là hỏa mù do chính ông ta tung ra thôi.
Rồi Modig và Holmberg tả lại chi tiết cuộc điều tra theo đúng với tiến triển của nó. Hai người nói xong, bàn họp im lặng hồi lâu.
– Nếu mọi chuyện về Gunnar Bjorck là đúng và lộ ra thì Sapo sẽ vỡ toang màng nhĩ mất đấy, – Ðội phó Ðội Trọng án kết luận.
Jervas giơ tay:
– Tôi nghe có vẻ như các vị đều dựa trên những “cho là” và những bằng chứng ngẫu nhiên mà nghi ngờ thôi. Là công tố viên, tôi sẽ không thoải mái nếu như thiếu những bằng chứng không thể nào mà đánh đổ được.
– Chúng tôi hiểu như thế đấy, – Holmberg nói. – Chúng tôi nghĩ là chúng tôi biết được những nét lớn về những gì đã xảy ra nhưng vẫn còn những câu hỏi chưa rõ cần phải trả lời.
– Tôi biết các bạn vẫn đang bận đào bới ở Nykvarn, – Spangberg nói. – Các bạn cho là có bao nhiêu người bị giết mà có dính dáng vào vụ này?
Holmberg uể oải dụi mắt.
– Bắt đầu thì chúng tôi có hai rồi ba vụ án mạng ở Stockholm. Những vụ khiến phải săn lùng gấp Salander là các cái chết của luật sư Bjurman, nhà báo Dag Svensson và nhà nghiên cứu Mia Johansson. Ở khu vực quanh nhà kho tại Nykvarn, đến nay chúng tôi đã tìm thấy ba ngôi mộ, vâng, ba cái xác. Chúng tôi đã nhận diện được một tay bán ma túy và ăn cắp vặt, tìm thấy trong một con hào, chân tay bị chặt rời. Chúng tôi tìm thấy một xác phụ nữ ở một con hào thứ hai, chưa nhận diện được. Và cái thứ ba thì chúng tôi chưa đào lên. Xem vẻ nó lâu ngày hơn hai mộ kia. Thêm vào đấy, Blomkvist đã gắn nó vào vụ giết một gái điếm mấy tháng trước ở Sodertalje.
– Vậy cùng với Gunnar Ingermarsson chết ở Gosseberga, chúng ta đang nói tới ít nhất tám cái chết. Một con số thống kê ghê rợn. Chúng ta có nghi Niedermann về tất cả các vụ này không? Nếu nghi thì chúng ta phải xem hắn như một gã điên, một tên giết người hàng loạt.
Modig và Holmberg liếc nhìn nhau. Bây giờ vấn đề là họ sẽ ủng hộ đến mức nào các xác nhận này. Cuối cùng Modig nói:
– Tuy thiếu bằng chứng cốt yếu, nhưng cấp trên của tôi, thanh tra Bublanski và tôi vẫn thiên về tin rằng Blomkvist đã đúng khi anh ta nói Niedermann đã gây ra ba vụ án mạng đầu tiên. Điều đó đòi hỏi chúng tôi phải tin là Salander vô tội. Về các ngôi mộ ở Nykvarn thì Niedermann từng đã dính dáng đến địa điểm này, qua vụ bắt cóc Miriam Wu, bạn của Salander. Rất có khả năng cô này cũng là nạn nhân của hắn. Nhưng nhà kho này lại thuộc sở hữu của một bà con của chủ tịch Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo, và chỉ tới khi nhận diện được cái xác thì chúng ta mới có thể rút ra kết luận.
– Tên ăn cắp vặt mà các vị nhận diện…
– Kenneth Gustavsson, bốn mươi tư, bán ma túy, hư hỏng từ thiếu niên. Tôi có thể đoán ngay được là chuyện này có liên quan đến một sự thay đổi nhân sự gì đó ở trong nội bộ. Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo có chung lưng với nhiều kiểu hoạt động tội ác, kể cả phân phối ma túy methamphetamine. Nykvarn có thể là bãi tha ma ở trong rừng cho những ai qua đó, nhưng…
– Vâng?
– Cô điếm bị giết ở Sodertalje… Cô ấy tên là Irina Petrova. Khám nghiệm cho thấy cô ấy chết vì bị tấn công tàn bạo đến mức ghê rợn. Nom vẻ đã bị đánh tới chết. Nhưng không thể xác định được nguyên nhân thực sự của các vết thương. Blomkvist đã có một nhận xét khá sắc sảo. Những vết thương của Petrova rất có thể là do một người gây nên bằng tay không.
– Niedermann?
– Phỏng đoán nghe logic đấy. Nhưng không có bằng chứng.
– Vậy chúng ta làm thế nào đây nhỉ? – Spangberg nói.
– Tôi phải hội ý với Bublanski, – Modig nói. – Nhưng một bước đi logic là thẩm vấn Zalachenko. Chúng ta cần chú ý nghe những điều hắn cần phải nói về các vụ án mạng ở Stockholm, còn với chị thì có việc tìm ra vai trò của Niedermann trong các công việc của Zalachenko. Hắn có thể là đầu mối để chị dò ra được Niedermann.
Một trong các thám tử ở Goteborg nói:
– Chúng ta tìm thấy gì ở trang trại Gosseberga?
– Tìm thấy bốn súng ngắn. Một khẩu Sig Sauer đang được tháo ra lau dầu ở trên bàn bếp. Một khẩu Wanad P-38 của Ba Lan ở trên sàn gần chiếc ghế dài trong bếp. Một Colt Government 1911 – đó là khẩu Blomkvist định trao cho Paulsson. Và cuối cùng một khẩu Browning cỡ nòng 22, ở bên cạnh các khẩu kia, khẩu này đúng là súng trò chơi, bởi thế Salander vẫn còn sống với một viên đạn xíu xiu ở trong đầu.
– Còn gì khác?
– Chúng tôi tìm thấy và tịch thu một cái túi đựng khoảng 200.000 krona. Nó ở trong gian buồng trên gác của Niedermann.
– Sao các bạn biết là buồng của Niedermann?
– À, thì hắn mặc áo xống cỡ cực đại XXL mà. Zalachenko thì gần như là tầm trung bình.
– Các vị có lưu giữ được gì về Zalachenko hay Bodin không? – Holmberg hỏi.
Erlander lắc đầu.
– Dĩ nhiên là còn trông vào việc chúng ta đánh giá các vũ khí bị tịch thu như thế nào đã. Ngoài vũ khí hiện đại hơn và một màn hình tân kỳ khác thường quan sát khu trại ra, chúng ta không tìm được gì phân biệt nó với các trang trại khác. Bản thân tòa nhà thì sơ sài, không trang hoàng.
Đúng trưa có tiếng gõ cửa và một sĩ quan cảnh sát đồng phục đưa cho Spangberg một tài liệu.
– Chúng tôi có điện thoại gọi báo cho biết về người mất tích ở Alingsas, – chị nói. – Một nữ y tá nha khoa tên là Anita Kaspersson lái xe rời nhà lúc 7 rưỡi sáng hôm ấy. Cô ấy đem con đến nơi coi trẻ ban ngày và phải tới chỗ làm việc vào lúc 8 giờ sáng. Nhưng cô ấy không tới. Phòng khám răng ở cách chỗ tìm thấy chiếc xe tuần tra chừng một trăm năm mươi mét.
Erlander và Modig đều nhìn vào đồng hồ đeo tay.
– Vậy hắn được lợi thế sớm hơn bốn giờ đồng hồ. Xe là kiểu gì?
– Một Renault 1991 xanh dương thẫm. Ðây là số đăng ký.
– Gửi ngay đi một lệnh báo động về chiếc xe này. Bây giờ hắn có thể đang ở Oslo, hay Malmo, hay thậm chí cả Stockholm nữa.
Họ kết thúc cuộc họp với quyết định Modig và Erlander sẽ cùng thẩm vấn Zalachenko.
o O o
Cortez cau mày nhìn theo Berger khi chị từ văn phòng của mình đi cắt ngang gian sảnh đến cái bếp nhỏ. Lát sau chị trở ra với một tách cà phê, về văn phòng đóng cửa lại.
Cortez không thể nói thẳng ra những gì không ổn. Millennium là một cơ quan nhỏ, các cộng sự đều thân nhau. Anh đã làm phụ ngoài giờ bốn năm cho tạp chí, trong thời gian đó, kíp làm việc của anh chị em đã qua vài cơn sóng gió, đặc biệt trong thời kỳ Blomkvist ngồi tù ba tháng vì tội vu cáo và tờ tạp chí gần như sập tiệm. Rồi đồng nghiệp của họ Dag Svensson bị giết, cả cô bạn gái.
Qua tất cả các sóng gió ấy, Berger đã là một tảng đá xem ra không có gì xê dịch nổi. Anh không ngạc nhiên khi Berger gọi đến đánh thức anh sớm nay, bảo anh làm việc cùng với Lottie Karim. Vụ Salander đã vỡ ra tóe loe còn Blomkvist thì chả biết sao lại dính vào vụ giết một cảnh sát ở Goteborg. Cho tới nay mọi việc vẫn còn đang kiểm soát được. Karim đã đến cắm bãi ở trụ sở cảnh sát và đang cố hết sức để lấy được vài ba thông tin chắc chắn từ một ai đó. Cortez đã gọi điện thoại cả sáng, chắp nối lại những gì xảy ra trong đêm. Blomkvist không trả lời anh nhưng từ một số nguồn Cortez đã có được một bức tranh khá rõ về các sự kiện đêm hôm trước.
Đằng mình, Berger thẫn thà thẫn thờ hết cả sáng nay. Hiếm khi chị đóng cửa văn phòng chị lại. Việc này chỉ xảy ra khi chị có khách hay phải làm việc căng về một vấn đề gì.
Sáng nay chị không có khách và không làm việc – như Cortez có thể xét thấy cho tới nay. Nhiều lần gõ cửa để đưa tiếp vài tin tức, anh thấy chị ngồi trên ghế bên cửa sổ. Nom chị xa vắng trong khi lơ mơ nhìn dòng người đi lại trên đường Gotgatan bên dưới. Chị chú ý qua loa tới các báo cáo của anh. Có cái gì đó không ổn.
Tiếng chuông cửa làm đứt mạch suy nghĩ của anh. Anh ra mở cửa thì thấy luật sư Annika Giannini. Cortez đã gặp em gái Blomkvist vài lần nhưng không biết cô lắm.
– Chào Annika, – anh nói. – Hôm nay Mikael không ở đây.
– Tôi biết. Tôi muốn nói chuyện với Erika.
o O o
Ngồi bên cửa sổ, Berger chỉ ngước lên nhìn nhưng chị đã mau mắn định thần khi nhận ra ai đang đến.
– Chào, – chị nói. – Mikael không ở đây hôm nay.
Giannini cười.
– Tôi biết. Tôi đến vì bản báo cáo của Sapo. Mikael bảo tôi xem qua nó để lỡ có khi không khéo tôi lại thay mặt cho Salander.
Berger gật đầu. Chị đứng lên, lấy một tập hồ sơ trên bàn đưa cho Giannini.
Giannini ngập ngừng một lúc, nghĩ có nên rời đi không. Rồi không đợi mời, chị quyết định ngồi xuống trước mặt Berger.
– OK… Có chuyện gì với chị không đấy?
– Tôi sắp thôi ở Millennium mà tôi chưa thể nói với Mikael. Anh ấy bị buộc cứng vào vụ rắc rối Salander nên chả có dịp thuận tiện nào, còn tôi thì không thể nói được với ai khi chưa nói với anh ấy. Ngay lúc này tôi thấy mình không ra cái gì cả.
Giannini cắn môi dưới.
– Vậy thay vì Blomkvist, chị nói với tôi vậy nhỉ? Sao chị bỏ đi?
– Tôi sẽ làm Tổng biên tập tờ nhật báo buổi sáng Svenska Morgon Posten.
– Ôi trời! Được, như thế thì chúc mừng có lẽ mới là đúng chỗ hơn khóc lóc hay nghiến răng đấy nhé.
– Annika… tôi không định kết thúc thời gian của mình ở Millennium như thế này. Giữa lúc đang bê bối như quỷ vậy. Nhưng lời mời đột ngột quá, như sét đánh giữa trời xanh, tôi không thể từ chối… tôi muốn nói… đây là cơ hội cả đời. Tôi nhận lời mời trước khi Dag và Mia bị giết và thế rồi ở đây rối bét quá, đến nỗi tôi đã phải giấu anh chị em chuyện ấy. Bây giờ tôi cảm thấy mình là kẻ có tội xấu xa nhất thế gian này.
– Tôi hiểu. Nhưng nay chị lại sợ nói với Mikael.
– Một tai họa hoàn toàn. Tôi chưa nói với ai. Tôi nghĩ sẽ bắt đầu làm việc ở tờ báo kia sau mùa hè và lúc ấy tôi vẫn có thì giờ để nói với mọi người. Nhưng nay họ muốn tôi sang ngay tức khắc.
Chị chợt im lặng ngó Annika. Nom vẻ như sắp khóc.
– Đây đúng là tuần cuối cùng của tôi ở Millennium. Tuần sau tôi sẽ đi rồi… Tôi cần nghỉ nửa tháng để lấy lại tinh thần. Ngày mùng 1 tháng Năm tôi bắt đầu ở bên kia.
– Ðược, nếu một xe bus đâm phải chị thì cái gì sẽ xảy ra đây? Lúc ấy tình hình của anh chị em ở đây sẽ là không có tổng biên tập với một thông báo duy nhất rằng tờ báo nhất thời tạm ngừng.
Berger ngước lên.
– Nhưng tôi không bị xe bus đâm. Tôi đang có ý giữ bình tĩnh với quyết định của mình trong mấy tuần.
– Đây là một tình cảnh khó khăn, tôi có thể thấy, nhưng tôi có cảm giác Mikael và Christer Malm cùng những người khác vẫn sẽ xoay xở được. Tôi nghĩ chị nên nói ngay với anh chị em.
– Được, nhưng hôm nay ông anh chết rấp của chị lại đang ở Goteborg. Anh ấy ngủ và tắt di động.
– Tôi biết. Những người khi cần đến thì ngang bướng không chịu ra mắt như Mikael là không có nhiều đâu. Nhưng Erika, đây không phải là chuyện của chị và Mikael. Tôi biết hai người làm việc với nhau đã hơn hai chục năm nay, hai người đã từng gian truân sóng gió nhưng chị cũng cần nghĩ đến cả Christer và những người khác trong tòa soạn nữa với chứ.
– Tôi giữ nó kín suốt thời gian qua, Mikael sẽ…
– Mikael sẽ cáu, dĩ nhiên. Nhưng nếu không chấp nhận được thực tế rằng trong hai chục năm có một lần chị làm anh ấy thất vọng, thì Blomkvist không xứng đáng với thời gian chị đã bỏ ra làm cho anh ấy.
Berger thở dài.
– Hãy bình tĩnh, – Giannini nói với chị. – Gọi Christer vào, cả anh chị em khác trong tòa báo nữa. Ngay bây giờ đi.
o O o
Malm ngồi im một lúc. Berger đã triệu tập các đồng sự vào gian phòng họp nhỏ của Millennium, như anh vừa ở đấy ra. Anh liếc nhìn Cortez và Karim. Họ nom cũng ngạc nhiên như anh. Malin Eriksson, Phó tổng biên tập, cũng chưa biết gì hết, cả phóng viên Monika Nilsson lẫn người phụ trách quảng cáo Magnusson. Blomkvist là người vắng mặt duy nhất tại cuộc họp. Ðã là Blomkvist thì tất nhiên anh phải đang ở Goteborg thôi.
Ơn Chúa. Mikael cũng không biết gì cả, Malm nghĩ. Anh ta sẽ phản ứng như thế nào đây?
Rồi anh thấy Berger ngừng nói, phòng họp im như một nấm mồ. Anh bỗng lắc đầu, đứng lên, bất giác ôm lấy Berger và hôn một cái lên má chị.
– Chúc mừng Erika, – anh nói, – Tổng biên tập của S.M.P 1 không phải là một bước tiến tồi từ cái mảnh giẻ nho nhỏ hiu hiu buồn này đâu nhé.
Cortez tỉnh lại, bắt đầu vỗ tay. Berger giơ hai tay lên.
– Thôi, – chị nói. – Hôm nay tôi không đáng được vỗ tay.
Chị nhìn một lượt các đồng sự ở trụ sở tòa soạn chật chội.
– Xin nghe ạ… tôi hết sức buồn là câu chuyện nó lại ra thế này. Tôi đã muốn nói với các bạn từ rất nhiều tuần trước nhưng thế nào tất cả các sự rối ren xung quanh Dag và Mia đã làm cho cái tin đó bị chìm đi. Mikael và Malin đã làm việc như ma đuổi và… hình như quả tình cũng đến là không đúng lúc hay đúng chỗ. Do đó hôm nay chúng ta mới đi đến bước này.
Eriksson thấy rõ đến phát sợ là ban lãnh đạo của tờ báo sẽ đuối đi đến đâu và không có Berger thì tòa soạn sẽ trống trải ra sao. Bất kể xảy ra chuyện gì hay bất kỳ vấn đề nào nổi lên, Berger luôn là một người chủ mà cô có thể dựa vào. À… thảo nào tờ nhật báo buổi sáng lớn nhất đã tuyển chị. Nhưng bây giờ sẽ xảy ra những gì đây. Erika luôn là một phần cốt tử của Millennium.
– Có một ít việc mà chúng ta cần bàn thẳng thắn. Tôi hoàn toàn nhận thức thấy việc tôi đi sẽ gây ra nhiều khó khăn cho tờ báo. Tôi không muốn, nhưng sự việc nó cứ vẫn là thế. Trước hết: tôi sẽ không từ bỏ Millennium. Tôi vẫn ở lại với tư cách cổ đông và sẽ dự các cuộc họp của tòa soạn. Dĩ nhiên tôi sẽ không để cho các vấn đề của tòa soạn bị ảnh hưởng.
Malm trầm ngâm gật đầu.
– Thứ hai là, ngày 30 tháng Tư tôi chính thức đi. Nhưng hôm nay là ngày làm việc cuối cùng của tôi. Tuần sau tôi đi du lịch, như các bạn đã biết. Việc này đã được dự định từ lâu. Và tôi đã quyết định sẽ không trở lại làm một ngày nào ở đây trong thời kỳ quá độ. – Chị ngừng lại một lúc. – Số tới của tạp chí đã ở trong máy tính. Có một ít cái nho nhỏ cần sửa. Ðây sẽ là số báo cuối cùng của tôi. Một tổng biên tập mới sẽ phải tiếp quản. Tôi thu dọn bàn làm việc của tôi tối nay.
Gian phòng im phăng phắc.
– Toàn thể tòa soạn sẽ phải thảo luận việc chọn Tổng biên tập mới. Đây là việc mà các bạn trong ban lãnh đạo sẽ phải có ý kiến rõ ràng.
– Mikael, – Malm nói.
– Không, không bao giờ là Mikael. Anh ấy chắc chắn là một tổng biên tập tệ nhất mà các bạn có thể vớ được. Anh ấy là một cây bút hoàn hảo và rất giỏi trong việc đưa các bài báo lên cũng như hoàn chỉnh các cái sẽ được đem in. Anh ấy là người để sửa sang. Tổng biên tập phải là một người chủ động đưa sáng kiến. Mikael còn có xu hướng vùi đầu vào các bài viết của mình và anh ấy thỉnh thoảng hoàn toàn mất tích khỏi radar cả nhiều tuần liền. Lúc bốc lên, anh ấy hay nhất nhưng với các công việc kiểu lối mòn thì anh ấy tồi không thể tưởng nổi. Tất cả các bạn đều biết điều đó.
Malm lẩm bẩm tán thành rồi nói:
– Millennium chạy được nhờ có Blomkvist và chị là đối trọng tốt của nhau.
– Không phải lý do duy nhất. Các bạn đều nhớ khi Blomkvist lên Hedestad, lặn mất tăm gần như cả một năm chết tiệt,Millennium đã vận hành không có anh ấy, giống y kiểu bây giờ không có tôi thì tạp chí này sẽ phải vận hành như vậy.
– OK. Chị định thế nào?
– Tôi có lẽ sẽ chọn anh, Christer, nhận lấy chức Tổng biên tập.
– Chắc chắn là không rồi, – Malm giơ hai tay lên.
– Biết là anh sẽ nói thế nên tôi lại có giải pháp khác đây. Malin. Cô có thể bắt đầu làm quyền Tổng biên tập từ hôm nay.
– Tôi à? – Eriksson nói. Nghe vẻ như cô bị choáng.
– Vâng, cô. Cô đã làm Phó Tổng biên tập rất tốt.
– Nhưng tôi…
– Cứ thử đi. Ðêm nay tôi sẽ ở đây. Cô có thể dọn đến văn phòng tôi sáng thứ Hai. Số tháng Năm đã làm xong – chúng ta đã vất vả với nó. Tháng Sáu sẽ ra số kép, sau lúc ấy cô sẽ có một tháng không việc. Nếu không ăn thua thì tòa soạn sẽ tìm một ai đó khác cho tháng Tám. Henry… anh sẽ phải làm chính thức và ngồi vào chỗ Phó tổng biên tập của Malin. Rồi chúng ta sẽ phải tìm một người mới. Nhưng việc đó sẽ do các bạn và ban biên tập làm lấy.
Chị tư lự nhìn lâu các đồng sự.
– Một việc nữa. Tôi sẽ bắt đầu một ấn phẩm khác. Về mọi mặt, SMP và Millennium không cạnh tranh nhau nhưng tuy thế tôi vẫn không muốn biết gì hơn nữa ngoài việc là tôi đã dựng nội dung của hai số tới. Mọi vấn đề nên thảo luận với Malin, có hiệu lực ngay tắp lự.
– Với chuyện Salander, chúng ta nên làm gì? – Cortez hỏi.
– Bàn với Mikael xem. Tôi có biết chút gì đó về Salander nhưng tôi biết là cái điều mà tôi đang nói đây đã thành lạc hậu. Tôi sẽ không mang nó đến SMP.
Berger thình lình cảm thấy người nhẹ bỗng, hết ưu phiền.
– Việc hãy như thế nhỉ, – chị nói rồi đứng lên trở lại văn phòng chị, không nói một lời.
Anh chị em tòa soạn Millennium ngồi im lặng.
Không tới một giờ sau, Eriksson gõ cửa Berger.
– Chào trong đó.
– Vâng? – Berger nói.
– Tòa soạn muốn có một lời.
– Gì chứ?
– Thì ra đây.
Berger đứng lên đi ra cửa. Anh chị em đã bầy bàn bánh ngọt và cà phê chiều thứ Sáu.
– Chúng tôi nghĩ nên có chút liên hoan và tiễn chị đúng như phép tắc, – Malm nói. – Nhưng lúc này thì cà phê và bánh ngọt sẽ phải cáng lấy việc đó.
Berger mỉm cười, lần đầu tiên sau đã bao nhiêu lâu.
Chú thích
1 Tức tờ báo Svenska Morgon Posten.