Thứ Bảy, 9 tháng Tư
Chủ nhật, 10 tháng Tư
1 giờ chiều thứ Bảy, công tố viên Fransson ở Sodertalje đã suy nghĩ tính toán xong. Miếng đất chôn vùi ở trong rừng cây tại Nykvarn là một chỗ bừa bộn đáng sợ, Vụ Trọng án đã phải làm một lượng lớn công việc ngoài giờ từ thứ Tư, khi Paolo Roberto có một trận đấu quyền anh với Niedermann trong căn nhà kho tại đấy. Họ phải xử lý ít nhất ba vụ án mạng với những cái xác tìm thấy vùi ở trong đống đổ nát, cùng với vụ bắt cóc và tấn công Miriam Wu, một cô bạn của Salander, và trên hết, vụ đốt phá nhà.
Vụ việc ở Stallarholmen được gắn với những phát hiện ở Nykvarn, và thực sự được quy vùng vào cảnh sát quận Strangnas ở tỉnh Sodermanland. Carl-Magnus Lundin ở Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo là nhân vật chính trong tất cả chuyện này nhưng hắn đang nằm bệnh viện ở Sodertalje với một chân bó bột và quai hàm bị hàm thiếc đóng cứng lại. Theo lệ thường, tất cả các tội ác này đều đặt dưới sự phán xử của cảnh sát tỉnh, tức là Stockholm sẽ có tiếng nói cuối cùng.
Thứ Sáu, tòa họp. Lundin bị chính thức khép tội có dính dáng đến Nykvarn. Cuối cùng đã biết được rằng căn nhà kho là thuộc sở hữu của công ty Medimport, và đến lượt nó lại do Anneli Karlsson, năm mươi hai tuổi, chị em họ của Lundin sống ở Puerto Banus, Tây Ban Nha sở hữu. Bà không có tiền án, tiền sự.
Fransson đóng hồ sơ gồm các giấy tờ của cuộc điều tra sơ bộ lại. Chúng vẫn là ở các giai đoạn đầu sớm sủa, sẽ còn cần đến cả trăm trang giấy khác nữa về công việc chi tiết trước khi có thể sẵn sàng đi đến phiên tòa. Nhưng ngay bây giờ, bà phải có quyết định về mấy vấn đề. Bà nhìn lên các đồng nghiệp cảnh sát.
– Chúng ta có đủ bằng chứng để khép Lundin vào tội tham gia vụ bắt cóc Miriam Wu. Paolo Roberto đã nhận được ra hắn là người lái chiếc xe van. Tôi cũng sẽ khép hắn vào tội dính líu đến việc đốt nhà. Chúng ta hoãn việc khép tội hắn dính líu đến các vụ giết ba mạng người đã đào thấy xác ở khu bất động sản, ít nhất cho tới khi nhận diện được từng người một trong số đó.
Các cảnh sát gật đầu. Họ đang chờ đợi thế.
– Chúng ta sẽ làm gì với Sonny Nieminen?
Fransson lật các trang giấy để trên bàn đến đoạn về Nieminen.
– Người này có một lịch sử hình sự đáng kể. Trấn lột, sử dụng trái phép vũ khí, tấn công, hành hung gây tổn hại nghiêm trọng, giết người và tội ác ma túy. Hắn bị bắt cùng với Lundin ở Stallarholmen. Tôi tin chắc hắn có dính líu nhưng chúng ta chưa có bằng chứng để thuyết phục tòa.
– Hắn nói hắn không ở trong nhà kho tại Nykvarn bao giờ, rằng tình cờ hắn cưỡi xe máy đi ra ngoài với Lundin, – viên cảnh sát nhân danh cảnh sát Sodertalje chịu trách nhiệm về Stallarholmen nói. – Hắn nói hắn không biết Lundin đi đến Stallarholmen làm gì.
Fransson nghĩ liệu bà có thể xoay sao đưa được toàn bộ vụ này lên cho công tố viên Ekstrom ở Stockholm không.
– Nieminen từ chối nói về những chuyện đã xảy ra, – viên thám tử nói tiếp, – nhưng hắn huyên thuyên phủ nhận đã có dính líu với bất cứ vụ án nào.
– Ông có nghi hắn và Lundin cũng là nạn nhân của một vụ án ở Stallarholmen không? – Fransson nói, chán nản gõ ngón tay. – Lisbeth Salander, – bà nói thêm, giọng có nét nghi ngờ. – Chúng ta đang nói đến một cô gái nom vẻ như vừa mới đến tuổi dậy thì. Và chỉ cao có mét rưỡi. Cô ấy nom vẻ không có kích cỡ chơi nổi với hoặc Nieminen hoặc Lundin, huống chi lại là cả hai.
– Trừ phi cô ấy có vũ khí. Một khẩu súng thì sẽ bù lại được cho hình thể cô ấy.
– Nhưng như thế lại không khớp đúng với những cái đã xảy ra mà chúng ta dựng lại.
– Không. Cô ấy dùng súng điện và đá vào dái Lundin, mạnh đến nỗi hắn bị nát bét một hòn dái và vỡ quai hàm. Chắc là sau khi đá rồi cô ấy mới bắn vào chân Lundin. Nhưng tôi không nuốt trôi được cái kịch bản cho rằng cô ấy đã mang súng ống đi.
– Phòng xét nghiệm đã nhận diện vũ khí dùng với Lundin. Nó là một khẩu Wanad P-38 Ba Lan dùng đạn súng Makarov. Ðã tìm thấy nó ở Gosseberga bên ngoài Goteborg và có vân tay Salander trên đó. Chúng ta có thể khá chắc chắn mà cho rằng cô ấy đã mang súng đến Gosseberga.
– Chắc rồi. Nhưng số phân loại súng lại cho thấy nó đã bị đánh cắp bốn năm trước ở một cửa hàng súng tại Orebro. Bọn ăn cắp cuối cùng bị bắt nhưng chúng đã đào giấu súng đi. Bọn này là đầu gấu địa phương, dính vào ma túy và vẫn lẩn quất quanh Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo. Tôi thiên nhiều hơn về giả định Lundin hay Nieminen mang khẩu súng.
– Lundin mang súng và bị Salander tước mất, điều này nghe có thể là đơn giản. Ngẫu nhiên khẩu súng nổ và trúng phải chân hắn. Tôi muốn nói là không phải cô ấy có ý bắn chết hắn, vì hắn vẫn còn sống kia.
– Hay cô ấy bắn vào chân hắn hoàn toàn là do tính thích hung bạo? Ai mà biết được? Nhưng cô ấy đã xử lý Nieminen như thế nào? Hắn không có thương tích rõ ràng.
– Có một, hay đúng hơn là có hai, những vết cháy bỏng nho nhỏ ở ngực.
– Cháy bỏng kiểu gì?
– Tôi đoán là súng bắn điện.
– Vậy giả định Salander có mang một khẩu súng bắn điện, một hình xịt hơi cay Mace và một súng lục. Tất cả các cái đó cân nặng bao nhiêu? Tôi hoàn toàn tin là Lundin hoặc Nieminen đã mang theo súng. Rồi cô ấy đã tước lấy của chúng. Khi nào một bên liên quan mở miệng nói ra, chúng ta mới biết chắc được Lundin đã bị bắn như thế nào.
– Ðúng.
– Như sự việc ta thấy hiện nay thì Lundin sẽ bị khép tội vì những lý do tôi đã nói trên kia. Nhưng chúng ta chả có cái quái gì về Nieminen hết. Tôi đang nghĩ thả hắn chiều nay.
o O o
Tâm trạng Nieminen suy sụp khi hắn ra khỏi xà lim ở đồn cảnh sát Sodertalje. Mồm miệng khô khốc cho nên đầu tiên hắn dừng lại ở một cửa hàng góc phố mua một chai Pepsi. Hắn ừng ực uống tại chỗ. Hắn mua một bao Lucky Strike và một hộp thiếc thuốc lá hít Rapé của Goteborg. Hắn mở di động, xem pin rồi bấm số gọi Hans-Ake Waltari, ba mươi ba tuổi và là số ba trong thang đẳng cấp của Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo. Chuông reo bốn lần Waltari mới nhấc máy.
– Nieminen đây. Tao ra rồi.
– Chúc mừng.
– Mày ở đâu?
– Nykoping.
– Mày làm cái đéo gì ở Nykoping?
– Chúng ta đã quyết định nếu mày và Magge gặp chuyện thì sẽ nằm mọp cho tới khi tình hình rõ ra rồi mà.
– Vậy bây giờ mày biết tình hình rồi. Mọi người ở đâu?
Waltari bảo hắn chỗ năm thành viên của Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo đang ở. Thông tin không làm cho Nieminen phấn chấn hay bình tâm hơn.
– Thế đứa đéo nào trông nom cửa hàng khi chúng mày lẩn đi như một lũ vịt giời ấy?
– Không công bằng rồi. Mày và Magge đã hạ cánh vào một cái vụ đéo gì bọn tao có biết chó gì đâu, thế rồi thình lình chúng mày dính vào một vụ bắn biếc làm bọn cớm quắn lên lùng sục, Magge bị bắn còn mày thì lộ mặt. Chúng nó đang bắt đầu đào mấy cái xác tại nhà kho của bọn ta ở Nykvarn lên rồi đấy.
– Thế ư?
– Còn thế ư? Thế nên chúng tao đang nghĩ hay là Magge với mày đã giấu chúng tao trò gì đó.
– Giấu thì làm cái đéo gì cơ chứ? Tụi tao là những đứa nhân danh Câu lạc bộ làm cái việc này.
– Ðược, chả ai bảo tao rằng nhà kho lại làm kèm thêm một bãi tha ma ở xứ rừng cả. Những cái xác ấy là ai?
Câu trả miếng độc địa đã đến đầu lưỡi Nieminen rồi nhưng hắn dừng lại. Waltari có thể là một thằng ngu nhưng bây giờ không phải là lúc cãi nhau. Việc quan trọng ngay trong lúc này là củng cố lực lượng của chúng. Sau khi chống đỡ thoát năm cuộc hỏi cung của cảnh sát, nay ở cách đồn cảnh sát chưa tới hai trăm mét mà đi khoe trong di động rằng hắn thực sự biết một cái gì đó thì không hay.
– Quên mấy cái xác đi, – hắn nói. – Chuyện ấy tao không biết gì cả. Nhưng Magge thì cứt ngập đến cổ rồi. Nó sẽ đi ấp một thời gian và trong khi nó đi thì tao trông coi Câu lạc bộ.
– OK. Thế chuyện gì bây giờ đây? – Waltari nói.
– Ai đang quản tài sản?
– Benny ở ngay Câu lạc bộ để giữ thành. Chúng nó đã lục soát chỗ ấy hôm chúng mày bị bắt. Không tìm thấy gì cả.
– Benny Karlsson ấy à? – Nienimen kêu lên. – Benny K mồm còn đầy hơi sữa à.
– Cứ hượm đã. Nó đang ở cùng với thằng cha tóc vàng mà cậu với Magge hồi nào vẫn quấn quýt ấy.
Nieminen lạnh toát người. Hắn liếc xung quanh rồi đi xa ra khỏi cửa nhà hàng góc phố.
– Mày nói cái gì?
Hắn thấp giọng hỏi.
– Thằng cha quái vật tóc vàng mà mày với Magge vẫn đeo kè kè ở bên ấy mà, hắn đến nói cần một chỗ ẩn náu.
– Bỏ cha rồi, Waltari! Thằng này bị truy lùng khắp trong nước đấy.
– Ờ… thảo nào nó cần chỗ núp. Chúng ta nên làm gì đây? Nó là bồ của Magge với mày mà.
Nieminen nhắm mắt lại hồi lâu. Niedermann đã đem đến cho Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo nhiều việc làm và tiền nong trong mấy năm qua. Nhưng hắn tuyệt đối không phải là chiến hữu. Hắn là một thằng chó đẻ nguy hiểm, một thằng mắc bệnh tâm thần – một thằng tâm thần mà cảnh sát lùng sục để trả thù. Nieminen không tin Niedermann một giây một phút nào. Hay nhất là tìm thấy hắn với một viên đạn vào đầu. Lúc ấy ít nhất việc săn lùng của cảnh sát sẽ lỏng ra được tí chút.
– Thế mày làm gì cho nó?
– Benny đang trông nom hắn. Nó đưa hắn đến chỗ Viktor.
Viktor Goransson là viên thủ quỹ và quản lý tài chính của Câu lạc bộ, sống ở bên ngoài Jarna. Hắn được học về kế toán và bắt đầu sự nghiệp bằng công việc cố vấn tài chính cho một người Nam Tư sở hữu một dây chuyền quán bar cho đến khi cả lũ vào nằm ấp vì gian lận. Hắn đã gặp Lundin ở nhà tù Kumla hồi đầu những năm 90. Hắn là thành viên duy nhất của Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo mặc jacket và thắt cà vạt.
– Waltari, lên xe rồi gặp tao ở Sodertalje. Bốn mươi lăm phút nữa tao sẽ ở bên ngoài ga xe lửa.
– Ðược. Nhưng chuyện gì mà nháo lên thế?
– Tao cần nắm tình hình. Mày có muốn tao đi xe bus không?
o O o
Waltari lén nhìn Nieminen đang ngồi im như chuột khi chúng lái xe ra ngoài Svavelsjo. Không như Lundin, Nieminen bao giờ cũng rất khó chơi. Bộ mặt giống người mẫu, hắn nom yếu ớt nhưng dễ nổi xung và là một cha nguy hiểm, đặc biệt khi đang say. Ngay khi hắn không rượu, Waltari cũng cảm thấy không khoái nếu tương lai hắn sẽ cầm đầu. Như thế nào đó Lundin luôn có cách giữ cho Nieminen không quậy. Hắn nghĩ rồi đây Lundin bị bật đi thì công việc sẽ diễn ra như thế nào.
Ở Câu lạc bộ, không thấy Benny đâu cả. Nieminen gọi hắn hai lần đều không có trả lời.
Chúng lái xe đến chỗ Nieminen, khoảng nửa dặm ở bên dưới đường cái. Cảnh sát đã lục soát nhưng rõ ràng là không tìm thấy cái gì có giá trị cho cuộc điều tra ở Nykvarn. Vì thế họ đã thả Nieminen ra.
Hắn tắm, thay quần áo trong khi Waltari kíên nhẫn chờ trong bếp. Rồi chúng đi chừng trăm rưỡi mét vào rừng, ở sau vùng đất đai của Nieminen, bới cào một lớp đất mỏng lấy ra một hòm đựng sáu súng ngắn, gồm một AK 5, một lô đạn và khoảng hai ký thuốc nổ giấu ở dưới. Đây là chỗ Nieminen cất vũ khí. Hai khẩu trong số đó là Wanad P-38 Ba Lan. Chúng ở trong mẻ vũ khí mà Salander đã lấy của hắn ở Stallarholmen.
Nieminen lái xe mà chỉ toàn nghĩ đến Salander. Một vấn đề khó chịu. Trong xà lim ở đồn cảnh sát Sodertalje hắn đã thầm diễn đi diễn lại mãi cảnh này: sao hắn và Lundin lại đến nhà nghỉ mùa hè của luật sư Bjurman và thấy Salander rõ là vừa mới rời đi xong.
Câu chuyện diễn ra mau lẹ và không thể lường trước. Hắn cùng Lundin đến đó để đốt sập ngôi nhà nghỉ hè chết rấp kia. Theo chỉ thị của thằng quái vật tóc vàng khốn kiếp nọ. Thế rồi hai đứa vồ phải con đĩ Salander – một thân một mình, cao có mét rưỡi, quắt như cái que. Nieminen nghĩ thật ra nó nặng bao nhiêu cân chứ. Thế rồi cứ như trời phạt, một cơn điên khùng chớp nhoáng nổ ra ở con bé đến nỗi cả hai đứa chúng chả còn kịp đề phòng.
Hắn có thể khách quan tả lại chuỗi sự việc. Salander có một bình xịt hơi cay và cô đã phun nó vào mặt Lundin. Lẽ ra Lundin đã phải phòng bị nhưng cha lại không. Con bé đá cha hai cái, còn làm vỡ một cái quai hàm thì chả cần cơ bắp phải to tú ụ gì sất. Con bé đánh hắn bất thình lình. Nói thế thì mới giải thích được.
Nhưng rồi con bé quàng sang cả hắn, Sonny Nieminen, một người mà ngay đám đàn ông tập tành ra trò cũng tránh tay bo đọ sức. Con bé di chuyển quá nhanh. Hắn không kịp rút súng. Con bé cho hắn ra rìa dễ như bỡn, tựa như phẩy một con muỗi. Ðáng nhục. Con bé có một khẩu súng điện. Con bé có…
Hắn không nhớ ra một điều khi nghĩ đến đó. Lundin bị bắn vào chân rồi cảnh sát hiện ra ngay lúc bấy gìờ. Sau vài đận cãi nhắng cãi nhít ở quảng giữa Strangnas và Sodertalje, hắn đã bị đưa vào xà lim ở Sodertalje. Lại thêm việc cỗ xe Harley của Magge bị con bé thâu mất nữa chứ.
Con bé cắt huy hiệu Câu lạc bộ ở chiếc jacket da ra – biểu tượng từng làm cho đám dân xếp hàng ở quán bar phải dạt sang bên, cái thứ đã cho hắn có một địa vị vượt quá cả những giấc mơ hung hãn nhất của rất nhiều người. Con bé đã làm nhục hắn.
Máu Nieminen sôi lên. Trong tất cả các lần cảnh sát thẩm vấn, hắn toàn là im bặt. Hắn sẽ không bao giờ kể lại được với ai câu chuyện đã xảy ra ở Stallarholmen. Cho đến lúc ấy, Salander chả có ra cái thá gì với hắn. Nó chỉ là một dự án phụ mà Lundin phải quấy phá… mà cũng lại là do thằng cha tóc vàng Niedermann kia trao cho chứ. Nay hắn phẫn nộ thù ghét cô gái đến mức ngay chính hắn cũng phải ngạc nhiên. Thường hắn lì và có đầu óc phân tích nhưng hắn biết đến mai sau một lúc nào đó hắn sẽ phải đòi nợ con bé, rửa nhục cho mình. Nhưng lúc này trước hết hắn phải kiểm soát tình hình rối loạn mà Salander và Niedermann đã đem đến cho Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo.
Nieminen lấy hai khẩu súng Ba Lan còn lại, lên đạn, đưa một khẩu cho Waltari.
– Ðã có kế hoạch gì chưa?
– Chúng ta sẽ đến nói chuyện với Niedermann. Hắn không phải người cánh ta và hắn không có tiền án. Tao không biết hắn sẽ phản ứng thế nào khi bị tóm nhưng nếu hắn nói ra thì chúng ta vào ấp tất. Chúng ta sẽ bị hạ nhanh đến mức cái đầu mày cứ là quay tít thò lò.
– Mày định nói là chúng ta nên…
Nieminen đã quyết định phải cho Niedermann đi tong, nhưng chưa làm mà đã nói để cho Waltari sợ là không hay.
– Tớ không biết. Chúng ta cần xem hắn nghĩ gì. Nếu hắn định rời nước đi lẹ như bị ma đuổi thì chúng ta có thể sẽ giúp hắn một tay. Nhưng chừng nào hắn vẫn có cơ bị túm thì hắn còn là một đe dọa của chúng ta.
o O o
Đèn đường ở khu nhà Goransson tắt thì Nieminen và Waltari lái xe đến trong chạng vạng. Không phải dấu hiệu tốt. Chúng ngồi trong xe chờ.
– Có thể họ đã ra ngoài rồi, – Waltari nói.
– Ðúng. Họ ra quán bar với Niedermann, – Nieminen nói, mở cửa xe.
Cửa chính không khóa. Nieminen bật đèn trần. Chúng đi hết buồng này buồng nọ. Ngôi nhà được giữ gìn ngăn nắp, sạch sẽ, chắc là nhờ cô ấy, người phụ nữ mà Goransson sống cùng.
Chúng tìm thấy Goransson và người bạn gái của hắn ở tầng hầm, nhét trong phòng giặt.
Nieminen cúi xuống xem hai cái xác. Hắn giơ một ngón tay sờ vào người phụ nữ hắn không nhớ nổi tên. Cô cứng nhắc và lạnh toát. Như thế có nghĩa hai người đã chết được hai mươi tư giờ.
Không cần một nhà bệnh học giúp, Nieminen cũng nhận ra là họ đã bị chết như thế nào. Cổ người đàn bà bị bẻ gẫy vì đầu cô quay đi một trăm tám mươi độ. Cô mặc áo phông và quần jean, Nieminen không trông thấy một vết thương nào trên người cô.
Đằng này, Goransson chỉ mặc quần áo lót. Hắn đã bị đánh, khắp người tím bầm và đầy máu. Giống các cành cây bị bẻ, hai tay hắn quặt ra hai hướng mà bình thường là không thể nào lại như thế được. Chỉ có thể định nghĩa trận đòn mà hắn phải chịu là cực hình tra tấn mà thôi. Như Nieminen có thể thấy, hắn đã bị giết bằng mỗi một quả đấm vào gáy. Yết hầu hắn thụt sâu vào tận trong cổ họng.
Nieminen lên tam cấp ra ngoài cửa chính. Waltari theo sau. Nieminen đi năm chục mét ra nhà kho. Hắn gạt then cài ra mở cửa.
Hắn thấy một xe Renault 1991 màu xanh dương sẫm.
– Xe của Goransson kiểu gì? – Nieminen nói.
– Ông ta đi một chiếc Saab.
Nieminen gật đầu. Hắn lấy chùm chìa khóa ở túi áo jacket, ra mở một cái cửa ở đầu đằng kia nhà kho. Nhìn thoáng hắn cũng biết hai đứa đã đến quá muộn. Tủ để vũ khí hạng nặng mở toang.
Nieminen cười khẩy.
– Chừng 800.000 krona, – hắn nói.
– Gì cơ?
– Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo có chừng 800.000 krona găm ở trong cái tủ này. Quỹ của chúng ta.
Chỉ ba người biết Câu lạc bộ giấu tiền mặt ở đâu, món này chờ để đầu tư và rửa tiền. Goransson, Lundin và Nieminen.Niedermann đang chạy trốn. Hắn cần tiền mặt. Hắn biết Goransson là người giữ tiền.
Nieminen đóng cửa đi thong thả ra khỏi nhà kho. Ðầu óc hắn quay cuồng khi hắn cố tiêu hóa thảm họa này. Một phần tài sản của Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo là ở dạng hợp đồng và hắn có thể tiếp cận, một số khoản đầu tư thì có thể nhờ Lundin giúp đỡ mà xây dựng lại được. Nhưng phần lớn lại ở trên danh sách nằm trong đầu Goransson, trừ phi ông đã chỉ dẫn rõ cho Lundin. Nieminen ngờ điều này – Lundin không bao giờ thạo chuyện tiền nong. Nieminen ước lượng Câu lạc bộ đã bị mất trên sáu mươi phần trăm tài sản từ việc Goransson chết. Đòn này đúng là khuynh gia bại sản. Trên hết, chúng cần phải có tiền mặt để chi tiêu lần hồi qua ngày.
– Chúng ta làm gì bây giờ? – Waltari hỏi.
– Chúng ta sẽ đi báo cảnh sát chuyện xảy ra ở đây.
– Báo cảnh sát?
– Ðúng, mẹ kiếp. Dấu tay tao dính khắp ngôi nhà mất rồi. Tao muốn Goransson và con đĩ của lão được tìm ra càng sớm càng tốt, để cho đám pháp y thấy họ đã chết trong lúc tao còn đang bị giam.
– Tao hiểu.
– Tốt. Ði tìm Benny, tao muốn nói chuyện với nó. Nếu nó còn sống, mà nó còn sống đấy. Rồi chúng ta sẽ dò thằng Niedermann. Chúng ta sẽ cần mọi quan hệ vốn có với các câu lạc bộ ở khắp Scandinavia để bảo họ phải căng mắt ra. Tao muốn đầu thằng chó đẻ này đặt ở trên đĩa. Chắc nó đang lái chiếc Saab của Goransson chạy rông đây. Tìm ra số biển đăng ký nữa.
o O o
Salander tỉnh đậy lúc 2 giờ chiều thứ Bảy, một bác sĩ đang sờ nắn cô.
– Chà, – ông nói. – Tôi là Benny Svantesson. Tôi là bác sĩ. Cô có đau không?
– Có, – Salander đáp.
– Tôi bảo đảm một lát nữa sẽ cho cô thuốc giảm đau. Nhưng tôi phải khám cho cô trước.
Ông nắn, sờ, ấn ấn lên thân thể rách tơi của cô. Salander cực kỳ cáu lúc ông xong việc nhưng cô nhịn; đã hết hơi hết sức rồi cô quyết định tốt nhất là giữ yên tĩnh chứ đừng làm cho những ngày cô nằm ở Sahlgrenska tối xỉn đi bằng một cuộc đấu đá.
– Tôi đang bị sao? – Cô nói.
– Cô đang hồi phục, – vị bác sĩ nói, ghi chép một chút rồi đứng lên. Chả cho thấy được gì khá hơn lắm.
Ông ta đi rồi, một cô y tá vào giúp Salander ngồi lên bô. Rồi cô được phép quay lại ngủ.
o O o
Zalachenko tức Karl Axel Bodin được cho ăn bữa trưa lỏng. Mỗi cử động nhỏ của cơ mặt cũng làm cho quai hàm và gò má hắn đau nhỏi, nhai thì miễn nói rồi. Trong ca mổ đêm qua, hai con ốc bằng titan đã được bắt vít vào xương hàm hắn.
Nhưng đau thì còn có thể quản được. Zalachenko vốn đã quen với đau đớn. Không gì so được với cái đau hắn đã nếm trải hàng tuần, thậm chí cả hàng tháng khi hắn bốc cháy đùng đùng như một ngọn đuốc trong xe hơi mười lăm năm trước. Cuộc điều trị sau đó ngang với một chuyến chạy maratông của cơn hấp hối.
Các bác sĩ quyết định rằng đời hắn đã hết nguy hiểm nhưng hắn bị thương tật nặng nề. Căn cứ vào tuổi tác hắn, các bác sĩ cho hắn ở lại phòng hồi sức cấp cứu thêm vài ngày.
Thứ Bảy, hắn có bốn người khách.
10 giờ sáng, thanh tra Erlander quay lại.
Lần này ông bảo Modig tính hăng sằng sặc ở ngoài mà đi cùng với thanh tra Holmberg, ông này dễ chịu hơn nhiều. Họ đặt khá nhiều câu hỏi về Niedermann giống như đã hỏi đêm trước. Hắn đã có sẵn câu chuyện để kể và cứ thế bám chặt lấy nó. Khi họ bắt đầu hỏi dồn về khả năng hắn dính líu vào buôn lậu cùng các hoạt động tội ác khác, hắn lại nói không biết gì về các chuyện này. Hắn sống bằng trợ cấp tàn tật, hắn không hiểu những điều mà họ đang nói. Hắn trách Niedermann về mọi chuyện và nói muốn giúp họ bằng bất cứ cách nào mà hắn có thể để tìm ra kẻ chạy trốn.
Nói đúng ra là không may, hắn không thể giúp được nhiều. Hắn không biết các nhóm mà Niedermann hay lui tới hay những người mà gã này có thể đến tìm sự che chở.
Vào khoảng 11 giờ, một đại diện của Văn phòng công tố viên đến gặp nhanh hắn, chính thức cho biết hắn là một nghi can trong việc gây thương tổn nghiêm trọng về thể xác hay có ý định giết Lisbeth Salander. Zalachenko kiên nhẫn giải thích rằng trái lại, hắn là nạn nhân của một tội ác, và thực tế chính Salander đã có ý định giết hắn ta. Văn phòng công tố viên cho hắn sự giúp đỡ chính thức về pháp lý dưới dạng một luật sư của nhà nước cấp cho bên bị. Zalachenko nói hắn sẽ cân nhắc vấn đề này.
Điều này hắn không có ý làm. Hắn đã có một luật sư, việc đầu tiên hắn cần làm sáng hôm ấy là gọi người này đến chỗ hắn càng nhanh càng tốt. Do đó người khách thứ ba đến giường bệnh của hắn hôm nay là Martin Thomasson. Ông ta lùa một tay vào mớ tóc vàng dầy nặng của mình, chỉnh ngay ngắn lại kính rồi bắt tay thân chủ. Ông người mũm mĩm, rất có duyên. Ðúng, ông có bị nghi là tay điếu đóm tạp vụ cho mafia Nam Tư, một vấn đề vẫn còn đang điều tra nhưng ông cũng được biết là đã cãi thắng trong nhiều vụ kiện.
Năm năm trước, một người cộng tác trong kinh doanh đã giới thiệu Thomasson với Zalachenko khi hắn cần tổ chức lại một số quỹ liên quan tới một công ty tài chính nhỏ mà hắn sở hữu ở Liechtenstein. Ðó là những món tiền không lớn nhưng tài nghệ của Thomasson thì dị thường nhờ thế Zalachenko đã tránh được khoản thuế phải đóng. Hắn bèn tuyển Thomasson làm một vài việc khác. Thomasson biết rằng tiền là do các hoạt động tội ác mà có, điều này xem ra chả hề làm cho hắn bối rối tẹo nào. Cuối cùng Zalachenko quyết định cấu trúc lại toàn bộ công cuộc làm ăn của hắn thành một công ty mới mà hắn và Niedermann sẽ sở hữu. Hắn tiếp cận Thomasson, đề nghị luật sư nhập bọn như một thành viên thứ ba, câm lặng để nắm giữ phương diện tài chính của công ty. Luật sư nhận lời tức thì.
– Ông Bodin, vậy là trong chuyện này không cái gì nom có vẻ vui cho lắm.
– Tôi là nạn nhân bị tấn công thể xác nghiêm trọng và còn bị người ta định giết chết nữa, – Zalachenko nói.
– Những cái ông nói là tôi thấy được cả. Có một Lisbeth Salander nào đó, nếu tôi hiểu đúng.
Zalachenko hạ giọng:
– Chuyến này đối tác Niedermann của chúng ta thực sự để hở sườn to.
– Ðúng vậy.
– Cảnh sát nghi tôi có dính líu.
– Mà dĩ nhiên là ông thì không rồi. Ông là nạn nhân mà, nhận ra được ngay ở đây cái hình ảnh đưa ra cho đám báo chí là điều quan trọng với chúng ta. Tiểu thư Salander đã nhận được nhiều quảng cáo xấu… Hãy để tôi xử lý với tình hình.
– Cảm ơn ông.
– Nhưng ngay từ đầu tôi cần nhắc ông rằng tôi không phải là luật sư hình sự. Ông phải cần một chuyên gia. Tôi sẽ thu xếp để ông mướn một người mà ông tin cậy được.
o O o
Đến vào lúc 11 giờ đêm, người khách thứ tư của hôm thứ Bảy ấy đã đi qua được các cô y tá bằng cách chìa ra một thẻ căn cước rồi khẳng định là có công việc cần kíp. Người ta chỉ cho ông ta buồng của Zalachenko. Người bệnh còn thức, đang càu nhà càu nhàu.
– Tôi là Jonas Sandberg, – ông khách tự giới thiệu, chìa tay ra nhưng Zalachenko lờ đi.
Khách chừng ba chục tuổi. Tóc nâu đỏ, ông ta mặc một quần jean bình thường, sơmi kẻ carô và jacket da. Zalachenko xem xét kỹ khách một lúc.
– Tôi đang nghĩ khi nào thì người của các ông ló mặt ra đây.
– Tôi làm việc cho SIS, An ninh Nội địa Thụy Điển, – Sandberg nói, đưa thẻ căn cước của mình cho Zalachenko.
– Tôi là ngờ cái này đấy, – Zalachenko nói.
– Xin lỗi ông?
– SIS có thể mướn ông nhưng tôi ngờ là ông còn làm việc cho cả ai nữa.
Sandberg nhìn quanh gian buồng, rồi kéo chiếc ghế của khách đến.
– Tôi đến muộn để không bị chú ý. Chúng tôi đã bàn có thể giúp ông như thế nào và nay thì chúng ta cần phải đạt tới một loại thỏa thuận gì đó về những gì sắp diễn ra. Tôi đến đây để nghe câu chuyện theo lời ông kể và hiểu ý đồ của ông… để cho chúng tôi có thể tìm ra được một chiến lược chung.
– Trong đầu ông có cái kiểu chiến lược gì vậy nào?
– Thưa ông Zalachenko… Tôi sợ rằng hiện đang bắt đầu vận hành một quá trình mà ta không thể nhìn thấy trước các hiệu quả nguy hại của nó, – Sandberg nói. – Chúng tôi đã bàn kỹ chuyện này. Chuyện nấm mồ ở Gosseberga cùng chuyện cô gái bị bắn ba lần thì sẽ khó mà giải thích trôi được. Nhưng hãy đừng mất hết hy vọng. Có thể lấy chuyện xung đột giữa ông và con gái ra giải thích cho việc ông sợ con gái cũng như tại sao ông lại phải dùng đến các biện pháp quá quyết liệt như vậy… nhưng tôi sợ là chúng ta đang nói đến việc ông sẽ ngồi mất một ít thời gian ở trong tù.
Zalachenko thấy hào hứng và nếu như quai hàm hắn không bị chốt cứng lại thì hắn sẽ phá ra cười. Hắn chỉ cố cho môi hắn hơi lượn cong đi được một chút. Cong hơn nữa một ít là sẽ rất đau.
– Vậy chiến lược của chúng ta là thế đó hả?
– Thưa ông Zalachenko, ông đã biết khái niệm giảm thiểu thiệt hại. Chúng ta phải đi đến một chiến lược chung. Chúng tôi sẽ làm mọi cái trong quyền hạn của chúng tôi để giúp ông một luật sư v.v… song chúng tôi cần ông hợp tác cũng như một số bảo đảm.
– Ông sẽ chỉ có một bảo đảm của tôi thôi. Thứ nhất, ông sẽ trông nom sao cho tất cả các chuyện này biến đi. – Hắn vẩy vẩy tay. – Niedermann là bung xung và tôi tin chắc sẽ không có ai mà tìm ra nổi nó đâu.
– Có bằng chứng pháp y rằng…
– Đéo mẹ nó bằng chứng pháp y với chả pháp y. Ðây là chuyện tiến hành điều tra như thế nào và trình bày sự việc ra sao thôi. Bảo đảm của tôi là… nếu các anh không vung cây đũa thần lên để cho tất cả các trò này biến đi thì tôi sẽ mời truyền thông đại chúng đến một cuộc họp báo. Tôi biết các tên tuổi, các ngày giờ và các sự kiện. Tôi nghĩ không cần nhắc lại với anh rằng tôi là ai nhá.
– Ông không hiểu…
– Tôi hiểu hết. Anh là một cậu bồi sai vặt. Vậy hãy đi gặp cấp trên của anh kể lại những cái tôi vừa nói. Ông ta sẽ hiểu. Bảo ông ấy là tôi có bản sao của… mọi cái. Tôi có thể cho tất cả các anh đổ dúi đổ dụi.
– Chúng ta cần đi đến một thỏa thuận.
– Chuyện nói thế là hết. Ra khỏi đây đi. Và bảo họ lần sau thì cử một người lớn đến mà bàn với tôi.
Zalachenko quay đầu đi, lờ ông khách. Sandberg nhìn Zalachenko một lúc. Rồi anh ta nhún vai đứng lên. Gần tới cửa anh ta lại nghe thấy Zalachenko nói:
– Một việc nữa.
Sandberg quay lại.
– Salander.
– Cô ấy thì sao?
– Nó phải biến.
– Ý ông là thế nào?
Vẻ Sandberg căng thẳng khiến Zalachenko thoáng mỉm cười, tuy quai hàm ông đau như bị khoan.
– Tôi thấy các người là đồ mật chuột quá nhạy cảm không thể giết được nó đâu, mà các anh cũng chẳng có cả cách thức lẫn đồ nghề để làm cái chuyện ấy nữa cơ. Ai sẽ làm chuyện ấy đây… anh ư? Nhưng nó dứt khoát là phải biến. Phải tuyên bố là lời khai, bằng chứng của nó đều vô giá trị hết. Nó là phải bị kết án chung thân sống trong bệnh viện tâm thần.
o O o
Salander nghe thấy tiếng chân đi trong hành lang. Những bước chân cô chưa nghe thấy trước đây.
Cửa buồng cô mở suốt buổi tối và các y tá cứ mười phút lại vào kiểm tra. Cô đã nghe thấy người đàn ông giải thích ở cửa buồng cô rằng ông ta cần gặp ông Karl Axel Bodin vì một việc cấp bách. Cô đã nghe thấy ông ta trình thẻ căn cước nhưng không thấy hai bên trao đổi lời lẽ nên cô không có đầu mối qua đó hiểu ông ta là ai và thẻ căn cước của ông ta thuộc về loại gì.
Cô y tá bảo ông ta chờ một lát trong khi cô đi xem ông Bodin thức hay ngủ. Salander kết luận nói gì thì nói chủ thẻ căn cước của ông ta chắc là có sức thuyết phục.
Cô nghe thấy cô y tá đi xuôi xuống hành lang sang trái. Ðể tới buồng Zalachenko, cô y tá phải đi mười bảy bước nhưng với cũng khoảng cách ấy thì người khách đàn ông chỉ mất mười ba bước. Như thế là trung hình mất mười lăm bước rưỡi. Cô ước chừng mỗi bước chân dài sáu mươi phân, vậy đem nhân lên với mười lăm rưỡi, cô sẽ biết buồng của Zalachenko ở cách buồng cô khoảng chín trăm ba mươi phân bên trái dưới hành lang. OK, cho là xấp xỉ mười mét đi. Cô ước buồng cô rộng chừng năm mét, như vậy có nghĩa là buồng của Zalachenko ở dưới buồng cô hai cửa.
Theo con số màu xanh lá cây ở chiếc đồng hồ số trên tủ đầu giường cô thì cuộc thăm viếng kéo dài chính xác chín phút.
o O o
Zalachenko nằm thức hồi lâu sau khi người đàn ông tên gọi Jonas Sandberg đã rời đi. Hắn cho rằng cái tên này là thứ giả; theo kinh nghiệm hắn, các gián điệp nghiệp dư Thụy Ðiển đã thực sự bị ám ảnh với việc dùng tên giả, thậm chí ngay cả khi chả có cần thiết quái gì. Trong trường hợp này, Sandberg hay bất kỳ đứa quỷ nào đến gặp thì cũng là dấu hiệu đầu tiên cho thấy Bộ phận đã chú ý tới tình trạng rắc rối của Zalachenko. Tính đến sự chú ý của truyền thông đại chúng thì Bộ phận khó lòng mà tránh khỏi được sự quan tâm này. Nhưng cuộc viếng thăm cũng lại xác nhận rằng tình hình rắc rối của hắn đang là một vấn đề khiến cho họ lo ngại. Cũng có thể là đáng ngại thật.
Hắn cân nhắc được hơn, bầy ra các khả năng và vứt bỏ các thứ lựa chọn khác nhau. Hắn biết đầy đủ rằng mọi việc đã diễn ra tồi tệ như đang là thế hiện nay. Trong một thế giới rất ngăn nắp trật tự thì lẽ ra lúc này hắn đang ở Gosseberga, lẽ ra Niedermann đã yên ổn ra khỏi nước và lẽ ra Salander đã bị vùi sâu chôn chặt ở dưới lòng đất rồi. Mặc dù hắn nắm được hợp lý các điều đã xảy ra nhưng vì mạng sống của hắn, hắn vẫn không hiểu nổi làm sao con bé lại xoay xở được cách để tự bới mà ra khỏi được con hào của Niedermann, rồi tìm lối quay về trang trại và con mẹ nó suýt nữa thì cho hắn đi đời bằng hai nhát búa bổ. Phải nói là con bé tháo vát khác thường.
Mặt khác, hắn hiểu rất rõ điều gì đã xảy ra với Niedermann, hiểu tại sao nó phải chạy để tháo thân chứ không ở lại kết liễu Salander đi cho xong. Hắn biết có một cái gì đó hoàn toàn không ổn ở trong đầu Niedermann, biết là nó hay trông thấy những hình ảnh này nọ – thậm chí thấy cả ma. Zalachenko đã nhiều phen phải can thiệp khi Niedermann bắt đầu hành động trái khoáy hay kinh hoàng nằm co rúm co ró lại.
Ðiều này làm Zalachenko lo. Do Niedermann chưa bị bắt nên hắn tin là trong vòng hai mươi tư giờ kể từ khi chạy trốn khỏi Gosseberga chắc Niedermann đã hành động hợp lý. Chắc nó sẽ đi Tallinn, ở đấy nó sẽ tìm được sự che chở từ các mối quan hệ trong đế chế tội ác của Zalachenko. Ðiều làm hắn lo trước mắt là hắn không thể biết trước lúc nào Niedermann sẽ lên cơn bại liệt tâm thần rồi gục. Chuyện này nếu xảy ra trong khi nó đang cố chạy trốn và nếu phạm sai lầm thì nó sẽ vào tù. Nó sẽ không bao giờ tự nguyện đầu hàng, như thế nghĩa là các cảnh sát sẽ chết và Niedermann chắc cũng sẽ chết nốt thôi.
Ý nghĩ này làm Zalachenko suy sụp. Hắn không muốn Niedermann chết. Niedermann là con trai hắn. Nhưng dù chết có là đáng tiếc đi nữa thì Niedermann cũng không nên bị bắt sống. Nó chưa từng bị bắt bao giờ, hắn không biết trước nó sẽ phản ứng ra sao khi bị thẩm vấn. Hắn ngờ Niedermann không giữ nổi được bình tĩnh như lẽ ra cần phải thế. Vậy nếu nó bị cảnh sát giết thì âu cũng là điều hay thôi. Hắn sẽ đau khổ vì con trai nhưng nếu nó sống thì sẽ còn xấu hơn. Nếu Niedermann nói ra, bản thân Zalachenko sẽ mọt gông cả đời.
Nhưng từ lúc Niedermann chạy trốn đến nay mới có bốn mươi tám tiếng đồng hồ, và nó chưa bị bắt. Thế là tốt. Ðây là dấu hiệu cho thấy Niedermann vẫn hành sự, mà khi Niedermann còn hành sự thì sẽ vô địch.
Về lâu về dài lại có một lo ngại khác. Hắn nghĩ Niedermann sẽ một thân một mình sống ra sao khi không có bố hướng dẫn chỉ bảo ở bên. Qua nhiều năm hắn đã để ý thấy nếu hắn không chỉ bảo, hoặc cho Niedermann có quá nhiều không gian để tự quyết định thì nó sẽ trượt vào một trạng thái phân vân do dự.
Zalachenko biết rõ rằng con trai hắn không có được một số đức tính nhất định thì đó là một nỗi nhục và một tội ác với hắn. Ronald Niedermann là một người rất có tài và với những đặc điểm sinh lý của mình, nó là một cá thể ghê gớm, được khiếp sợ, điều này chẳng còn phải nghi ngờ gì. Nó cũng là một tay tổ chức xuất sắc và lạnh lùng. Vấn đề của nó là nó rất thiếu bản năng lãnh đạo. Nó luôn cần một ai đó bảo ban nó cái điều mà nó cho là nó phải bắt tay vào tổ chức.
Nhưng hiện giờ, tất cả các chuyện này đều nằm ngoài tầm kiểm soát của Zalachenko. Ngay lúc này hắn phải chuyên tâm lo cho bản thân hắn. Tình cảnh hắn khốn đốn, có lẽ còn khốn đốn hơn cả trước kia.
Hắn không nghĩ rằng chuyến thăm của luật sư Thomasson sáng nay lại đáng làm cho hắn được đặc biệt yên tâm. Thomasson đang là và vẫn là một luật sư của công ty và bất kể ông ta có hiệu quả như thế nào ở mặt này thì ở trong công việc khác ông ta cũng sẽ không thể là một chỗ dựa lớn được.
Và rồi lại có cuộc viếng thăm của Jonas Sandberg, hay bất kể tên hắn có là gì đi nữa. Sandberg đưa ra cho một dây an toàn chắc khỏe hơn. Nhưng dây an toàn này cũng có thể là một cái bẫy. Hắn sẽ phải chơi ván bài này đúng và hắn phải kiểm soát tình hình. Kiểm soát là tất cả.
Cuối cùng hắn phải có tiền để mà trông vào. Lúc này hắn cần y tế chăm nom nhưng vài ba ngày, có thể một tuần nữa, hắn sẽ phải phục hồi sức khỏe. Nếu tình hình cần đến một cái đầu thì hắn chỉ có thể dựa vào bản thân hắn mà thôi. Như thế có nghĩa là hắn sẽ phải biến đi, ngay bây giờ trước mũi của các cảnh sát đang vây quanh hắn. Hắn sẽ cần một chỗ ẩn náu, một hộ chiếu và ít tiền mặt. Thomasson có thể cung cấp tất cả cái đó cho hắn. Trước hết hắn sẽ phải lấy lại sức khỏe, đủ để có thể chạy trốn.
1 giờ sáng, cô y tá trực đêm ngó vào, hắn vờ ngủ. Khi cô đóng cửa, hắn ngồi phắt lên, vung chân sang bên kia giường. Hắn ngồi im một lúc, thử xem sức giữ thăng bằng của hắn. Rồi hắn thận trọng đặt chân trái xuống sàn. May là nhát rìu lại đánh vào cái chân phải đã bị liệt của hắn. Hắn với lấy cái chân giả cất ở trong tủ cạnh giường, buộc nó vào mẩu chân còn lại. Rồi hắn đứng lên, đè sức nặng lên bên chân không bị thương trước khi thử đứng cả lên chân kia. Khi hắn chuyển dịch sức nặng, chân phải của hắn đau nhói.
Hắn nghiến răng bước một bước. Hắn sẽ cần đến nạng và chắc bệnh viện sẽ sớm cho hắn một cái. Hắn dựa vào tường và tập tễnh ra cửa. Hắn phải mất mấy phút và mỗi bước lại phải dừng lại để đối phó với cơn đau.
Hắn đứng trên một chân khi đẩy cửa đánh cạch và nhòm ra hành lang. Hắn không trông thấy ai cho nên thò đầu ra ngoài xa hơn. Nghe thấy những tiếng nói yếu ớt ở bên trái, hắn quay sang nhìn. Các cô y tá trực đêm đang ở chỗ của họ cách đầu đằng kìa hành lang khoảng hai chục mét.
Hắn quay sang phải, nhìn thấy cửa ra ở đầu đằng này.
Sáng nay hắn đã hỏi tình hình sức khỏe của Salander. Muốn gì hắn cũng là bố. Cô y tá rõ ràng đã được chỉ thị không nói về các bệnh nhân khác. Một cô chỉ nói bằng cái giọng chung chung rằng tình hình của Salander ổn định. Nhưng cô đã bất giác liếc sang bên trái cô.
Trong một gian buồng nằm ở giữa buồng hắn và cửa ra là Lisbeth Salander.
Hắn thận trọng đóng cửa lại, cà nhắc leo lên giường, tháo chân giả. Hắn đầm đìa mồ hôi khi cuối cùng hắn luồn vào trong chăn.
o O o
Thanh tra Holmberg quay về Stockholm giờ ăn trưa Chủ nhật. Ông đói, mệt. Ông đi xe điện ngầm đến Tòa Thị chính, đi bộ đến ban chỉ huy cảnh sát trên đường Bergsgatan rồi đến Văn phòng thanh tra Bublanski. Modig và Andersson đã tới đó. Bublanski gọi họp vào Chủ nhật vì ông biết Richard Ekstrom, người chỉ huy cuộc điều tra sơ bộ đang mắc bận ở chỗ khác.
– Cảm ơn đã đến, – Bublanski nói. – Tôi nghĩ đây là lúc chúng ta yên ổn và bình tĩnh bàn luận để cố làm rõ ra cái mớ bòng bong này. Jerker, ông có thêm cái gì mới không?
– Không, tôi đã bảo ông ở trong điện thoại đấy. Zalachenko không xê xuyển một tí nào. Hắn vô tội mọi sự và chả có gì để nói. Chỉ là…
– Vâng, sao?
– Sonja, chị đúng. Hắn là đứa xấu xa nhất mà tôi từng gặp. Nói thế nghe cứ như ngu xuẩn ấy. Không hề ai báo cảnh sát nghĩ theo cái kiểu ấy nhưng có một cái gì đáng sợ ở bên dưới bề ngoài tính toán của hắn.
– OK, – Bublanski hắng giọng. – Chị được tin gì, Sonja?
Chị mỉm cười mệt mỏi.
– Các nhà điều tra tư nhân đã thắng keo này. Tôi không tìm thấy Zalachenko ở trong bất cứ sổ sách đăng ký nào, trừ một Karl Axel Bodin có vẻ như sinh năm 1942 ở Uddevalla. Bố mẹ hắn là Marianne và Georg Bodin. Hai người chết trong một tai nạn năm 1946. Karl Axel Bodin được một người chú sống ở Na Uy nuôi. Cho nên không có ghi chép về hắn cho tới những năm 70, khi hắn chuyển đến Thụy Ðiển. Còn chuyện của Blomkvist nói hắn là nhân viên của GRU, tình báo quân đội Liên Xô thì có vẻ không thể kiểm tra được, nhưng tôi thiên về nghĩ anh ấy đúng.
– Ðược. Vậy như thế nghĩa là thế nào?
– Lời giải thích rõ ràng là hắn đã được cấp căn cước giả. Vỉệc này chắc đã phải được cấp có thẩm quyền bằng lòng.
– Ông muốn nói là Cảnh sát An ninh?
– Blomkvist bảo thế đấy. Nhưng chính xác ra người ta làm thế nào thì tôi không biết. Tôi giả định giấy khai sinh và một số tài liệu khác của hắn đã được làm giả rồi cho tuồn vào sổ sách công cộng. Tôi không dám bình luận về các râu ria hợp pháp của một việc làm như thế này. Chắc nó dựa vào người ra quyết định. Nhưng để cho nó hợp pháp được thì phải là cấp bậc cao của Chính phủ ra quyết định.
Im lặng trong Văn phòng của Bublanski khi bốn thanh tra hình sự xem xét tới các vướng mắc dây mơ rễ má này.
– OK, – Bublanski nói. – Bốn chúng ta chỉ là những đứa cảnh sát ngốc nghếch. Nếu người của Chính phủ dính vào là lôi thôi đấy, không có hỏi han gì họ đâu.
– Hừm, – Andersson nói, – việc này có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng về hiến pháp đây. Bên Mỹ anh có thể đối chất các thành viên Chính phủ ở một tòa án bình thường. Muốn làm thế ở Thụy Ðiển anh phải qua một ủy ban hiến pháp.
– Nhưng chúng ta có thể hỏi sếp, – Holmberg nói.
– Hỏi sếp? – Bublanski nói.
– Thorbjorn Falldin. Ông ta là Thủ tướng lúc ấy.
– OK. Chúng ta sẽ cứ ngoi ngược lên tới mọi chỗ nguyên Thủ tướng đã sống rồi hỏi liệu có phải ông ấy đã làm tài liệu giả cho một tên gián điệp Nga vù sang không. Tôi không nghĩ thế.
– Falldin sống ở As, tại Harnosand. Tôi lớn lên ở cách đấy ít dặm. Bố tôi là đảng viên Ðảng Trung dung và có quen thân Falldin. Tôi đã gặp ông ấy mấy lần, cả khi còn bé lẫn khi trưởng thành. Ông ấy là người rất dễ gần.
Ba viên thanh tra ngớ ra nhìn Holmberg.
– Ông biết Falldin? – Bublanski ngờ vực nói.
– Nói thật ra là, – Holmberg nói, – nếu được nguyên Thủ tướng khẳng định cho một câu thì chúng ta sẽ giải quyết được một số vấn đề, ít nhất cũng sẽ biết là chúng ta đang đứng ở đâu trong tất cả câu chuyện này. Tôi có thể lên đó nói chuyện với ông ấy. Nếu ông ấy không muốn nói gì cả thì đành thôi vậy chứ sao. Nhưng nếu ông ấy nói, chúng ta sẽ tự bớt được khối thì giờ.
Bublanski cân nhắc lời gợi ý. Rồi ông lắc đầu. Liếc mắt, ông nhận thấy cả Modig lẫn Andersson đều thầm lắc ở trong đầu.
– Holmberg, ông nhận làm như thế là tốt nhưng tôi nghĩ hiện lúc này chúng ta nên gác cái ý ấy lại. Vậy, quay lại vấn đề, Sonja?
– Theo Blomkvist thì Zalachenko đến đây năm 1976. Như tôi tìm hiểu thì anh ấy chỉ có thể lấy được cái tin này ở một người mà thôi.
– Gunnar Bjorck. – Andersson nói.
– Bjorck nói gì với chúng ta?
– Không nhiều. Hắn nói đã xếp vào tài liệu mật hết rồi, hắn không thể nói một tí gì với ai nếu không được cấp trên của hắn đồng ý.
– Cấp trên của hắn là ai?
– Hắn sẽ không nói ra đâu.
– Thế hắn đang bị chuyện gì?
– Tôi bắt hắn vì vi phạm luật chống mại dâm. Chúng ta có tài liệu rất hay ở trong các ghi chép của Dag Svensson. Ekstrom chủ yếu là ngạc nhiên nhưng do tôi đã nộp báo cáo rồi nên nếu cho kết thúc điều tra sơ bộ thì ông ấy có thể bị rắc rối, – Andersson nói.
– Tôi thấy rồi. Vi phạm luật mại dâm. Có thể đưa đến một khoản tiền phạt bằng mười lần thu nhập một ngày của hắn.
– Chắc thế. Nhưng đã nắm được hắn rồi, Chúng ta có thể gọi hắn đến hỏi thêm nữa.
– Nhưng chúng ta đang thọc quá gần vào vùng cấm của Sapo rồi đấy. Chuyện có thể gây ra một ít xáo động.
– Vấn đề là không thể xảy ra tất cả các cái này nếu như Sapo đã không dính líu vào như thế nào đó. Cũng có thể Zalachenko là gián điệp Liên Xô đào ngũ và được cho tị nạn chính trị thật. Cũng có thể hắn làm việc cho Sapo như là chuyên viên hay nguồn tin hay với bất cứ danh nghĩa nào mà ông muốn gán cho hắn và thế là ông có lý do chính đáng để cấp cho hắn một lý lịch giả và hắn trở thành ra vô danh. Nhưng có ba vấn đề ở đây. Thứ nhất, cuộc điều tra năm 1991 dẫn tới chỗ đem nhốt Lisbeth Salander lại là bất hợp pháp. Thứ hai, các hoạt động của Zalachenko từ đấy là không có liên quan chút nào tới an ninh quốc gia cả. Zalachenko là một tên cướp bình thường chắc đã có vướng vào vài ba vụ giết người và các hoạt động tội ác khác. Thứ ba, việc Lisbeth Salander bị bắn và chôn xuống ở trong vùng đất Gosseberga của hắn là không còn phải nghi với ngờ gì nữa cả.
– Nói đến đây tôi lại thực sự muốn đọc bản báo cáo tầm bậy kia của Bjorck, – Holmberg nói.
Mặt Bublanski tối lại.
– Jerker… Chuyện là thế này: Ekstrom ra tuyên bố hôm thứ Sáu, khi tôi hỏi xin lại nó thì ông ta bảo sẽ cho tôi một bản sao nhưng rồi không cho gì cả. Thay vào đó ông ta gọi tôi đến bảo ông ta đã nói với Tổng công tố viên và thế là có vấn đề. Theo Tổng công tố viên, việc xếp loại Tối Mật có nghĩa là bản báo cáo này không được tán phát hay sao chép. Tổng công tố viên đã thu hồi mọi bản sao cho đến khi vấn đề được điều tra. Có nghĩa rằng Sonja cũng phải trao nộp bản sao mà chị ấy có.
– Vậy là chúng ta không còn có bản báo cáo ấy nữa?
– Phải.
– Chết toi, – Holmberg nói. – Tất cả câu chuyện hóa ra bị phá thối mất rồi.
– Tôi biết, – Bublanski nói. – Xấu nhất thì nó có nghĩa là một kẻ nào đó đang ra tay chống lại chúng ta, và ra tay rất nhanh, có hiệu quả. Rút cục bản báo cáo chính lại là cái đặt chúng ta vào được đúng lõng.
– Vậy thì phải tìm ra ai chống chúng ta, – Holmberg nói.
– Khoan một chút, – Modig nói. – Chúng ta cũng có Peter Teleborian. Cho chúng ta biết sơ lược về Lisbeth Salander, ông ta đã có góp vào cuộc điều tra của chúng ta.
– Chính xác, – Bublanski nói, giọng u ám hơn. – Thế ông ta nói gì?
– Ông ta rất quan tâm đến sự an toàn của cô ấy và mong cô ấy được tốt lành. Nhưng khi bàn xong thì ông ấy lại nói cô ấy nguy hiểm chết người và nếu bị bắt thì rất có thể sẽ chống cự. Chúng ta suy nghĩ chính là dựa nhiều vào những điều Teleborian bảo chúng ta.
– Và ông ta đã chọc cho Hans Faste nổi cáu, – Holmberg nói. – Nhân thể, chúng ta có nghe thấy gì về Faste không nhỉ?
– Anh ta nghỉ một thời gian, – Bublanski đáp cụt lủn. – Vấn đề bây giờ là chúng ta nên tiến hành như thế nào đây.
Họ bàn với nhau trong hai giờ đồng hồ chọn cách tiến hành. Quyết định thực tiễn duy nhất họ đưa ra là mai Modig nên quay lại Goteborg xem liệu Salander có gì để nói không. Cuối cùng tan họp,
Modig và Andersson cùng nhau đi xuống ga ra.
– Tôi chính là đang nghĩ… – Andersson đứng lại.
– Vâng?
– Đúng là khi chúng ta nói chuyện với Teleborian, thì trong bọn ta chị là người duy nhất đưa ra một phản đối gì đó khi ông ta trả lời các câu hỏi của bọn ta.
– Vâng?
– À… ờ… bản năng cũng có nhạy đấy, – ông nói.
Andersson không biết cách khen và đây hẳn hoi là lần đầu tiên ông nói một điều gì tích cực hay khuyến khích với Modig. Ông để Modig đứng lại đó, ngơ ngác ở bên cạnh xe của chị.