Thứ Bảy, 15 tháng Năm
Thứ Hai, 16 tháng Năm
Sĩ quan cảnh sát Torstern Edklinth, Giám đốc Bộ phận Bảo vệ Hiến pháp thuộc Cảnh sát An ninh, thong thả lắc nhẹ li rượu vang đỏ, chăm chú lắng nghe Giám đốc điều hành của An ninh Milton. Armansky vừa thình lình gọi, nài Edklinth đến ăn tối ở nhà ông ta tại Lidingo. Ritva, vợ Armansky, đã nấu món thịt bỏ lò rất ngon. Họ ăn một cách thích thú và chuyện trò lịch lãm về những việc thường tình. Edklinth nghĩ Armansky đang có điều gì ở trong đầu đây. Sau bữa ăn, Ritva lui về đi văng xem tivi, còn lại hai người đàn ông ở bàn. Armansky bèn nói đến chuyện Salander.
Edklinth và Armansky quen biết nhau đã mười hai năm, từ lúc một nữ nghị sĩ nhận được những lời đe dọa giết. Bà báo cáo với người đứng đầu đảng của bà, nhóm sĩ quan an ninh của Nghị viện đã được thông báo. Theo quy trình, Cảnh sát An ninh liền chú ý tới vấn đề. Vào lúc đó, so với bất cứ đơn vị nào ở Cảnh sát An ninh, ngân sách của bộ phận Bảo vệ Nhân thân là bé nhất, nhưng bà nữ nghị sĩ trong các dịp xuất hiện chính thức vẫn được bảo vệ. Tuy nhiên, hàng ngày hết giờ làm việc, lúc bà rõ ràng dễ gặp nguy hiểm, cảnh sát lại để cho bà tự xoay xở. Bà bắt đầu ngờ vực khả năng bảo vệ của Cảnh sát An ninh.
Một tối bà về nhà muộn thì phát hiện có kẻ đã lén vào nhà, trát lên tường đầy những câu chữ tục tĩu trắng trợn rồi thủ dâm trên giường bà. Bà lập tức thuê An ninh Milton làm việc bảo vệ cá nhân bà. Bà không báo với Sapo quyết định này. Sáng hôm sau, khi bà phải đến một trường học ở Taby, thì đã có xô xát giữa các lực lượng an ninh của Chính phủ và các vệ sĩ Milton của bà.
Lúc đó Edklinth là Phó bộ phận Bảo vệ Nhân thân. Theo bản năng ông không thích kiểu để cho cơ bắp tư nhân làm cái việc mà Chính phủ đã ủy thác cho một bộ phận gánh vác. Ông thừa nhận nữ nghị sĩ có đầy đủ lý do để than phiền. Thay vì làm căng vấn đề lên, ông đã mời Giám đốc An ninh Milton ăn trưa. Hai người đồng ý rằng tình hình có thể còn nghiêm trọng hơn cả nhận định ban đầu của Sapo, Edklinth nhận thấy người ở Milton không những có kỹ năng nghề nghiệp mà còn được huấn luyện đâu ra đấy và có lẽ được trang bị cũng tốt hơn. Hai người giải quyết tình hình trước mắt bằng cách phân công cho người của Armansky chịu trách nhiệm vệ sĩ còn Cảnh sát An ninh quản phần điều tra tội phạm và xuất tiền.
Hai người phát hiện thấy họ rất ưa nhau, và trong nhiều năm sau họ thích thú được cùng làm một số nhiệm vụ. Edklinth rất coi trọng Armansky, nên khi được mời như ép đến ăn tối và nói chuyện riêng, ông đã vui vẻ nghe theo.
Nhưng không lường trước thấy Armansky đang thả vào lòng ông một quả bom với ngòi nổ xì xì cháy.
– Ông nói là ông có bằng chứng Cảnh sát An ninh đang nhúng tay vào hoạt động tội ác.
– Không, – Armansky nói. – Ông hiểu lầm ý tôi. Tôi nói là một số người trong Cảnh sát An ninh đang nhúng tay vào làm chuyện đó. Tôi không tin lãnh đạo của SIS lại chấp thuận hay Chính phủ lại tán thành chuyện này.
Edklinth xem xét những bức ảnh của Malm chụp một người đàn ông lên một chiếc xe có biển số đăng ký với chữ KAB ở đầu.
– Dragan… thật không phải là đùa đấy chứ?
– Tôi hy vọng là thế.
o O o
Sáng hôm sau, Edklinth ở văn phòng của ông tại hành dinh cảnh sát. Ông tỉ mỉ lau mắt kính. Edklinth tóc hoa râm, tai to, mặt mũi oai vệ nhưng lúc này nom ông không oai vệ mà bối rối. Gần cả đêm ông loay hoay nghĩ nên xử lý như thế nào cái thông tin Armansky đã nói với ông.
Những ý nghĩ không vui. Cảnh sát An ninh là một thiết chế ở Thụy Điển mà tất cả các đảng (không tất thì cũng gần hết) đều tán thành cho nó có một giá trị cần thiết. Điều này dẫn tới chỗ từng đảng không tin vào nó nhưng đồng thời lại nung nấu những lý luận âm mưu thông đồng tưởng tượng về nó. Không nghi ngờ gì là lắm tai tiếng, khi mà chắc chắn đã xảy ra những sai sót vớ vẩn về Hiến pháp, đặc biệt trong những năm 70 đảng cấp tiến cánh tả cầm quyền. Nhưng sau năm cuộc điều tra ở cấp Chính phủ của Sapo – từng bị phê bình nặng nề – đã xuất hiện một thế hệ mới các viên chức dân sự. Họ tiêu biểu cho một trường phái trẻ hơn của những nhà hoạt động được tuyển chọn từ các đơn vị tài chính, vũ khí và chống gian lận của cảnh sát nhà nước. Họ là những sĩ quan quen với điều tra các án có thật chứ không theo đuổi những ảo ảnh chính trị. Cảnh sát An ninh được hiện đại hóa và đặc biệt Bộ phận Bảo vệ Hiến pháp đã nhận lấy một vai trò mới, nổi bật. Nhiệm vụ của nó, như được nêu trong chỉ thị của Chính phủ, là phát hiện và ngăn ngừa những mối đe dọa đối với an ninh hội bộ của đất nước, tức là những hoạt động phi pháp như sử dụng bạo lực, đe dọa hay cưỡng chế nhằm mục đích làm thay đổi Chính phủ, dẫn tới tác động đến các thực thể hay quyền chức đặt quyết định, khiến chúng phải ra những quyết định theo một hướng nào đó, hay ngăn cản các cá nhân công dân thực thi các quyền và các tự do đã được hiến pháp bảo vệ.
Tóm lại, là để bảo vệ nền dân chủ Thụy Điển chống lại các đe dọa phản dân chủ có thật hay tưởng tượng. Họ chủ yếu lo ngại những người vô chính phủ và Tân Quốc xã: vì người vô chính phủ khăng khăng bất tuân lệnh dân sự; vì theo định nghĩa thì người tân quốc xã là Quốc xã, thù địch với nền dân chủ.
Sau khi lấy bằng luật, Edklinth đã làm công tố viên rồi gia nhập Cảnh sát An ninh từ hai mươi mốt năm trước. Thoạt tiên ông làm việc hiện trường ở đơn vị Bảo vệ Nhân thân rồi làm việc phân tích và quản lý hành chính ở Bảo vệ Hiến pháp. Cuối cùng ông thành giám đốc Sở, đứng đầu các lực lượng cảnh sát chịu trách nhiệm bảo vệ nền dân chủ Thụy Ðiển. Ông tự xem mình là người dân chủ. Hiến pháp đã được Nghị viện lập ra và việc của ông là trông coi cho nó vẹn toàn.
Nền dân chủ Thụy Điển chỉ dựa trên một tiền đề duy nhất: Quyền Tự do Nói. Ðiều này bảo đảm quyền được nói lớn tiếng, nghĩ và tin vào bất cứ điều gì. Quyền này áp dụng cho mọi công dân Thụy Ðiển, từ gã Tân Quốc xã điên rồ sống trong rừng đến đứa vô chính phủ ném đá – và bất kể ai ở giữa hai loại này.
Mọi quyền cơ bản khác, như thành lập Chính phủ và Quyền Tự do tổ chức đều chỉ là sự mở rộng của Quyền Tự do Nói. Nền dân chủ đứng hay đổ là ở trên cái luật nói năng này.
Mọi dân chủ đều có ranh giới của nó, ranh giới của Quyền Tự do Nói được đặt ra do quy định về Tự do Báo chí. Điều này quy định sự dân chủ phải chịu bốn hạn chế. Cấm xuất bản tệ dâm ô trẻ con cùng mô tả một số bạo hành tính dục, bất chấp nguồn phát tán tin việc mô tả đó là tử tế hay làm sao. Cấm kích thích hay kêu gọi một người nào đó gây tội ác. Cấm nói xấu hay vu khống người khác. Cấm tham gia hành hạ một nhóm sắc tộc.
Được Nghị viện trân trọng rước vào nơi tôn miếu, Tự do Báo chí dựa trên các hạn định mà xã hội có thể chấp nhận được về mặt xã hội và dân chủ, tức là bản khế ước xã hội tạo nên khuôn thước của một xã hội có văn hóa. Nòng cốt của pháp chế bảo đảm cho không một ai được quyền giày vò hay làm nhục người khác.
Do Quyền Tự do Nói và quy định về Tự do Báo chí là pháp luật, cho nên cần đến một số quyền lực giữ gìn cho các luật này được tôn trọng. Ở Thụy Điển, chức năng này được chia cho hai thiết chế.
Thứ nhất là cơ quan của Tổng công tố viên có nhiệm vụ xét xử các tội ác chống lại Tự do Báo chí. Torsten Edklinth không ưa chuyện này. Theo ông, Tổng công tố viên quá hiền lành với những vụ mà theo Edklinth là những tội ác thẳng thừng chống lại Hiến pháp Thụy Ðiển. Tổng công tố viên thường trả lời rằng nguyên tắc dân chủ quá ư quan trọng đến nỗi ông chỉ xuất hiện và buộc tội ở các trường hợp cực kỳ khẩn cấp. Nhưng trong những năm gần đây, thái độ này ngày càng bị đặt thành vấn đề nhiều hơn, đặc biệt sau khi Robert Hardh, Tổng thư ký của Ủy ban Helsinki Thụy Ðiển đưa ra một báo cáo xem xét việc Tổng công tố viên đã thiếu vắng sáng kiến trong một số năm vừa qua. Bản báo cáo cho rằng với đạo luật dành cho các nhóm sắc tộc như hiện nay thì gần như là không thể buộc tội và cho vào tù được một ai.
Thiết chế thứ hai là cục Cảnh sát An ninh phụ trách vấn đề Bảo vệ Hiến pháp, và sĩ quan cao cấp Edklinth đã hết sức nghiêm túc nhận lấy trách nhiệm này. Ông nghĩ đây là một nhiệm sở quan trọng bậc nhất mà một viên cảnh sát Thụy Ðiển có thể nắm được vào tay, do dó ông sẽ không đổi nó lấy bất cứ vị trí nào trong toàn bộ hệ thống pháp chế hay lực lượng cảnh sát ở Thụy Ðiển. Ông là nhân viên cảnh sát duy nhất ở Thụy Ðiển mà công việc chính thức đã được mô tả là hoạt động như một sĩ quan cảnh sát chính trị. Ðây là một nhiệm vụ tế nhị đòi hỏi có hiểu biết sâu rộng và thận trọng về pháp luật, vì tới nay kinh nghiệm của quá nhiều nước đã cho thấy là một cơ quan cảnh sát chính trị có thể dễ dàng tự biến chất thành mối đe dọa chính cho nền dân chủ.
Báo chí và công chúng phần lớn cho rằng chức năng của Bộ phận Bảo vệ Hiến pháp là theo dõi đám Quốc xã và đám cuồng ăn chay. Những nhóm này không đáng để cho Bảo vệ Hiến pháp đoái đến nhưng rất nhiều thiết chế và hiện tượng cũng rơi vào trong phạm vi hoạt động của nó. Chẳng hạn, nếu Nhà vua, hay Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang ôm ấp trong lòng cái ý nghĩ cho rằng Chính phủ có tính nghị viện đã sống quá cái vai trò của nó và nên lấy chế độ độc tài ra thay thế nghị viện, thì Nhà vua hay Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang sẽ lập tức được Bảo vệ Hiến pháp theo dõi. Hay, đưa ra thí dụ thứ hai, nếu một nhóm sĩ quan cảnh sát quyết định mở rộng pháp luật để cho các quyền lợi của một cá nhân đã được Hiến pháp bảo đảm bị vi phạm, thì bổn phận của Bảo vệ Hiến pháp là phản ứng lại. Trong các trường hợp nghiêm trọng như thế, công việc điều tra cũng được cho là quy về quyền lực của Tổng công tố viên.
Dĩ nhiên vấn đề là Bộ phận Bảo vệ Hiến pháp chỉ có chức năng phân tích và điều tra chứ không có cánh tay tác chiến. Vì thế mà nói chung khi cần phải bắt đám Quốc xã thì cảnh sát chính quy hoặc các bộ phận khác trong Cảnh sát An ninh vào cuộc.
Theo ý kiến Edklinth, tình trạng làm ăn này hết sức không thể nào mà hài lòng được. Gần như mọi nước dân chủ đều duy trì một hình thức tòa án độc lập nào đó, được ủy quyền trông nom sao cho các cơ quan chức trách không giẫm đạp lên quá trình dân chủ. Ở Thụy Ðiển, nhiệm vụ này là của Tổng công tố viên hay Viện Kiểm sát của Nghị viện, nhưng cơ quan này lại chỉ có thể làm theo các chỉ thị mà các bộ khác gửi đến cho họ. Nếu Thụy Ðiển có một tòa án hiến pháp thì luật sư của Salander có thể tức khắc buộc tội Chính phủ Thụy Ðiển vi phạm quyền lợi hiến định của cô gái. Lúc ấy tòa án có thể ra lệnh bày hết tất cả các tài liệu lên bàn và triệu tập bất cứ ai mà tòa muốn, bao gồm cả Thủ tướng, để làm chứng cho tới khi vấn đề được giải quyết. Như tình hình diễn ra hiện nay, luật sư của cô gái làm được nhiều nhất thì cũng chỉ là nộp một bản báo cáo lên Viện Kiểm sát của Nghị viện, cơ quan này không có quyền xen vào công việc của Cảnh sát An ninh cũng như yêu cầu cho xem các tài liệu cùng bằng chứng khác.
Qua nhiều năm tháng, Edklinth luôn là một luật sư say sưa bênh vực việc lập ra một tòa án hiến pháp. Như thế dựa vào thông tin nhận được từ Armansky, ông có thể hành động dễ hơn: bằng cách mở ra một báo cáo của cảnh sát và đưa tài liệu cho tòa. Như thế một quá trình bền bỉ sẽ được khởi động vì câu chuyện này.
Như tình hình cho thấy thì Edklinth thiếu quyền lực hợp pháp để mở một cuộc điều tra sơ bộ.
Ông nhón một nhúm thuốc lá bột đưa lên mũi hít.
Nếu thông tin của Armansky là chính xác thì các sĩ quan ở vị trí cao trong Cảnh sát An ninh đã ngoảnh mặt đi khi một phụ nữ Thụy Ðiển liên tục bị tấn công man rợ. Rồi dựa vào một chẩn đoán giả mạo, con gái bà đã bị nhốt trong một bệnh viện tâm thần. Cuối cùng họ đã trao carte blanche, bật đèn xanh cho một cựu sĩ quan tình báo Liên Xô được phạm vào những tội ác liên quan đến vũ khí, ma túy và buôn bán tính dục. Edklinth nhăn mặt. Thậm chí ông cũng chả thiết cả bắt đầu ước tính xem chắc chắn thì đã có bao nhiêu lần hoạt động phi pháp xảy ra. Chưa kể tới vụ đột nhập nhà Blomkvist, vụ tấn công luật sư của Salander – điều mà chính Edklinth cũng không thể tự thuyết phục mình thừa nhận rằng đó là một phần nằm trong một sơ đồ chung – và có thể có dính dáng đến vụ giết Zalachenko.
Ðây là một chuyện rắc rối, Edklinth không hoan nghênh việc ông tất nhiên phải dính dáng vào câu chuyện này. Không may, từ lúc Armansky mời ông ăn tối thì ông đã trở thành kẻ có cùng trách nhiệm chung.
Bây giờ xoay chuyển tình hình này như thế nào đây? Về mặt kỹ thuật, câu trả lời là đơn giản. Nếu chuyện Armansky kể kia là sự thật, thì ít nhất Lisbeth Salander đã bị tước đoạt mất cơ hội thực thi các quyền và tự do được hiến pháp bảo vệ của cô. Xét từ quan điểm hiến pháp, đây là cái ổ giun sán đầu tiên. Các cấp có thẩm quyền quyết định đã bị xui khiến để đưa ra những quyết định ngả theo một hướng nào đó. Ðiều này cũng đã đụng đến cốt lõi của cái trách nhiệm mà Bộ phận Bảo vệ Hiến pháp được giao phó. Khi biết có tội ác thì Edklinth, một sĩ quan cảnh sát, có nghĩa vụ phải nộp báo cáo cho công tố viên. Trong đời thật, câu trả lời lại không đơn giản như thế. Trái lại, nói cho phải chăng thì nó dứt khoát không hề đơn giản.
o O o
Tuy tên gọi có lạ tai, thanh tra Monica Figuerola lại sinh trưởng ở Dalarna trong một gia đình từng sống ở Thụy Ðiển ít nhất từ thời Gustavus Vasa thế kỷ mười sáu. Cô là người phụ nữ thường hay được chú ý đến bởi vì nhiều lý do. Cô ba mươi sáu tuổi, mắt xanh nước biển và cao một mét tám tư. Tóc cô vàng nhạt để ngắn, quăn tự nhiên. Cô nom hấp dẫn, lại ăn mặc theo cái cách cô biết sẽ làm cho cô càng thêm hấp dẫn. Và cô đặc biệt khỏe mạnh.
Ở tuổi thiếu nữ, cô là vận động viên thể dục dụng cụ xuất sắc, năm mười bảy tuổi đã suýt tham gia đội hình thi đấu Olympic. Cô đã bỏ môn thể dục dụng cụ cổ điển nhưng vẫn tập như bị ám mỗi tuần năm đêm ở phòng tập thể dục. Cô tập thường xuyên quá đến nỗi chất endorphin mà cơ thể cô tiết ra đã tác động như ma túy, nên nếu ngừng tập là cô cảm thấy lôi thôi liền. Cô chạy, cử tạ, đánh vợt, đánh karate. Mấy năm trước, cô chỉ đeo đuổi có mỗi món tập luyện thể hình, cái biến thái cực đoan của đầu óc tôn vinh cơ thể. Thời gian ấy, cô bỏ ra mỗi ngày hai giờ tập tạ. Dù thế cô vẫn cứ tập rất căng, Cơ thể cô cuồn cuộn cơ bắp đến nỗi các bạn cùng hội tập vẫn gọi cô là Ngài Figuerola. Khi cô mặc áo phông cộc tay hay quần áo mùa hè, không ai bỏ qua hai bắp tay và đôi vai đầy sức lực của cô.
Trí óc thông minh của Figuerola cũng thế, nó đã làm cho khối bạn đồng nghiệp nam e dè. Cô rời nhà trường với điểm cao nhất, hai mươi tuổi học ngành cảnh sát, rồi phục vụ chín năm trong lực lượng cảnh sát Uppsala, thời giờ rảnh thì học luật. Nói là để cho vui, cô còn học thi lấy cả bằng khoa học chính trị.
Khi cô thôi nhiệm vụ tuần tra để làm thanh tra hình sự, an ninh đường phố ở Uppsala đã bị thiệt thòi lớn. Thoạt đầu cô làm ở Vụ Trọng án rồi ở đơn vị chuyên về tội phạm tài chính. Năm 2000 cô làm đơn xin vào Cảnh sát An ninh ở Uppsala, và năm 2001 thì được điều về Stockholm. Thoạt đầu cô làm ở Phản gián, nhưng gần như lập tức được Edklinth đặc tuyển ngay về Bộ phận Bảo vệ Hiến pháp. Tình cờ quen biết bố của Figuerola, Edklinth đã theo dõi bước đường nghề nghiệp của cô trong nhiều năm.
Hồi lâu cuối cùng khi kết luận ông phải hành động theo thông tin của Armansky, Edklinth gọi Figuerola vào văn phòng của ông. Cô đến Bảo vệ Hiến pháp chưa tới ba năm, có nghĩa rằng cô vẫn thực sự là sĩ quan cảnh sát hơn là một lính văn phòng đã đủ lông đủ cánh.
Hôm ấy cô mặc quần jean bó màu xanh dương, xăng đan màu ngọc lam đế thấp, và jacket xanh nước biển.
– Đang làm gì lúc này, Monica?
– Chúng tôi đang theo vụ trấn lột một cửa hàng tạp phẩm ở phố Sunne.
Thường thường Cảnh sát An ninh không mất thì giờ điều tra các vụ trấn lột như vậy, còn Figuerola thì lại đứng đầu một phòng có năm sĩ quan làm việc với các vụ án chính trị. Họ dựa chủ yếu vào các máy tính kết nối với mạng báo cáo sự kiện của cảnh sát chính quy. Gần như từng báo cáo mà bất cứ cảnh sát quận nào ở Thụy Ðiển nhận được cũng đều đi qua các máy tính trong văn phòng của Figuerola. Phần mềm rọi soát từng báo cáo và phản ứng với 310 từ khóa, chẳng hạn mọi, hay trọc đầu, chữ thập ngoặc, nhập cư, vô chính phủ, chào kiểu Hitler, Quốc xã, Quốc gia Dân chủ, phản bội, kẻ yêu Do Thái hay kẻ yêu mọi. Nếu một từ khóa như thế bật ra, bản báo cáo sẽ được in ra và xem xét kỹ.
Bộ phận Bảo vệ Hiến pháp xuất bản một báo cáo tổng hợp hàng năm, có tên Những đe dọa với An ninh Quốc gia, cung cấp những số liệu thống kê đáng tin duy nhất về tội phạm chính trị. Các thống kê này dựa trên các báo cáo đã được làm thành hồ sơ nộp lên các chức trách của cảnh sát địa phương. Trong trường hợp trấn lột ở cửa hàng tại Sunne, máy tính đã phản ứng ở ba từ khóa nhập cư, lon vai và mọi. Hai người đeo mặt nạ đã chĩa súng trấn lột cửa hàng của một người nhập cư. Chúng đã lấy đi 2.780 krona và một tút thuốc lá. Một trong hai tên trấn lột mặc jacket dài ngang đùi với lon vai áo in cờ Thụy Ðiển. Đứa kia hét mấy lần “mẹ thằng mọi!” với người quản lý cửa hàng rồi bắt ông nằm xuống đất.
Như thế đã đủ cho nhóm của Figuerola mở điều tra sơ bộ và bắt đầu truy xem bọn trấn lột có dính líu gì đến băng nhóm Tân Quốc xã ở Varmlanđ hay không, liệu có thể gọi vụ trấn lột này là một tội ác chủng tộc được chăng. Nếu là thế, vụ này có thể sẽ được đưa vào hồ sơ thống kê của năm, sau đó nó sẽ được Văn phòng của Liên minh châu Âu tại Vienna tổng hợp lại cùng với các thống kê của các nước Châu Âu khác.
– Tôi có một nhiệm vụ khó cho cô đây, – Edklinth nói. – Việc này có thể đưa cô đến rắc rối to cơ đấy. Sự nghiệp của cô có thể bị lụn bại.
– Tôi đang rất chú ý nghe đây.
– Nhưng nếu làm tốt thì có thể sẽ là một bước tiến quan trọng cho sự nghiệp của cô. Tôi đang tính điều cô sang đơn vị tác chiến Bảo vệ Hiến pháp.
– Xin lỗi là đã nêu ra điều này, dạ, Bảo vệ Hiến pháp không có đơn vị tác chiến ạ.
– Không, có đấy, – Edklinth nói. – Tôi đã lập ra nhóm này sáng nay. Bây giờ thì gồm có cô.
– Tôi hiểu, – Figuerola ngập ngừng nói.
– Nhiệm vụ của cơ quan chúng ta là bảo vệ chống lại những cái mà chúng ta gọi là “các mối đe dọa từ bên trong”, phần lớn là nguy cơ từ đám cực tả hoặc cực hữu. Nhưng chúng ta sẽ làm gì nếu mối đe dọa Hiến pháp lại đến ngay từ trong tổ chức của chính chúng ta?
Ông nói với cô trong nửa giờ những điều Armansky đã nói với ông đêm qua.
– Ai đã đưa ra những tuyên bố này? – Figuerola nói khi ông nói xong câu chuyện.
– Tập trung vào thông tin, đừng bận về nguồn của nó.
– Tôi đang nghĩ liệu ông có coi những tin này là đáng tin cậy không.
– Tôi coi nguồn tin là hoàn toàn đáng tin cậy. Tôi quen người này đã nhiều năm.
– Tất cả chuyện này nghe hơi có tí… tôi không biết nữa. Chắc không phải là như thế chứ?
– Không phải là thế ư? Người ta có thể nghĩ đây là vật liệu cho một tiểu thuyết gián điệp cơ đấy.
– Ông muốn tôi xử lý chuyện này như thế nào đây?
– Bắt đầu từ bây giờ, cô thôi hết các phận sự khác. Nhiệm vụ của cô, nhiệm vụ duy nhất là điều tra về sự thật của câu chuyện này. Cô phải xác minh hay bác bỏ từng điều một trong tuyên bố này. Cô báo cáo trực tiếp với tôi và chỉ với tôi thôi.
– Tôi hiểu ông định nói gì khi bảo tôi có thể ngập đến cổ trong việc này.
– Nhưng nếu chuyện này có thật… dù chỉ một phần nào có thật, thì chúng ta cũng sẽ cầm chắc một cuộc khủng hoảng về Hiến pháp ở trong tay rồi.
– Ông muốn tôi bắt đầu từ đâu?
– Bắt đầu từ các cái đơn giản. Bắt đầu bằng đọc báo cáo của Bjorck. Rồi nhận diện người được cho là bám đuôi cái anh chàng Blomkvist. Theo nguồn tin của tôi, chiếc xe là của Goran Martensson, một sĩ quan cảnh sát sống ở đường Vittangigaten tại Vallinby. Rồi nhận diện người thứ hai trong các bức ảnh mà người nhiếp ảnh của Blomkvist đã chụp. Người tóc vàng trẻ tuổi hơn ở đây này.
Figuerola ghi chép.
– Rồi tìm hiểu lý lịch của Gullberg. Trước đây tôi không nghe thấy cái tên này bao giờ nhưng nguồn tin của tôi tin rằng hắn có quan hệ với Cảnh sát An ninh.
– Cho nên một ai đó ở SIS đây đã hợp đồng với một tay gián điệp lâu đời để sử dụng một ông già bảy mươi tám tuổi. Khó lòng tin nổi.
– Tuy thế cô vẫn cần kiểm tra nó. Cô tiến hành toàn bộ cuộc điều tra mà không để cho ai biết tí nào về nó, trừ tôi. Sắp làm một việc gì quan trọng thì cô phải báo tôi. Tôi không muốn trông thấy một gợn sóng nào trên mặt nước, một cái lông tơ nào phe phẩy.
– Cái mớ điều tra như địa ngục này! Một mình tôi thì rồi xoay xở thế nào đây cơ chứ?
– Cô sẽ không phải cáng hết đâu. Cô chỉ làm mỗi việc kiểm tra ban đầu. Nếu cô trở về và nói đã kiểm tra xong, không tìm thấy gì cả, thì mọi sự sẽ ổn. Còn nếu cô trở về và tìm thấy một cái gì đó giống như nguồn tin của tôi mô tả thì chúng ta sẽ quyết định phải làm gì.
o O o
Figuerola bỏ giờ ăn trưa ra tập tạ trong phòng tập của cảnh sát. Cô mang về văn phòng buổi trưa có cà phê đen, sandwich kẹp thịt băm viên và xa lát củ cải đường. Cô đóng cửa lại, dọn dẹp bàn giấy rồi bắt đầu vừa ăn vừa đọc bản báo cáo của Bjorck.
Cô cũng đọc phần phụ lục có thư từ giữa Bjorck và bác sĩ Teleborian. Cô ghi lại từng tên người, từng sự việc trong báo cáo cần phải được kiểm tra. Hai giờ sau cô đứng lên, ra máy pha cà phê rót một tách nữa. Khi về, cô khóa cửa lại, một phần các thủ tục quen thuộc tại SIS.
Việc đầu tiên là cô kiểm tra số đăng ký xe. Cô gọi người đăng ký và được cho hay rằng không có quan hệ nào với số đăng ký này cả. Việc thứ hai của cô là tham khảo hồ sơ báo chí. Việc này có kết quả tốt hơn. Các báo sáng lẫn chiều đều đưa tin một người đã bị thương nặng trong một vụ cháy xe hơi trên đường Lundagatan vào cái ngày có chuyện này hồi năm 1991. Nạn nhân của vụ cháy xe là một người đàn ông trung niên nhưng không thấy nhắc đến tên. Một báo buổi chiều tường thuật rằng, theo lời một nhân chứng, một cô gái trẻ tuổi đã cố ý gây ra đám cháy.
Gunnar Bjorck, tác giả của bản báo cáo, là người có thật. Ông ta là quan chức cao cấp trong Phòng Nhập cư, sau này nghỉ ốm và nay, rất mới đây, đã chết – một vụ tự sát.
Bộ phận nhân sự không có thông tin về công việc Bjorck đang làm dở năm 1991. Hồ sơ được đóng dấu Tối Mật, ngay cả với các nhân viên khác ở SIS. Điều này cũng là thủ tục quen thuộc.
Dễ dàng tìm ra việc Salander sống với mẹ và cô em sinh đôi trên đường Lundagatan năm 1991 và hai năm sau thì vào Thánh Stefan, bệnh viện tâm thần dành cho thiếu niên. Ít nhất trong các đoạn này, các ghi chép có giống với nội dung bản báo cáo.
Nay là một bác sĩ tâm thần nổi tiếng thường hay xuất hiện trên tivi, năm 1991 Peter Teleborian làm việc ở bệnh viện Thánh Stefan và hiện là một bác sĩ cao cấp.
Figuerola bèn gọi Phó phòng Nhân sự.
– Chúng tôi ở Bảo vệ Hiến pháp, đang làm một phân tích cần phải đánh giá độ tin cậy cùng với sức khỏe tâm thần của một người. Tôi cần tham khảo một chuyên gia tâm lý hay một nhà chuyên môn nào đó vui lòng cung cấp cho thông tin đã được bảo mật. Người ta đã nêu ra bác sĩ Peter Teleborian, vậy tôi nghĩ liệu tôi có thể mướn ông ấy được không?
Mất một lúc cô mới nhận được trả lời.
– Bác sĩ Peter Teleborian đã là một cố vấn ở ngoài biên chế cho SIS trong hai trường hợp. Ông ấy được phép dùng thông tin mật, cô có thể nói chuyện chung chung với ông ấy về thông tin đã được bảo mật. Nhưng trước khi tiếp xúc cô phải tuân theo thủ tục giấy tờ. Cấp trên của cô phải tán thành việc tham khảo và làm công văn cho cô được phép tiếp xúc bác sĩ Teleborian.
Tim Figuerola hẫng mất một nhịp. Cô đã kiểm tra đến một điều mà chỉ một số người rất hẹp mới được biết đến. Ðúng là Teleborian đã có những chuyện làm ãn với SIS.
Cô để bản báo cáo xuống, tập trung chú ý vào những khía cạnh khác của thông tin mà Edklinth đã cung cấp. Cô xem xét kỹ các bức ảnh của hai người đàn ông được cho là đã theo Blomkvist từ Café Copacabana hôm 1 tháng Năm.
Cô xem biển đăng ký xe, thấy Goran Martensson là chủ của chiếc Volvo xám có biển số nhìn thấy ở trên bức ảnh. Rồi cô đã được phòng nhân sự của SIS xác nhận Martensson làm việc ở đấy. Tim cô lại bị hẫng nhịp nữa.
Martensson làm việc ở Bảo vệ nhân thân. Hắn là vệ sĩ. Hắn là một trong những sĩ quan chịu trách nhiệm về an ninh của Thủ tướng trong các dịp chính thức. Mấy tuần qua hắn được bên Phản gián mượn. Hắn được phép vắng mặt từ ngày 10 tháng Tư, hai ngày sau khi Salander và Zalachenko đến nằm tại bệnh viện Sahlgrenska. Nhưng tạm thời điều chuyển thế này không phải là hiếm – bù đắp nhân sự cho những thiếu hụt ở chỗ này chỗ kia, trong lúc xảy ra tình huống khẩn cấp.
Rồi Figuerola gọi Thủ phó của Phản gián, một ông cô quen và đã cùng làm việc một thời gian ngắn ở bộ phận đó. Goran Martensson đang bận việc quan trọng, hay Bảo vệ Hiến pháp có thể mượn ông ta đi làm một cuộc điều tra?
Phó giám đốc Phản gián hoang mang. Chắc thanh tra Figuerola được thông tin sai. Martensson không hề được chuyển tới Phản gián. Xin lỗi.
Figuerola nhìn mãi vào chiếc ống nghe. Ở Bảo vệ Nhân thân người ta tin rằng Martensson đã được bên Phản gián mượn. Thì Phản gián lại nói họ dứt khoát không hề mượn ông ta. Những việc chuyển đổi nhân sự kiểu này phải được ông Chánh văn phòng chấp thuận. Cô với điện thoại gọi cho ông nhưng ngừng phắt ngay lại. Nếu Bảo vệ Nhân thân cho mượn Martensson thì ông Chánh văn phòng chắc phải tán thành quyết định ấy. Nhưng Martensson lại không ở Phản gián, điều này Chắc ông Chánh văn phòng phải biết. Còn nếu Martensson được một bộ phận nào đó mượn sang để bám theo các nhà báo thì ông Chánh văn phòng cũng sẽ phải biết cả.
Edklinth đã bảo cô: Không có lăn tăn trên mặt nước. Khơi chuyện này ra với ông Chánh văn phòng thì cũng như quăng một hòn đá xuống ao.
o O o
Berger ngồi ở bàn làm việc trong gian phòng kính. 10h 30 sáng thứ Hai. Chị rất cần một tách cà phê mà chị vừa đi lấy ở máy pha cà phê trong căng tin. Đầu giờ ngày làm việc của chị đã bị mất hoàn toàn vào các cuộc họp, bắt đầu bằng cuộc dài mười lăm phút, trong đó Phó tổng biên tập Fredricksson giới thiệu các nét chính của ngày làm việc. Trong hoàn cảnh mất lòng tin ở Anders Holm, chị ngày càng lệ thuộc vào xét đoán của Fredriksson.
Cuộc thứ hai kéo dài một tiếng với chủ tịch Magnus Borgsjo, Christer Sellberg, Giám đốc tài chính của tờ SMP và Ulf Flodin, Chánh thủ quỹ. Họ bàn chuyện giảm số lượng đăng quảng cáo và sụt mức bán lẻ từng số báo. Christer và Ulf đều quyết tâm ra tay cắt giảm tổng chi phí của tờ báo.
– Chúng ta đã cắt giảm được suốt quý một năm nay nhờ bán quảng cáo ngoài hợp đồng tăng lên và nhờ hai vị nhân viên già lương bổng cao về hưu hồi đầu năm. Hai vị trí này vẫn chưa có người thay, – Flodin nói. – Chúng ta chắc sẽ kết thúc quý này với một khoản thiếu hụt nho nhỏ. Nhưng các tờ báo tự do, Metro và Thành phố Stockholm đang xơi lạm vào thu nhập về quảng cáo của chúng ta ở Stockholm. Tôi bắt mạch rằng quý ba sẽ có một khoản thua thiệt lớn.
– Vậy chúng ta đối phó lại như thế nào? – Borgsjo nói.
– Lựa chọn duy nhất là cắt giảm quân số. Từ 2002 chúng ta chưa giãn công nhân viên bao giờ. Nhưng trước khi hết năm, chúng ta sẽ phải loại bỏ mười vị trí.
– Những vị trí nào? – Berger nói.
– Chúng ta phải làm việc theo nguyên tắc “liệu cơm gắp mắm”, cắt đây một việc cắt kia một việc. Bộ phận thể thao hiện có sáu chỗ rưỡi. Chúng ta sẽ cắt cho còn năm người làm toàn bộ thởi gian.
– Như tôi hiểu thì bộ phận thể thao đã bị lép vế rồi. Ông đề nghị cắt như thế có nghĩa là chúng ta sẽ bớt đưa tin bài về thể thao đi.
Flodin nhún vai.
– Tôi sẵn lòng được nghe những gợi ý khác.
– Tôi không có gợi ý nào hay hơn nhưng nguyên tắc là thế này: nếu cắt nhân sự thì chúng ta sẽ phải ra một tờ báo nhỏ hơn và nếu ra một tờ báo nhỏ hơn thì số lượng độc giả sẽ tụt và cả các khách hàng đăng quảng cáo cũng tụt nốt.
– Cái vòng luẩn quẩn vĩnh cửu, – Sellberg nói.
– Tôi được thuê để xoay chuyển tình hình tụt dốc này, – Berger nói. – Tôi coi nhiệm vụ của mình là hành động không kiêng nể gì để thay đổi tờ báo và làm cho nó hấp dẫn độc giả hơn. Tôi không thể làm được việc đó nếu chúng ta cắt bớt người của tòa soạn.
Chị quay sang Borgsjo:
– Tờ báo còn có thể xuất huyết trong bao lâu nữa? Chúng ta có thể chịu đựng mức thua lỗ lớn đến đâu trước khi chạm tới giới hạn?
Borgsjo mím môi.
– Từ đầu những năm 90, SMP đã ăn một khoản rất lớn vào các tài sản đã được củng cố lâu ngày. Chúng ta có một danh mục vốn cổ phần đã bị giảm mất khoảng chừng 30 phần trăm giá trị so với mười năm trước. Một phần lớn vốn này được dùng để đầu tư vào công nghệ thông tin. Chúng ta cũng đã có những khoản chi tiêu rất lớn.
– Tôi hiểu là SMP đã tự phát triển lấy AXM, hệ thống trình biên tập văn bản của riêng mình. Việc ấy tốn kém bao nhiêu?
– Phát triển công nghệ mất chừng năm triệu krona.
– Tại sao SMP lại phát triển phần mềm của riêng mình để rồi lại lôi thôi ra? Thị trường đã có những chương trình quảng cáo không đắt đỏ rồi mà.
– À thế này, Erika… điều đó có thể đúng đấy. Người trước đây quản lý mảng công nghệ thông tin của tòa báo đã khuyên chúng tôi đi vào làm món này. Ông ấy thuyết phục chúng tôi rằng về lâu về dài nó sẽ bớt tốn kém và SMP lại còn sẽ có thể cấp giấy phép cho các tờ báo khác sử dụng chương trình này.
– Thế có tờ nào mua không?
– Có, thực tế có một tờ ở Na Uy mua.
– Còn chúng ta thì ngồi ở đây với những máy tính năm, sáu năm tuổi lận…
– Ðiều này đơn giản, không thành vấn đề vì năm tới chúng ta đầu tư cho các máy tính mới rồi, – Flodin nói.
Họ bàn tới bàn lui. Berger nhận thấy các mục tiêu của chị đang bị Flodin và Sellberg ngáng cản triệt để. Theo họ quan trọng là cắt chi phí, điều này xét từ quan điểm của một Chánh thủ quỹ và một Giám đốc tài chính thì có thể thông cảm được, nhưng lại không thể chấp nhận được với một Tổng biên tập mới được bổ nhiệm. Điều làm cho chị cáu nhất là họ cứ một mực xóa bỏ lý lẽ của chị bằng những nụ cười đàn anh đàn ang hạ cố, làm cho chị cảm thấy mình như một đứa ranh mười mấy tuổi bị tra hỏi về bài làm ở nhà của nó vậy. Không thực sự thốt ra một lời nào thất thố, họ phô ra với chị một thái độ quá cổ lỗ đến mức nó gần như là khôi hài. Không nên để cho cái đầu xinh xắn của cô bị phiền muộn vì những vấn đề quá phức tạp, cô gái bé bỏng ơi.
Borgsjo không giúp được nhiều. Ông chờ dịp và để cho người họp nói ra phần của họ nhưng chị không cảm thấy sự hạ mình tương tự ở phía ông.
Chị thở dài, mở máy tính. Chị có mười chín email mới. Bốn là thư rác. Một ai đó bán Viagra cho chị, tính dục từ xa với “Những nàng Lolita dâm nhất ở trên mạng” chỉ mất có 4 đôla một phút, “Tính dục động vật”, và một thư mời đăng ký vào trang Thờitrang.truồng. Con nước triều nhảm nhí này không bao giờ rút đi, bất kể bao nhiêu lần chị đã cố chặn đứng nó lại. Bảy email khác là những cái gọi là “Những bức thư Nigeria” của bà góa của nguyên Thống đốc một ngân hàng ở Abu Dhabi, tặng những món tiền buồn cười của bà, chỉ cần tham dự với một món tiền khởi động nho nhỏ cùng những lời lẽ nhố nhăng khác.
Có phần ghi nhớ buổi sáng, phần ghi nhớ bữa ăn trưa, ba thư điện tử của Fredriksson cập nhật cho chị về những phát triển của bài báo chủ công trên báo hôm nay. Một cái khác từ người kế toán mà chị muốn gặp để kiểm tra những hệ lụy của việc chị chuyển từ Millennium sang SMP, một thư của nha sĩ gợi ý về ngày giờ cho lần thăm khám hàng quý của chị. Chị ghi ngày hẹn vào lịch và lập tức nhận thấy phải thay đổi nó vì ngày hôm ấy chị đã định có một cuộc họp tòa soạn quan trọng rồi.
Cuối cùng chị mở cái thư cuối cùng, gửi từ <
[email protected]> với một dòng chủ đề [Chú ý: Tổng biên tập]. Chị từ từ đặt tách cà phê xuống.
MÀY ĐỒ CON ĐĨ! MÀY TƯỞNG MÀY LÀ THỨ GÌ CHỨ, MÀY ĐỒ CÁI THẼM ĐỂ ĐÉO. ĐỪNG TƯỞNG MÀY CÓ THỂ ĐẾN ĐÂY LÊN MẶT LÊN NUỚC. MÀY SẮP BỊ MỘT CÁI TUA VÍT NÓ ĐÉO RỒI, ĐỒ CON ĐĨ! NHANH NHANH MÀ CÚT ĐI
Berger ngửng lên tìm kiếm Holm, biên tập viên tin tức. Ông ta không ở bàn làm việc, chị cũng không thấy ông ta trong phòng tin. Chị kiểm tra người gửi rồi nhấc điện thoại gọi Peter Fleming, người quản lý công nghệ thông tin.
– Chào, Peter. Ai dùng địa chỉ <
[email protected]> đấy nhỉ?
– Cái địa chỉ này không xài được ở SMP.
– Tôi vừa nhận được một thư điện tử từ địa chỉ này mà.
– Giả mạo đấy. Tin nhắn có vi rút không?
– Tôi không biết. Ít ra thì chương trình chống vi rút đã không phản ứng.
– OK. Ðịa chỉ này không tồn tại. Nhưng làm giả một địa chỉ có vẻ hợp thức thì rất dễ thôi. Có những địa điểm trên mạng mà chị có thể gửi những bức thư vô danh đi.
– Có thể dò ra được một thư điện tử như thế này không?
– Gần như không thể, cho dù người gửi có thể ngu đến mức gửi từ máy tính nhà hắn. Chị có thể dò tìm số giao thức Internet ở một máy chủ, nhưng nếu hắn dùng một tài khoản mà hắn đặt chẳng hạn như ở hotmail thì dò tìm sẽ chả ăn thua gì.
Berger cảm ơn ông. Chị nghĩ một lúc. Ðây không phải lần đầu chị nhận được một thư điện tử hay tin nhắn đe dọa của một cha ẩm ương. Cha này rõ ràng là gợi nhắc đến công việc tổng biên tập mới của chị. Chị thầm nghĩ liệu đây có phải là một kẻ hâm hâm từng đọc về việc chị có liên quan đến cái chết của Morander hay không, hay liệu người gửi lại ở ngay chính trong tòa nhà cao tầng này.
o O o
Figuerola nghĩ lung về việc cô phải làm gì với Gullberg. Làm việc ở Bảo vệ Hiến pháp có một lợi thế là cô có quyền tiếp cận gần như bất cứ báo cáo nào của cảnh sát ở Thụy Ðiển mà có bất cứ liên quan nào với các tội ác có động cơ sắc tộc hay chính trị. Về mặt kỹ thuật, Zalachenko là một người nhập cư, mà trách nhiệm của cô thì bao gồm việc lần theo những hành vi bạo lực đối với những người được sinh ở nước ngoài, để quyết định xem tội ác đó có mang động cơ sắc tộc hay không. Theo đó cô có quyền dính tay vào cuộc điều tra vụ giết Zalachenko để xác định xem liệu Gullberg, tên sát nhân đã được biết đến, có quan hệ với một tổ chức sắc tộc nào không, hay liệu vào lúc hắn gây án, có thấy hắn có những nhận xét phân biệt chủng tộc hay không. Cô yêu cầu bản báo cáo. Cô đã tìm thấy những bức thư gửi lên Bộ trưởng Tư pháp và phát hiện ra rằng cùng với những lời công kích kịch liệt và những đả kích nhục mạ cá nhân thì cũng có cả những từthằng yêu bọn mọi và đồ phản bội.
Đến 5 giờ chiều, Figuerola cho tất cả tài liệu vào trong két an toàn khóa lại, tắt máy tính, rửa cốc cà phê và bấm giờ ra khỏi cơ quan. Cô đi rảo chân đến một phòng tập ở Thánh Eriksplan, để cả một tiếng đồng hồ sau đó ra tập một số bài dễ về rèn luyện sức lực.
Tập xong cô về nhà, căn hộ một buồng trên đường Pontonjargatan, tắm, ăn bữa tối muộn nhưng đầy chất dinh dưỡng. Cô ngẫm nghĩ có nên gọi Daniel Mogren sống cùng phố, cách đây ba khối nhà hay không. Mogren là thợ mộc và lực sĩ thể hình, từng bữa đực bữa cái là đối tác tập luyện của cô trong ba năm. Trong mấy tháng gần đây họ cũng có chuyện ăn nằm với nhau, như bè bạn.
Tính dục gần như cũng thỏa mãn như một buổi tập tành nghiêm ngặt ở phòng tập, nhưng ở vào một tuổi thành thục ba mươi cộng, hay đúng hơn là bốn mươi trừ, Figuerola đã bắt đầu nghĩ có thể cô nên tìm một đối tác bền vững và một cuộc sống an bài cố định hơn. Có thể thậm chí cả con cái. Nhưng không phải với Mogren.
Cô dứt khoát cảm thấy tối nay không muốn gặp ai. Ðúng thế, cô lên giường với một quyển sách về lịch sử thế giới cổ đại.