Thứ Hai, 11 tháng Bảy
Linder ở An ninh Milton gọi vào máy T10 của Blomkvist lúc 6 giờ sáng thứ Hai.
– Người nhà cô không nghỉ bao giờ sao hả? – Blomkvist ngái ngủ nói.
Anh liếc sang Figuerola. Cô đã dậy, đang thay soóc đi bộ nhanh nhưng chưa mặc áo.
– Ngủ chứ. Nhưng người trực đêm đánh thức tôi. Lúc 3 giờ báo động im lặng chúng tôi đặt ở nhà anh đã réo.
– Réo à?
– Tôi đã lái xe xuống xem có chuyện gì. Hơi có trò gian một tí. Sáng nay anh đến Milton được không? Càng sớm càng tốt, ý là như vậy.
o O o
– Chuyện này quan trọng, – Armansky nói.
Vừa đúng 8 giờ thì Armansky, Blornkvist và Linder gặp nhau ở trước màn hình theo dõi tại phòng họp của An ninh Milton. Armansky cũng gọi cả Johan Fraklund, thanh tra hình sự ở cảnh sát Solna đã về hưu, nay là sếp đơn vị tác chiến của Milton và cựu thanh tra Sonny Bohman, người dính vào vụ Salander từ đầu. Họ đang nghiên cứu băng ghi hình theo dõi mà Linder vừa chiếu cho họ xem.
– Ðây, chúng ta thấy sĩ quan Sapo Jonas Sandberg đang mở cửa vào nhà Mikael lúc 3 giờ l7 phút. Hắn có chìa riêng. Các ông nhớ rằng thợ khóa Falun đã làm một bộ chìa dự phòng, hồi hắn và Goran Martensson lẻn vào đó vài tuần trước.
Armansky gật mỗi cái cụt lủn.
– Sandberg ở trong căn hộ ước chừng tám phút. Trong thời gian đó hắn đã làm những việc sau. Trước hết, hắn lấy ở trong bếp một cái túi nhựa nhỏ, hắn đổ gì đó vào đầy túi. Rồi hắn tháo ốc phần đáy của chiếc loa mà Mikael vẫn để trong phòng khách. Hắn cất cái túi kia vào trong đó. Hắn lấy cái túi ở trong bếp là có ý cả đấy.
– Cái túi ấy là từ siêu thị Konsum, – Blomkvist nói. – Tôi giữ nó để đựng pho mát và đồ lặt vặt.
– Tôi cũng thế. Dĩ nhiên điều quan trọng là túi ấy có dấu vân tay của anh. Rồi hắn lấy một tờ SMP trong thùng rác ở gian sảnh. Hắn xé một trang để gói một vật mà hắn cất lên giá trên cùng của tủ quần áo của anh. Trang báo này cũng giống cái túi: ở đó có dấu vân tay của anh.
– Tôi hiểu ý cô, – Blomkvist nói.
– Tôi đến nhà anh vào khoảng 5 giờ, – Linder nói. – Tôi tìm thấy những khoản sau: trong loa của anh hiện có chừng 180 gam cocaine. Tôi đã lấy một ít mẫu hiện tôi có ở đây.
Cô đặt một túi đựng bằng chứng lên bàn họp.
– Ở trong tủ quần áo là cái gì? – Blomkvist nói.
– Khoảng 120.000 krona tiền mặt.
Armansky ra hiệu cho Linder tắt tivi.
– Vậy Blomkvist bị dính vào buôn bán ma túy, – Fraklund nói hiền hậu. – Rõ là chúng bắt đầu lo ngại đôi chút với việc Blomkvist đang làm.
– Ðây là một phản đòn, – Blomkvist nói.
– Phản đòn với cái gì?
– Chúng xồ phải tuần tra an ninh của Milton ở Morgongava đêm trước.
Anh kể với họ chuyện Figuerola nói với anh về chuyến Sandberg thám thính xưởng in.
– Lũ tiểu yêu bất lương bắng nhắng, – Bohman nói.
– Nhưng sao lại là bây giờ cơ chứ?
– Chắc chúng căng thẳng về vấn đề mà Millennium có thể đăng lên khi phiên tòa bắt đầu mở, – Fraklund nói. – nếu Blomkvist bị bắt vì buôn bán cocaine thì tín nhiệm của anh ấy sẽ bị sứt mẻ nghiêm trọng.
Linder gật đầu. Nom vẻ Blomkvist ngờ vực.
– Chúng ta xử lý chuyện này thế nào? – Armansky nói.
– Chúng ta chả nên làm gì, – Fraklund nói. – Chúng ta nắm hết các quân bài. Chúng ta có bằng chứng trong như pha lê về việc Sandberg đặt ma túy ở nhà anh. Cứ để cho chúng nó bật bẫy đi. Chúng ta có thể trong một tích tắc chứng minh là anh vô tội, rồi ngoài thế ra nữa, trò này sẽ là bằng chứng thêm về các hoạt động tội ác của Bộ phận. Tôi sẽ rất khoái được làm công tố viên khi bọn này bị giải đến tòa.
– Tôi không biết, – Blomkvist nói chậm rãi. – Ngày kia tòa bắt đầu xét xử. Hôm thứ Sáu, ngày thứ ba của phiên tòa là báo ra quầy. Nếu chúng định bịa đặt cho tôi chuyện buôn bán cocaine thì trước khi phát hành tờ tạp chí tôi sẽ không có thì giờ nói rõ đầu đuôi. Tôi có nguy cơ bị tù và lỡ mất những buổi xét xử đầu tiên.
– Vậy là càng thêm một lý do để anh nên khuất mắt đi trong tuần này, – Armansky nói.
– Ðược… Tôi phải làm việc với kênh TV4 và tôi có nhiều thứ khác phải làm. Sẽ sinh chuyện ra ghê lắm đây…
– Thế tại sao lại ngay bây giờ nhỉ? – Thình lình Linder nói.
– Cô định nói gì? Armansky nói.
– Chúng đã có ba tháng để bôi nhọ Blomkvist. Tại sao lại làm chuyện kia vào ngay lúc này? Có xảy ra chuyện gì chăng nữa thì chúng cũng không ngăn được việc phát hành số tạp chí cơ mà.
Tất cả ngồi im lặng một lúc.
– Có thể là chúng không hiểu gì cả về những điều anh sẽ cho đăng báo, Mikael. – Armansky nói. – Chắc chúng giả định rằng anh sắp cho nổ ra một cái gì đó… nhưng chúng có thể nghĩ là anh chỉ có độc một bản báo cáo của Bjorck không thôi. Chẳng có lý nào mà chúng lại biết là anh đang định vén lên tấm rèm che phủ toàn thể Bộ phận. Nếu chỉ là bản báo cáo của Bjorck không thôi thì cái ấy chắc chắn cũng đã đủ bôi đen tên tuổi của anh. Một khi anh bị bắt và khởi tố thì bất cứ phát hiện nào anh từng mò ra cũng sẽ bị chìm nghỉm. Tai tiếng lớn. Mikael Blomkvist nổi tiếng đã bị bắt vì buôn bán ma túy. Sáu đến tám năm tù.
– Tôi có thể có hai bản sao đĩa video được không? – Blomkvist nói.
– Anh định làm gì với các đĩa ấy?
– Nộp một bản cho Edklinth. Ba giờ nữa tôi sẽ ở TV4. Tôi nghĩ nên khôn ngoan cho cái băng này sẵn sàng lên tivi nếu hoặc khi toàn bộ địa ngục bung ra.
o O o
Figuerola tắt đầu video rồi để chiếc điều khiển lên bàn. Họ đang gặp nhau ở văn phòng tạm thời tại Fridhemsplan.
– Cocaine, – Edklinth nói. – Chúng đang chơi trò bẩn thỉu ở đây.
Figuerola nom đăm chiêu. Cô liếc nhìn Blomkvist.
– Tôi nghĩ tốt nhất là giữ cho các bạn đều được cập nhật, – anh nhún vai nói.
– Tôi không thích thế, – Figuerola nói. – Việc đó khiến cho khinh xuất. Một ai đó chưa thực sự nghĩ thấu đáo đến việc này. Chúng chắc nhận thấy anh sẽ chẳng lặng lẽ ra đi để rồi bị bắt quẳng vào hầm boong ke ở Kumla vì tội danh buôn ma túy.
– Tôi đồng ý, – Blomkvist nói.
– Ngay cho là anh có bị bắt đi nữa thì nhiều khả năng người ta sẽ vẫn cứ tin những gì anh nói. Và bạn anh ở Millenniumcũng sẽ chẳng ngồi im nốt.
– Hơn nữa, chúng cũng hao mất khối tiền trong chuyện này. – Edklinth nói. – Chúng có một cái quỹ cho phép rải ở đây ở kia từng 120.000 krona mà không xót ruột, chưa kể cocaine chúng cũng phải mất tiền mua.
– Tôi biết, nhưng thực sự kế hoạch này không tồi, – Blomkvist nói. – Chúng đang tính đến việc cho Salander lại quay về nhà thương điên trong khi tôi thì biến mất trong một màn sương nghi hoặc. Chúng cũng biết nếu có sự chú ý thì sự chú ý sẽ là tập trung vào Sapo – chứ không vào Bộ phận.
– Nhưng chúng làm thế nào để thuyết phục đội chống ma túy đến nhà anh được cơ chứ? Ý tôi là một cái tin tố cáo vô danh sẽ không đủ để người ta đến đạp cửa một nhà báo ngôi sao. Và nếu như chúng có làm được gì thì anh cũng sẽ chỉ bị nghi ngờ trong vòng bốn mươi tám giờ đồng hồ là hết.
– Ờ, chúng ta thực sự là không biết gì cả về kế hoạch của chúng, – Blomkvist nói.
Anh cảm thấy kiệt sức và mong muốn mọi sự sẽ chấm dứt hết. Anh đứng lên.
– Anh đi đâu đây? – Figuerola nói. – Tôi muốn biết trong ít ngày tới anh sẽ ở đâu.
– Bữa trưa tôi họp với TV4. 6 giờ tối tôi phải gặp kịp Berger để ăn cừu om ở nhà hàng Samir. Chúng tôi sẽ bàn kỹ chuyện phát hành báo. Còn chiều và tối thì tôi ở Millennium, tôi hình dung là như vậy.
Mắt Figuerola nheo lại khi cô nghe nhắc đến Berger.
– Tôi cần anh giữ liên lạc với chúng tôi cả ngày. Cho đến khi mở phiên tòa, tôi muốn anh giữ liên lạc chặt chẽ với chúng tôi.
– Có thể tôi dọn đến nhà cô ở ít ngày, – Blomkvist cười nói đùa.
Mặt Figuerola tối lại. Cô vội liếc nhìn Edklinth.
– Monica nói đúng đấy, – Edklinth nói. – Tôi nghĩ thời gian này ít nhiều anh nên khuất khỏi mắt mọi người đi.
– Ông hãy lo cho cái khúc kết của ông ấy, – Blomkvist nói, – còn tôi thì sẽ lo cho khúc kết của tôi.
o O o
Phóng viên của kênh TV4 không giấu được kích động khi Blomkvist đưa cho chị cái đĩa video. Blomkvist khoái trá với niềm vui không hề tô vẽ của chị. Trong một tuần liền họ đã làm như đánh vật để ghép nối cho mạch lạc lại tài liệu về Bộ phận mà họ có thể sẽ công bố trên truyền hình. Vị chủ nhiệm và biên tập viên tin tức của TV4 không còn có nghi ngờ gì về câu chuyện đặc biệt này sẽ động trời đến đâu. Chương trình được sản xuất trong bí mật tuyệt đối, chỉ có rất ít người trực tiếp tham gia. Blomkvist nài và họ đồng ý rằng đây sẽ là món đầu trò ở buổi tối ngày xét xử thứ ba của phiên tòa. Họ quyết định làm một chương trình đặc biệt, kéo dài trong một tiếng.
Blomkvist đã cung cấp cho chị một số bức ảnh tĩnh để làm việc nhưng trên tivi thì chả có gì so được với hình ảnh động. Chị chỉ thích thú khi anh cho chị xem đĩa video – nét sắc như lưỡi dao cạo – về một sĩ quan cảnh sát có thể nhận diện được đang gài giấu cocaine trong căn hộ của anh.
– Truyền hình thế này là truyền hình chứ, – chị nói. – Camera quay: Ðây là Sapo đang gài giấu cocaine trong căn hộ của phóng viên.
– Bộ phận… không phải Sapo, – Blomkvist sửa lại. – Đừng có lầm mà đem hai đứa lẫn thành là một.
– Sandberg làm cho Sapo, lạy Chúa, – chị nói.
– Ðúng, nhưng trong thực tế, nên coi hắn là một kẻ thâm nhập. Hãy giữ ranh giới cho rõ ràng vào.
– Hiểu. Đây là câu chuyện về Bộ phận. Không phải Sapo. Mikael, anh có thể giải thích với tôi làm sao anh lại cứ hay dính vào các câu chuyện li kì như thế này được không? Mà anh đều đúng cả. Chuyện này rồi sẽ lớn hơn vụ Wennerstrom đây.
– Thuần là tài năng, tôi đoán vậy. Khá buồn cười là câu chuyện này cũng lại bắt đầu với một Wennerstrom. Vụ xì căng đan gián điệp hồi những năm 60, ý tôi như thế.
4 giờ Berger gọi. Chị đang họp với hội các nhà xuất bản báo chí, chia sẻ quan điểm của chị về kế hoạch cắt giảm người ởSMP, điều mà sau khi chị từ chức đã làm dấy lên một cuộc xung đột lớn trong làng báo. Chị sẽ không thể y hẹn đến ăn bữa tối với anh vào đúng 6 giờ được.
o O o
Sandberg giúp Clinton xê dịch từ chiếc ghế lăn đến cái giường nghỉ ban ngày trong căn phòng nay là trung tâm chỉ huy của ông tại ban chỉ huy của Bộ phận ở Artillerigatan. Ði lọc thận suốt buổi sáng, Clinton vừa trở về xong. Ông cảm thấy già nua, suy nhược. Mấy ngày qua khó ngủ, ông mong tất cả câu chuyện này sẽ mau chóng đi tới kết thúc. Ông đang cố xoay người ngồi lên cho dễ chịu thì Nystrom xuất hiện.
Clinton lấy hết sức lực.
– Sẵn sàng chưa?
– Tôi vừa ở chỗ họp với anh em nhà Nikolich về đây, – Nystrom nói. – Sẽ phải trả 50.000.
– Chúng ta trả được, – Clinton nói.
Chúa ơi, giá như con được trẻ lại.
Ông quay lại lần lượt nhìn kỹ Nystrom và Sandberg.
– Lương tâm không cắn rứt chứ? – Ông nói.
Họ lắc.
– Khi nào?
– Trong vòng hai mươi tư giờ, – Nystrom nói. – Khó xác định ra chỗ Blomkvist hiện đang ở, nhưng gặp tình hình xấu nhất thì họ sẽ làm chuyện đó ở bên ngoài tòa soạn Millennium.
– Chúng ta có một cơ hội khả thi tối nay, hai giờ nữa, – Sandberg nói.
– Ô, thật ư?
– Trước đây một tí Berger gọi điện thoại cho hắn. Chúng đi ăn ở quán Chảo Ðại của Samir. Nhà hàng này ở gần Bellmansgatan.
– Berger, – Clinton nói ngập ngừng.
– Tôi hy vọng ơn Chúa chị ta không… – Nystrom nói.
– Như thế cũng không kết liễu mất cái thế giới này đâu mà, – Sandberg nói.
Clinton và Nystrom chằm chằm nhìn Sandberg.
– Chúng ta đã đồng ý rằng Blomkvist là mối đe đọa lớn nhất, rằng hắn đang sắp đăng trong số Millennium tới một cái gì đó gây thiệt hại. Không chặn được việc xuất bản thì chúng ta phải hủy hoại tín nhiệm của hắn. Nếu hắn bị giết trong một trường hợp có vẻ như là một vụ điển hình của thế giới ngầm thủ tiêu nhau mà rồi cảnh sát tìm thấy ma túy cùng với tiền mặt ở nhà hắn thì các nhà điều tra sẽ rút ra kết luận. Họ sẽ không nhăm nhăm đi tìm các âm mưu dính dáng tới Cảnh sát An ninh.
– Nói tiếp đi, – Clinton nói.
– Berger đúng thật là người yêu của Blomkvist, – Sandberg nói, giọng chắc chắn. – Ả bất nghì với chồng. Nếu ả cũng là nạn nhân thì chuyện ấy sẽ lại dẫn đến suy đoán xa hơn nữa.
Clinton và Nystrom liếc nhìn nhau. Khi đụng đến chuyện tung hỏa mù, Sandberg có một tài năng thiên bẫm. Hắn học nhanh. Nhưng Clinton và Nystrom cảm thấy chớm một chút lo âu. Về các quyết định sống chết, Sandberg quá phóng tay. Ðiều đó không tốt. Không nên dùng đến các biện pháp cực đoan là vì thế nào thì rồi cũng sẽ có một cơ hội tự nó bày ra thôi. Ám sát không là giải pháp dễ làm; chỉ khi không còn lối nào khác thì mới trông cậy vào nó.
Clinton lắc đầu.
Tổn thất liên lụy, ông nghĩ. Thình lình ông thấy ghê ớn với toàn bộ vụ tác chiến này.
Sau cả một đời phục vụ đất nước, chúng ta đang ngồi ở đây như những tên lính đánh thuê. Giết Zalachenko là cần thiểt. Bjorck là… đáng tiếc, nhưng Gullberg nói đúng: lẽ ra xá cho Bjorck. Blomkvist thì… có thể là cần. Nhưng còn Erika Berger có thể chỉ là một người ghé qua vô tội.
Ông điềm đạm nhìn Sandberg. Ông hy vọng con người trẻ tuổi này sẽ không trở thành một kẻ bị bệnh tâm thần.
– Anh em nhà Nikolich biết đến đâu?
– Không biết gì hết. Tức là không biết về chúng ta. Tôi là người duy nhất mà họ gặp. Tôi dùng giấy căn cước khác và họ không thể tìm ra tung tích tôi. Họ cho chuyện này là liên quan đến buôn bán ma túy.
– Sau khi xong việc thì họ thế nào?
– Họ rời Thụy Điển ngay, – Nystrom nói. – Giống như sau vụ giết Bjorck trước kia. Nếu điều tra án mạng không có kết quả thì sau vài tuần họ có thể rất thận trọng quay về.
– Còn cách làm?
– Kiểu mafia Sicile. Họ cứ thế đi thẳng tới Blomkvist, nã hết ổ đạn rồi đi bộ đi.
– Vũ khí?
– Họ có một khẩu tự động. Tôi không biết kiểu gì.
– Tôi rất hy vọng họ sẽ không tưới đạn vào tất cả nhà hàng.
– Không có mối nguy ấy đâu. Họ là dân lì lợm, biết phải làm gì mà. Nhưng nếu Berger cùng ngồi một bàn thì…
Tổn thất liên lụy.
– Xem này, – Clinton nói. – Quan trọng là không cho Wadensjoo nghe hơi được tí nào về chuyện này. Ðặc biệt nếu như Berger thành nạn nhân thì lại càng không. Vào lúc kịch tính như thế này, ông ấy bị stress. Tôi sợ khi chuyện này kết thúc chúng ta sẽ phải cho ông ấy về vườn mất.
Nystrom gật.
– Như thế có nghĩa là khi được tin Blomkvist bị bắn, chúng ta phải đóng một màn kịch hay hay. Chúng ta sẽ triệu tập họp khẩn cấp và làm ra vẻ như bị chết đứng tất cả vì câu chuyện nó lại thành ra thế. Chúng ta có thể suy luận về ai ở đằng sau vụ án mạng nhưng không nói gì hết đến ma túy cho tới khi cảnh sát tìm ra bằng chứng.
o O o
Blomkvist từ biệt phóng viên của Nàng ngay đúng 5 giờ. Họ đã qua buổi chiều lấp đầy vào các khe hở trong tài liệu. Rồi Blomkvist đi để cho người ta hóa trang và chịu ghi hình một màn phỏng vấn dài.
Một câu hỏi đặt ra cho anh và anh đã phải chật vật để trả lời cho được mạch lạc và họ đã phải quay đoạn này nhiều lần.
Làm sao các viên chức dân sự của Chính phủ Thụy Điển lại có thể đi xa tới chỗ gây án mạng được?
Blomkvist đã nghiền ngẫm câu hỏi này lâu trước khi phóng viên của Nàng đặt ra. Chắc Bộ phận đã coi Zalachenko là một đe dọa không thể chấp nhận được nhưng đó vẫn chưa phải là một câu trả lời làm hài lòng. Câu trả lời cuối cùng anh đưa ra cũng không thỏa mãn nốt.
– Lời giải thích hợp lý duy nhất mà tôi có thể đưa ra là trong nhiều năm Bộ phận đã phát triển thành một kiểu tôn thờ, hiểu theo cái nghĩa đích thực của từ này. Họ trở nên giống như Knutby hay mục sư Jim Jones hay một thứ gì đại loại thế. Họ đặt ra luật riêng của họ, trong đó các khái niệm đúng sai đều không còn thích hợp nữa. Qua các luật này họ tưởng tượng thấy là bản thân họ đã tách biệt ra khỏi xã hội bình thường.
– Ðiều đó nghe như một kiểu bệnh tâm thần, anh có nghĩ thế không?
– Mô tả như thế thì sẽ không chính xác.
o O o
Blomkvist đi xe điện ngầm tới Slussen. Còn quá sớm để đến Chảo Ðại của Samir. Anh đứng một lúc ở Sodermalmstorg. Anh vẫn còn phiền muộn nhưng rồi hoàn toàn bất ngờ, anh lại cảm thấy là cuộc sống đúng là phải như vậy. Không phải chỉ đến khi Berger trở về Millennium anh mới nhận ra là mình đã nhớ chị dữ dội. Ngoài ra, việc chị cầm lại tay lái con tàu đã không dẫn đến một cuộc bất hòa nội hộ; Eriksson vui vẻ chuyển về chức Phó tổng biên tập, gần như khoái trá rằng cuộc đời từ nay đã trở lại bình thường như lời cô nói ra.
Việc Berger trở về cũng có nghĩa rằng ai cũng đều thấy ba tháng qua họ đã bị thiếu người làm đến mức nào. Berger phải bắt đầu lại các phận sự của chị ở một Millennium đang vận hành, chị và Eriksson đã tìm cách cùng giải quyết một số vấn đề về tổ chức bị dồn đống.
Blomkvist quyết định mua báo chiều và uống cà phê ở Java trên đường Hornsgatan để giết thì giờ trước khi gặp Berger.
o O o
Công tố viên Ragnhild Gustavsson ở Văn phòng Công tố viên Quốc gia đặt kính đọc sách của bà xuống bàn hội nghị và xem xét nhóm người. Mặt bà có đường nét nhưng má thì bánh đúc và ngắn, tóc đã hoa râm. Bà làm công tố viên đã hai mươi lăm năm và làm ở Văn phòng Công tố viên Quốc gia từ đầu thập niên 90. Bà năm mươi tám tuổi.
Mới ba tuần trôi qua từ khi bà thình lình triệu tập sĩ quan cảnh sát cao cấp Edklinth, Giám đốc Bảo vệ Hiến pháp đến Văn phòng công tố viên Quốc gia gặp bà. Hôm ấy bà đang bận làm cho xong một hay hai vấn đề đã trở thành nề nếp để lương tâm có thể thanh thản bắt đầu kỳ nghỉ phép sáu tuần ở căn nhà nghỉ mùa hè của bà trên đảo Husaro. Thay vì vậy, bà lại được trao cho nhiệm vụ điều tra một nhóm viên chức dân sự mang cái tên là “Bộ phận”. Các dự định nghỉ ngơi mau chóng bị gác lại. Người ta khuyên bà rằng chuyến này sẽ là dịp hay cho cái tương lai có thể trông thấy trước của bà và bà ít nhiều được tự do sắp đặt lấy nhóm tác chiến cũng như ra các quyết định cần thiết.
– Chuyến này có thể cho thấy nó là một trong những cuộc điều tra hình sự giật gân nhất mà đất nước từng chứng kiến đây, – Tổng công tố viên bảo bà.
Bà bắt đầu nghĩ ông nói đúng.
Edklinth nói tóm tắt tình hình cùng cuộc điều tra ông tiến hành theo chỉ thị của Thủ tướng và bà nghe mỗi lúc lại một thêm thú vị. Cuộc điều tra vẫn chưa xong nhưng ông tin rằng nhóm của ông đã đi khá xa để có thể trình bày vụ án lên cho công tố viên được rồi.
Trước hết Gustavsson duyệt lại tất cả các tài liệu Edklinth trao nộp. Khi hình bóng lờ mờ của hoạt động tội ác bắt đầu nổi lên, bà nhận thấy rằng mỗi quyết định bà đề ra hôm nay sẽ được các sử gia và độc giả của họ một ngày nào đó chăm chú rọi mắt đến. Từ đấy, những lúc thức bà đều bỏ công ra để cố nắm lấy các tội ác nhiều vô số. Vụ án này là duy nhất trong pháp luật Thụy Điển. Do nó liên quan đến hoạt động tội ác đang được dựng lên thành biểu đồ và từng diễn ra trong vòng ít nhất đã ba chục năm nên bà thừa nhận cần phải có một nhóm tác chiến đặc biệt nào đó. Bà nhớ các điều tra viên chống mafia của Chính phủ Ý hồi những năm 70, 80 đã buộc phải sống chui sống lủi để mà sống sót nổi. Bà biết tại sao bản thân Edklinth cũng bắt buộc phải làm việc bí mật. Ông chẳng biết tin ai.
Ðẩu tiên bà gọi ba đồng nghiệp ở Văn phòng Công tố viên Quốc gia. Bà chọn những người bà quen biết đã nhiều năm. Rồi bà mướn một sử gia nổi tiếng đã làm việc ở Hội đồng Phòng chống Tội phạm, giúp phân tích vấn đề sự gia tăng trách nhiệm và quyền lực của cảnh sát trong các thập niên. Bà chính thức chỉ định thanh tra Figuerola cầm đầu cuộc điều tra. Đến lúc này, cuộc điều tra về Bộ phận đã mang một hình thức có giá trị hiến pháp. Nay nó được coi ngang bất kỳ cuộc điều tra nào khác của cảnh sát, dù họ tiến hành điều tra trong tuyệt đối bí mật.
Trong hai tuần qua, công tố viên Gustavsson đã gọi một số đông cá nhân đến để thẩm vấn chính thức nhưng cực kỳ kín đáo. Cũng như với Edklinth và Figuerola, các cuộc điều tra này đã được tiến hành với các thanh tra hình sự Bublanski, Modig, Andersson, Holmberg. Bà đã triệu Mikael Blomkvist, Malin Eriksson, Henry Cortez, Christer Malm, luật sư Giannini, Dragan Armansky và Susanne Linder, và bà đích thân đi thăm Holger Palgrem, người giám hộ cũ của Lisbeth Salander. Ngoài các nhân viên tòa soạn của Millennium về nguyên tắc không phải trả lời vì sợ lộ các nguồn tin của họ, tất cả đều đã cho ra những câu trả lời chi tiết, trong một vài trường hợp lại còn có cả tài liệu làm bằng.
Công tố viên Gustavsson không hề thích thú chút nào việc bà phải nhận một thời gian biểu do Millennium quyết định. Cái này có nghĩa là bà phải lệnh bắt một số cá nhân vào một ngày giờ đặc biệt. Bà biết theo lý thuyết thì trước khi cuộc điều tra đạt tới giai đoạn hiện nay, bà đã có vài ba tháng chuẩn bị. Nhưng bà không còn được lựa chọn. Blomkvist thì cứng rắn. Millennium không chịu bất cứ chỉ dẫn hay điều hành nào của Chính phủ và anh đang định cho đăng bài báo vào ngày thứ ba của phiên tòa xử Salander. Vậy là Gustavsson phải chỉnh lịch làm việc của mình để cùng lúc ra đòn với anh khiến cho các cá nhân bị nghi ngờ kia không có cơ hội biến mất cùng với tang vật và bằng chứng. Blomkvist được Edklinth và Figuerola đỡ lưng đến độ ngạc nhiên, bà công tố viên cũng đã đi tới chỗ thấy kế hoạch của Blomkvist có một số lợi điểm rõ ràng. Là công tố viên, bà sẽ có được đầy đủ sự ủng hộ tập trung của giới truyền thông mà bà cần đến để xúc tiến việc tố tụng. Thêm vào đó, tiến độ của toàn bộ quá trình sẽ rất nhanh đến độ cuộc điều tra phức tạp này cũng chẳng có cả thì giờ để mà rò rỉ ra ở các hành lang của bộ máy quan liêu, từ đó mà có nguy cơ bị Bộ phận phát hiện.
– Ưu tiên hàng đầu của Blomkvist là mang lại công lý trọn vẹn cho Salander. Chẹt cổ Bộ phận chỉ là thứ phẩm, – Figuerola nói.
Phiên tòa xử Lisbeth Salander bắt đầu hôm thứ Tư, còn hai ngày nữa. Cuộc họp hôm thứ Hai dính đến việc duyệt lại tài liệu mới nhất mà họ có trong tay, sau đó phân công phân nhiệm.
Mười ba người dự họp. Ragnhild Gustavsson mang hai đồng nghiệp gần gũi với bà nhất ở Hội đồng Công tố viên Quốc gia đến. Thanh tra hình sự Monica Figuerola ở Bảo vệ Hiến pháp đến cùng với Bladh và Berglund. Edklinth là Giám đốc Bảo vệ Hiến pháp ngồi đó làm quan sát viên.
Nhưng Gustavsson quyết định rằng với một vấn đề quan trọng như thế này thì không thể nào chỉ thu hẹp sự tin cậy vào trong nội bộ SIS mà thôi. Do đó bà triệu thanh tra Bublanski cùng nhóm của ông gồm có Modig, Holmberg và Andersson ở lực lượng cảnh sát chính quy. Dẫu sao họ cũng đã làm việc về vụ án Salander từ lễ Phục sinh và đã quen thuộc với mọi chi tiết. Gustavsson cũng gọi cả công tố viên Jervas và thanh tra Erlander ở cảnh sát Goteborg. Cuộc điều tra Bộ phận có quan hệ trực tiếp với cuộc điều tra vụ giết Alexander Zalachenko.
Khi Figuerola nhắc rằng cựu Thủ tướng Thorbjorn Falldin có thể nhận đứng ra làm nhân chứng, Holmberg và Modig không giấu nổi vẻ khó chịu của mình.
Họ xem xét lần lượt trong năm giờ từng cá nhân đã được nhận diện là một phần tử tích cực ở Bộ phận. Sau đó họ dựng danh sách các tội ác có thể gắn vào với căn hộ ở Artillerigatan. Chín người nữa đã được nhận diện là có liên quan với Bộ phận, tuy họ chưa đến Artillerigatan bao giờ. Ban đầu họ làm việc ở SIS tại Kungsholmen, nhưng họ đã tiếp xúc một số phần tử tích cực của Bộ phận.
– Vẫn không thể nói được âm muu này đã lan ra đến đâu. Chúng ta không biết những người này gặp Wadensjoo hay ai đó ở trong các hoàn cảnh nào. Họ có thể là các nguồn tin hay họ có thể đã bị gán cho cái cảm tưởng là đang làm việc cho các công việc nội bộ hay một cái gì đó tương tụ. Vậy là vẫn có phần chưa chắc chắn hẳn về sự dính líu của họ, và chỉ khi nào chúng ta có cơ hội thẩm vấn họ thì mới giải quyết được điều này. Vả lại, trong các tuần lễ mà việc giám sát có hiệu quả, chúng ta đã quan sát những người này; có thể còn có nhiều người hơn nữa mà chúng ta chưa biết.
– Nhưng Chánh văn phòng và Chánh Thủ quỹ…
– Chúng ta cần phải cho rằng hiện họ đang làm việc cho Bộ phận.
6 giờ chiều thứ Hai thì Gustavsson cho mọi người giải lao một giờ để ăn tối, sau đó họ lại họp tiếp.
Ðúng lúc mọi người đứng lên bắt đầu đi ra thì Jesper Thoms, đồng nghiệp của Figuerola ở đơn vị tác chiến của Bảo vệ Hiến pháp kéo cô ra ngoài báo cáo về một việc vừa mới diễn ra trong mấy giờ theo dõi cuối cùng.
– Gần hết ngày hôm nay, Clinton chạy thận nhân tạo và quay về Arrtillerigatan lúc 3 giờ. Người duy nhất làm một cái gì đó đáng chú ý là Nystrom, tuy chúng tôi không biết rõ ràng là hắn làm gì.
– Kể đi, – Figuerola nói.
– Lúc 1 rưỡi hắn lái xe đi đến Ga Trung tâm gặp hai người đàn ông. Họ đi bộ đến khách sạn Sheraton uống cà phê ở bar. Gặp chừng hai chục phút, sau đó Nystrom về Artillerigatan.
– OK. Thế họ là ai?
– Mặt mới cả. Hai người ba mươi mấy tuổi có vẻ gốc Ðông Âu. Không may là khi họ vào xe điện ngầm thì người quan sát của chúng ta lại bị mất hút họ.
– Tôi hiểu, – Figuerola nói mệt mỏi.
– Ảnh họ đây, – Thoms nói. Ông đưa cho Figuerola một loạt ảnh chụp khi theo dõi.
Cô liếc xem ảnh phóng to của hai bộ mặt trước đây cô chưa từng trông thấy.
– Cảm ơn, – cô nói, để các bức ảnh xuống bàn họp. Cô lấy túi xách đi kiếm cái gì ăn.
Ðứng gần đó, Andersson cúi xuống gần nữa xem bức ảnh.
– Mẹ kiếp, – ông nói. – Anh em nhà Nikolich dính vào đây ư?
Figuerola đang đi liền đứng lại.
– Ông nói ai đấy?
– Hai gã đầu gấu rất tầm bậy, – Andersson nói. – Tomi và Miro Nikolich.
– Ông đã từng đụng phải chúng à?
– Đã. Hai anh em này người Huddinge, Serbia. Chúng tôi đã theo dõi chúng mấy lần khi chúng mới hai mươi tuổi còn tôi thì ở đơn vị chống băng đảng. Miro nguy hiểm. Nó đã bị truy nã khoảng một năm vì hành hung gây thương tích. Tôi đã nghĩ là chúng về lại Serbia làm chính trị gia hay gì đó rồi cơ.
– Chính trị gia?
– Đúng. Đầu những năm 90 chúng xuống Nam Tư, nhúng tay vào công việc thanh lọc sắc tộc. Chúng làm việc cho Arkan, một thủ lĩnh mafia đang trông coi một kiểu dân binh phát xít của tư nhân. Chúng nổi tiếng thiện xạ.
– Thiện xạ?
– Dân đao búa giết người. Chúng đi đi về về giữa Belgrade với Stockholm. Ông chủ của chúng nó có một nhà hàng ở Norrmalm và đôi khi có vẻ chúng cũng làm ăn ở đó. Chúng tôi có báo cáo nói chúng ít nhất đã dính vào hai vụ giết người trong cái trò gọi là “chiến tranh thuốc lá” nhưng chúng tôi không áp sát được để gõ đầu chúng tội gì.
Figuerola im lặng nhìn các bức ảnh. Thình lình cô nhợt đi như tàu lá. Cô trừng trừng nhìn Edklinth.
– Blomkvist, – Cô hoảng hốt kêu lên. – Chúng không chỉ muốn đẩy anh ấy vào tai tiếng đâu, chúng còn định giết cả anh ấy. Lúc ấy khi điều tra án mạng, cảnh sát sẽ tìm ra cocaine và rút ra kết luận của họ.
Edklinth trừng trừng nhìn lại cô.
– Anh ấy được nhắn là gặp Erika Berger ở nhà hàng Chảo Ðại của Samir, – Figuerola nói.
Cô túm lấy vai Andersson.
– Ông có súng không?
– Có…
– Đi với tôi.
Figuerola nhào ra khỏi phòng họp. Văn phòng của cô ở cách ba phòng bên dưới đó.
Cô chạy vào lấy khẩu súng công vụ trong ngăn kéo bàn làm việc. Trái với mọi nội quy, cô vọt luôn ra thang máy, để cửa văn phòng mở toang không khóa. Andersson hơi ngập ngừng.
– Đi đi, – Bublanski nói. – Sonja, đi cả với họ đi.
o O o
Blomkvist đến nhà hàng Chảo Đại của Samir lúc 6 giờ 20 phút. Vừa đến xong, Berger đã tìm một bàn gần quầy bar, không xa cửa ra vào. Anh hôn lên má chị. Cả hai gọi cừu om và bia nặng.
– Người phụ nữ ở Nàng thế nào? – Berger nói.
– Lạnh, như thông lệ.
Berger cười thành tiếng.
– Nếu anh không canh chừng là có ngày anh bị chị ấy ám mê mẩn đấy. Tưởng tượng xem, phụ nữ thì ai mà cưỡng lại được sức hấp dẫn của Blomkvist nổi tiếng chứ nhỉ.
– Thật ra trong nhiều năm rồi nhiều phụ nữ không bị đổ vì anh, – Blomkvist nói. – Hôm nay em làm việc thế nào?
– Công toi. Nhưng em nhận lời mời lên sàn ở Câu lạc bộ nhà báo tranh luận về toàn bộ công chuyện làm ăn của SMP. Ðóng góp cuối cùng của em ở đấy.
– Nhất đấy.
– Về lại Millennium mới thật nhẹ hết cả người.
– Em không biết em về như thế là hay đến thế nào đâu. Anh mừng quýnh lên.
– Được làm việc lại vui thật.
– Nhem nhem.
– Em thích.
– Và anh thì phải đến chỗ quý ông đây 1.
Anh suýt nữa va phải một người đàn ông vừa đi vào. Blomkvist để ý thấy người này nhang nhác vẻ Ðông Âu và đang chằm chằm nhìn anh. Rồi anh trông thấy khẩu tiểu liên.
Khi họ đi qua Riddarrholmen, Edklinth gọi báo là không gọi được cho Blomkvist và Berger. Chắc hai người đang ăn tối nên tắt máy.
Figuerola chửi thề, đi qua Sodermalmstorg với tốc độ suýt soát tám mươi cây số một giờ. Cô cứ ấn còi rồi rẽ ngoắt đi đến Hornsgatan.
Andersson phải bíu lấy cánh cửa xe. Ông lấy súng ra kiểm tra kẹp đạn. Ở ghế sau, Modig cũng làm tương tự.
– Chúng ta cần gọi thêm quân, – Andersson nói. – Cô không vờn nhau với anh em bọn Nikolich được đâu.
Figuerola nghiến răng.
– Chúng ta sẽ làm thế này, – Cô nói. – Sonja và tôi sẽ đi thẳng vào nhà hàng, hy vọng họ còn ngồi trong đó. Curt biết mặt mũi chúng thế nào cho nên ông đứng ở ngoài cảnh giới.
– Ðúng.
– Nếu mọi sự tốt cả, chúng ta sẽ kéo hai người ra xe và đưa họ về Kungsholmen. Nếu nghi có gì không ổn, chúng ta sẽ ở lại trong nhà hàng và gọi quân trợ lực đến.
– OK. – Modig nói.
Figuerola sắp đến nhà hàng thì radio cảnh sát lẹt rẹt kêu bên dưới bảng điều khiển trong ôtô.
Tất cả các đơn vị chú ý. Súng nổ ở đường Tavastgatan trên mạn Sodermalm. Nhà hàng Chảo Đại của Samir.
Figuerola thấy ngực cô thình lình hẫng hẳn xuống.
o O o
Berger thấy Blomkvist đâm sầm vào một người đàn ông khi anh đi qua cửa tới toa lét. Chị cau mày không hiểu tại sao. Chị thấy một người đàn ông khác ngạc nhiên nhìn trừng trừng vào Blomkvist. Chị nghỉ chắc là một ai đó mà anh biết.
Rồi chị trông thấy người ấy lùi lại một bước, quẳng một cái túi xuống sàn. Thoạt tiên chị chưa hiểu là mình nhìn thấy cái gì. Chị ngồi chân tay cứng đờ lại khi hắn giơ một thứ súng ống gì đó lên nhằm vào Blomkvist.
o O o
Không kịp nghĩ gì, Blomkvist phản ứng luôn. Anh vung tay trái, nắm lấy nòng khẩu súng quay ngược nó lên trần nhà. Trong một thoáng giây mũi súng đi qua trước mặt anh.
Tiếng nổ của khẩu tiểu liên làm nhức óc cả gian phòng nhỏ. Vôi vữa, kính ở các ngọn đèn trên đầu rơi như mưa xuống Blomkvist khi Miro Nikolich bóp liền mười một phát súng. Có một lúc Blomkvist nhìn thẳng vào mắt hung thủ tấn công.
Rồi Nikolich lùi lại một bước chĩa súng vào anh. Blomkvist không chuẩn bị nên buông mất nòng súng. Anh biết ngay rằng mình đang trong cơn nguy mất mạng. Theo bản năng anh xông vào kẻ tấn công thay vì nằm xuống hay tìm cái che đỡ. Sau này anh mới nhận ra nếu tránh hay lùi lại thì anh sẽ trúng đạn ngay tại chỗ. Anh lại nắm lấy nòng khẩu tiểu liên, lấy hết sức đùn dúi kẻ tấn công vào tường. Nghe thấy mười một phát đạn nữa, anh tuyệt vọng bẻ quặt khẩu súng cho nòng chúi xuống đất.
o O o
Khi loạt đạn thứ hai bắn ra Berger núp tránh theo bản năng. Chị loạng chạng rồi ngã, đập đầu vào một chiếc ghế. Nằm dưới sàn chị nhìn lên thấy ba cái lỗ ở trên tường đằng sau chỗ họ vừa ngồi.
Choáng hết cả người chị quay đầu lại thấy Blomkvist đang vật nhau với người đàn ông ở bên cửa. Anh khuỵu gối xuống, hai tay nắm lấy khẩu súng và cố giật cho nó tuột ra. Chị thấy kẻ tấn công cũng đang giằng co để sổng ra. Hắn đấm liên hồi vào mặt và thái dương Blomkvist.
o O o
Figuerola phanh sững xe lại ở đối diện bên kia Chảo Ðại của Samir, tung cửa xe chạy qua đường sang nhà hàng. Khi thấy chiếc xe đỗ ở ngay trước nhà hàng, cô liền lấy khẩu Sig Sauer ra cầm ở tay, chốt an toàn đã mở.
Thấy một trong hai anh em Nikolich ở sau tay lái, cô chĩa súng vào mặt hắn ở đằng sau ghế tài xế.
– Cảnh sát. Giơ tay lên, – cô hét.
Tomi Nikolich giơ tay lên.
– Ra xe, nằm úp mặt xuống đường, – Cô gầm lên, giọng phẫn nộ. Cô quay lại thấy Andersson và Modig ở bên cạnh. – Nhà hàng, – cô nói.
Modig đang nghĩ đến các con chị. Quy định của cảnh sát là khi không có quân yểm hộ sẵn ở trong một tòa nhà và không nắm được tình hình tại chỗ thì cấm cầm súng trong tay mà xổng xộc vào đó.
Rồi chị nghe thấy nhiều tiếng súng nữa nổ ở trong nhà.
o O o
Khi Miro Nikolich toan cố bắn nữa, Blomkvist đã lùa ngón tay giữa của anh vào giữa cò súng và thành khoang cò súng. Anh nghe thấy tiếng kính vỡ loảng xoảng ở đằng sau. Anh thấy đau nhói khi hung thủ cứ siết mãi vào cò súng, nghiến chặt lấy ngón tay giữa của anh. Chừng nào ngón tay anh còn kẹt ở đây thì súng không thể bắn được. Nhưng vì Nikolich đấm lia lịa vào mang tai anh thì anh chợt nhận ra là anh đã quá già để chơi được cái trò này.
Phải cho chuyện này xong đi thôi, anh nghĩ.
Từ khi biết rằng có người đang cầm súng tiểu liên thì đây là ý nghĩ hợp lý đầu tiên của anh.
Anh nghiến răng thọc sâu ngón tay hơn vào khoang cò súng.
Rồi anh dốc sức thúc vai vào người đứa tấn công, buộc hắn phải rướn lên mà lùi lại. Anh rút tay phải, buông khẩu súng ra, giơ khuỷu tay lên che mặt cho khỏi bị đấm. Nikolich quay sang đánh vào nách và mạng sườn. Một lúc cả hai lại đứng trông vào mắt nhau.
Sau đó Blomkvist cảm thấy kẻ tấn công bị kéo ra khỏi anh. Anh cảm thấy ngón tay anh đau ghê gớm một lần cuối cùng nữa rồi nhận ra thân hình đồ sộ của Andersson. Viên sĩ quan cảnh sát nắm chặt lấy gáy Nikolich nhấc lên quật đầu nó vào tường cạnh cửa. Nikolich gục ngay xuống đất.
– Nằm xuống, cảnh sát đây. Nằm im!
Blomkvist nghe thấy Modig quát. Anh quay lại thấy chị đứng giạng chân hai tay cầm súng trong khi giám sát cảnh náo loạn. Cuối cùng chị chổng súng lên trần nhà, nhìn Blomkvist.
– Anh có bị thương không?
Lơ tơ mơ, Blomkvist nhìn chị. Máu chảy từ lông mày xuống mũi anh.
– Tôi nghĩ một ngón tay của tôi bị nghiến nát.
o O o
Chưa đến một phút sau khi lấy súng, buộc Tomi Nikolich nằm bẹp xuống đường thì Figuerola nhận quân yểm hộ của đội phản ứng vũ trang Sodermalm. Cô cho xem thẻ căn cước rồi để cho các sĩ quan phụ trách tên tù. Cô chạy vào nhà. Cô dừng lại ở cửa ra vào để đánh giá tình hình.
Blomkvist và Berger ngồi cạnh nhau. Mặt anh có máu và hình như anh đang bị sốc. Cô thở dài nhẹ người. Anh còn sống. Cô cau mày khi Berger quàng tay vào cổ anh. Ít nhất mặt cô đã nhăn lại.
Modig ngồi xổm lê đến gần chỗ họ, xem bàn tay Blomkvist. Andersson đang còng tay Nikolich, nom hắn như vừa bị một chiếc xe tải táng phải. Cô trông thấy ở trên sàn một khẩu tiểu liên M/45 của Quân đội Thụy Ðiển.
Figuerola nhìn lên thấy nhân viên và chủ nhân nhà hàng hàng hoàng, khiếp sợ cùng với các đồ sứ vỡ, bàn ghế lộn ngược, các mảnh vỡ do các loạt đạn bắn ra. Cô ngửi thấy mùi thuốc súng. Nhưng cô không thấy ai chết hay bị thương trong nhà hàng. Các sĩ quan của đội phản ứng vũ trang bắt đầu siết chặt lại ở trong gian phòng, vũ khí lăm lăm trong tay. Cô ra ngoài, chạm vào vai Andersson. Ông đứng lên.
– Lúc nãy ông nói Miro Nikolich có tên trong danh sách truy nã của chúng ta à?
– Đúng. Tấn công gây thương tích. Khoảng một năm trước. Ðánh nhau trên đường phố ở dưới Hallunda.
– OK. Đây, chúng ta sẽ giải quyết thế này, – Figuerola nói. – Tôi sẽ vù đi hết sức nhanh với Blomkvist và Berger. Ông ở lại đây. Sự thể diễn ra là ông và Modig đến đây ăn tối và ông nhận ra Nikolich từ thời ông còn ở đơn vị chống băng đảng. Khi ông định bắt hắn thì hắn rút súng ra bắn. Nên ông bắt chúng nó.
Andersson nom hết sức ngạc nhiên.
– Nói thế không ổn đâu. Có nhiều nhân chứng mà.
– Nhân chứng sẽ nói ai đó đánh nhau và thấy súng bắn thôi. Chỉ cần giữ được như thế cho đến báo chiều ngày mai. Chuyện anh em Nikolich bị ông bắt là do ông hoàn toàn tình cờ nhận ra chúng.
Andersson nhìn cảnh tanh bành ở xung quanh ông.
o O o
Figuerola len lỏi qua nút sĩ quan cảnh sát để đi ra đường rồi cho Blomkvist và Berger lên ghế đằng sau xe cô. Cô quay lại nói khẽ với người phụ trách đội phản ứng vũ trang chừng nửa phút. Cô chỉ về phía chiếc xe hiện có Blomkvist và Berger ngồi ở trong. Người phụ trách có vẻ ngơ ngác nhưng cuối cùng thì gật đầu. Cô lái đến Zinkensdamm để xe, rồi quay lại hai vị trên xe.
– Anh bị thương có nặng không?
– Tôi bị đấm mấy quả. Răng tôi còn nguyên nhưng ngón tay giữa của tôi bị thương.
– Tôi đưa anh đến chỗ Sơ cứu & Cấp cứu ở bệnh viện Thánh Goran.
– Chuyện xảy ra là như thế nào vậy? – Berger nói. – Thế chị là ai?
– Tôi xin lỗi, – Blomkvist mới. – Erika, đây là thanh tra Monica Figuerola. Cô ấy làm cho Sapo. Monica, đây là Erika Berger
– Tôi cũng tự thấy được. – Figuerola nói, giọng không mặn không nhạt. Cô chả đoái nhìn Berger lấy một cái.
– Monica và anh gặp nhau trong công việc điều tra. Cô ấy là đầu mối liên lạc của anh ở SIS.
– Em hiểu rồi, – Berger nói rồi chị tự dưng run như cơn sốc thình lình nó đến.
Figuerola nhìn xoáy vào Berger.
– Chuyện là thế nào? – Blomkvist hỏi.
– Chúng ta hiểu sai lý do cocaine, – Figuerola nói. – Chúng tôi tưởng chúng muốn cho anh vào bẫy, gây ra cho anh một vụ tai tiếng, nay thì biết chúng muốn giết anh. Chúng sẽ để cho cảnh sát tìm thấy cocaine khi họ khám xét nhà anh.
– Cocaine nào cơ? – Berger hỏi.
Blomkvist nhắm mắt một lúc.
– Đưa tôi đến bệnh viện Thánh Goran đi.
o O o
– Bị bắt? – Clinton sủa lên. Ông cảm thấy như một cánh bướm đang đè ép quanh tim mình.
– Tôi nghĩ đúng thật là thế, – Nystrom nói. – Hình như hoàn toàn là do xui xẻo.
– Xui xẻo?
– Miro Nikolich đã bị truy nã vì chuyện đánh người hồi xưa. Một cảnh sát ở đơn vị chống băng đảng tình cờ nhận ra nó khi nó vào Chảo Ðại của Samir, gã cảnh sát lập tức muốn bắt nó. Nikolich hoảng lên đã cố bắn để tìm đường tháo.
– Còn Blomkvist?
– Hắn không dính vào. Chúng tôi cũng chả biết lúc ấy hắn có ở trong nhà hàng hay không nữa.
– Không thể là thật được cái trò con khỉ này, – Clinton nói. – Anh em Nikolich biết những gì?
– Về chúng ta ư? Chả biết gì. Chúng nghĩ cả Bjorck lẫn Blomkvist đều là những dân đao búa có liên quan đến buôn bán ma túy.
– Nhưng chúng biết Blomkvist là mục tiêu chứ?
– Biết, nhưng chắc chúng sẽ không đi lèm bèm là được thuê để giết người đâu. Chúng sẽ câm bặt từ đây đến lúc ra tòa án quận. Chúng sẽ bị tù vì sở hữu vũ khí và rất có thể vì cả chống lại lệnh bắt.
– Bọn nhắng nhít chết rấp, – Clinton nói.
– Đúng, chúng bị cú nặng đấy. Đành phải để tuột mất Blomkvist lúc này nhưng thực sự không có gây ra cái gì gay go cả.
o O o
11 giờ, Linder và hai vệ sĩ lực lưỡng ở đơn vị Bảo vệ cá nhân của An ninh Milton đến thu nhận Blomkvist và Berger đi khỏi Kungsholmen.
– Chị đúng là cứ bị dây chuyện, – Linder nói.
– Xin lỗi nhé, – Berger ảm đạm nói.
Berger bị sốc trong khi họ đi xe đến bệnh viện Thánh Goran. Thình lình lóe lên ở trong chị rằng vừa mới chỉ một li nữa là chị và Blomkvist đã bị giết chết.
Blomkvist ở chỗ Sơ Cứu & Cấp cứu một giờ, người ta chụp X-quang phần đầu anh và băng bó trên mặt anh. Ngón tay giữa của anh được buộc nẹp. Đốt dưới cùng của ngón tay này bầm tím lại và anh sẽ bị mất móng. Buồn cười là vết thương chính lại xảy ra khi Andersson đến cứu anh, lôi Nikolich ra khỏi anh. Ngón tay giữa của anh đã bị kẹt ở trong khoang cò súng của khẩu M/45 và bị cò súng nghiến thẳng qua. Ðau nhiều nhưng không đe đọa đến tính mạng.
Với Blomkvist, phải hai giờ sau khi đến Bảo vệ Hiến pháp ở SIS báo cáo với thanh tra Bublanski và công tố viên Gustavsson, anh mới lên cơn sốc. Anh bắt đầu run và cảm thấy rất mệt đến nỗi ngủ luôn giữa các câu hỏi. Ðến nông nỗi này rồi thì anh còn bật ra một số câu nói chẳng ra đâu vào đâu.
– Chúng ta không biết chúng đang có kế hoạch gì và chúng ta không biết liệu Mikael có phải là nạn nhân duy nhất mà chúng nhắm đến không, – Figuerola nói. – Hay liệu chúng có được lệnh giết luôn cả Berger ở đấy không. Chúng ta không biết liệu chúng sẽ có lại cố lần nữa hay liệu có ai đó khác ở Millennium cũng bị nhắm làm mục tiêu không. Và tại sao không giết Salander? Muốn gì thì cô ấy cũng là mối đe dọa chính của Bộ phận cơ mà.
– Tôi đã gọi các đồng nghiệp của tôi ở Millennium trong khi người ta đang băng bó cho Blomkvist, – Berger nói. – Ai cũng thu mình lại ẩn náu hết sức kín cho đến khi ra được số tạp chí. Sẽ để cho tòa báo vườn không nhà trống.
Phản ứng tức khắc của Edklinth là ra lệnh cho vệ sĩ bảo vệ Blomkvist và Berger. Nhưng suy nghĩ lại thì ông và Figuerola quyết định rằng tiếp xúc với đơn vị Bảo vệ Nhân thân của SIS sẽ không phải là cách làm thông minh nhất. Berger giải quyết vấn đề bằng cách thoái thác sự bảo vệ của cảnh sát. Chị gọi Armansky để nói rõ chuyện vừa xảy ra, thế nên khuya đêm hôm ấy, Linder lại được gọi đi làm nhiệm vụ.
o O o
Blomkvist và Berger ở trên tầng thượng của một căn nhà an toàn ngay ở ngoài Drottningholm trên đường đi Ekero. Ðó là một biệt thự lớn hồi thập niên 30 trông ra hồ Malaren. Nó có một khu vườn gây ấn tượng, những nhà phụ và đất đai dài rộng. Bất động sản này là sở hữu của An ninh Milton nhưng Martina Sjogten sống ở đây. Bà là vợ góa của Hans Sjogren, đồng nghiệp lâu ngày của họ, chết vì tai nạn trong khi làm nhiệm vụ mười lăm năm trước. Sau tang ma, Armansky đã nói chuyện với bà rồi thuê bà săn sóc dinh cơ này đồng thời làm quản gia ở đó. Sống không phải trả tiền ở một cánh dưới tầng trệt, bà luôn giữ tầng trên sẵn sàng cho các dịp, mỗi năm đôi ba lần, mỗi khi An ninh Milton bất chợt cần chỗ cho một vài cá nhân đến ẩn náu, những người lo lắng cho an toàn của mình vì các lý do có thật hay tưởng tượng.
Figuerola cũng đến với họ. Cô buông minh xuống chiếc ghế trong bếp, để bà Sjogren rót cà phê mời trong khi Blomkvist và Berger lên gác còn Linder thì kiểm tra hệ thống báo động và giám sát điện tử xung quanh khu dinh cơ.
– Có bàn chải răng và mọi thứ ở trong tủ ngăn kéo bên ngoài buồng tắm đấy, – Sjogren gọi với lên gác.
Linder và các vệ sĩ ở trong các gian phòng tầng trệt.
– Tôi dậy lúc 4 giờ sáng rồi túi bụi suốt, – Linder nói. – các ông có thể phân công canh gác với nhau nhưng ít nhất phải để cho tôi ngủ tới 5 giờ.
– Cô có thể ngủ hết đêm. Chúng tôi trông cho, – một vệ sĩ nói.
– Cảm ơn, – Linder nói và đi ngủ thẳng.
Figuerola lơ đãng nghe trong khi các vệ sĩ mở máy phát hiện chuyển động ở trong sân và rút thăm xem ai sẽ canh gác phiên đầu tiên. Người thua đã làm cho mình một bánh sandwich rồi đi vào phòng tivi ở cạnh bếp. Figuerola ngắm các tách cà phê vẽ hoa lá. Cô cũng túi bụi từ sáng sớm và đang cảm thấy khá kiệt quệ. Cô vừa nghĩ lái xe về nhà thì Berger ở trên gác xuống, rót cà phê. Chị ngồi đối điện Figuerola.
– Blomkvist vừa đặt đầu lên gối là ngủ nhanh như chớp luôn.
– Phản ứng với adrenalin, – Figuerola nói.
– Bây giờ thì sẽ ra sao?
– Chị sẽ phải ẩn náu trong ít ngày. Khoảng một tuần thì kết thúc, dù là kết thúc theo cách nào. Chị thấy sao?
– Nhì nhằng. Vẫn còn hơi run run. Không phải ngày nào cũng có chuyện như thế này xảy ra mà. Tôi vừa gọi cho nhà tôi, báo rằng tôi không về nhà được.
– Hừm.
– Chồng tôi…
– Tôi biết chồng chị là ai.
Im lặng. Figuerola dụi mắt, ngáp.
– Tôi phải về nhà ngủ lấy một chút.
– Ô, ơn Chúa, đừng nói lăng nhăng, lên mà nằm với Mikael đi, – Berger nói.
Figuerola nhìn chị.
– Nhìn thấy rõ đến thế cơ à? – Cô nói.
Berger gật.
– Mikael đã nói cái gì…
– Không nói gì. Về chuyện các quý cô quý bà bạn gái của mình, anh ấy nói chung khá kín đáo. Nhưng đôi khi anh ấy như quyển sách để mở. Còn cô thì hằn học ra mặt mỗi khi nhìn tôi. Hai người rõ ràng là có cái gì đó phải giấu.
– Ông sếp của tôi, – Figuerola nói.
– Sao lại dính ông ấy vào đây?
– Ông ấy sẽ buông hết nếu ông ấy biết Mikael và tôi là…
– Tôi hoàn toàn có thể hiểu chỗ ấy.
Im lặng.
– Tôi không biết có chuyện gì giữa hai người nhưng tôi không là đối thủ của cô, – Berger nói.
– Không à?
– Thỉnh thoảng Mikael và tôi ngủ với nhau. Nhưng tôi không lấy anh ấy.
– Tôi nghe nói hai người có quan hệ đặc biệt. Anh ấy có nói với tôi về chị khi chúng tôi ở ngoài Sandhamn.
– Vậy là cô đã đến Sandhamn? Thế thì là nghiêm túc đấy.
– Ðừng chọc quê tôi.
– Monica, tôi hy vọng cô và Mikael… Tôi sẽ cố ở bên ngoài con đường cô đi.
– Và nếu không cố được?
Berger nhún vai.
– Vợ cũ của anh ấy rất quyết liệt khi anh ấy có chuyện với tôi. Chị ấy quăng anh ấy đi. Là lỗi của tôi. Chừng nào mà Mikael độc thân và không vướng víu thì tôi không ân hận. Nhưng tôi đã tự hứa là nếu anh ấy nghiêm túc với một ai đó thì tôi lui xa.
– Tôi không biết liệu tôi có trông vào anh ấy được không đây.
– Mikael đặc biệt đấy. Cô có yêu anh ấy không?
– Tôi nghĩ là có.
– Thế thì được. Chỉ là đừng nói ra quá sớm với anh ấy. Thôi đi ngủ đi.
Fíguerola nghĩ một lúc. Rồi lên gác, cởi quần áo, bò vào giường nằm cạnh Blomkvist. Anh lầm bầm cái gì đó rồi quàng tay ôm lấy eo cô.
Berger ngồi một mình ở dưới bếp một lúc lâu. Chị cảm thấy bất hạnh sâu sắc.
Chú thích
1. Tức toa lét.