Máu dính đến tận cùi tay, Maura đang xém xét phần ổ bụng, nhấc ra bộ ruột bỏ vào chậu. Gabriel đứng yên lặng nhìn qua cửa kính. Anh không thấy vẻ biểu hiện gì trên mặt Maura, chỉ có sự tập trung cao độ của một nhà khoa học. Cuối cùng cô đưa cái chậu cho Yoshima rồi cầm dao lên tiếp.
Đúng lúc ấy cô nhận ra sự có mặt của Gabriel. – Tôi sẽ làm thêm ba mươi phút nữa. Anh có thể vào trong này nếu muốn. Anh mặc áo khoác ngoài, che giầy bằng ni lông bảo vệ rồi bước vào phòng thí nghiệm. Dù đã cố lờ cái xác giữa họ đi nhưng nó vẫn nằm đấy, không thể không nhìn.
Một phụ nữ với bộ khung xương và da đang phơi bày ngay trước mắt. – Tiền sử về chán ăn. Tìm thấy chết trong chính căn hộ của cô ta – Maura nói, trả lời cho câu hỏi chưa nói của Gabriel. – Cô ấy còn quá trẻ. – Hai mươi bảy tuổi. Đội cấp cứu nói tất cả những gì thấy có trong tủ lạnh nhà cô ta chỉ là rau diếp và pepsi dành cho người ăn kiêng.
Chết đói trên một mảnh đất giàu có. Maura cho tay vào ổ bụng để thấy một khoảng dạ dày trống trơn. Yoshima cùng lúc phải kiểm tra hộp sọ của cô ta. Như thường lệ họ vẫn làm việc hiếm khi trao đổi. Họ đã thừa biết người khác cần gì nên lời nói trở nên không cần thiết.
– Cô muốn nói với tôi chuyện gì à? – Gabriel bảo Maura dừng lại. Trong tay cô là một quả thận trông như bị bao bọc bởi một lớp màng đen sì. Cô và Yoshima nhìn nhau lo lắng. Ngay lập tức Yoshima với lấy chiếc cưa bắt đầu xử lý phần hộp sọ. Tiếng ồn làm át câu trả lời của Maura.
– Không phải ở đây. Chưa phải lúc – cô nói nhẹ. Yoshima cưa phần chóp sọ. Maura cúi nhìn phần não trong. Cô hỏi bằng giọng khá vui vẻ: – Thế nào rồi, là một ông bố ấy? – Khác xa với những gì tôi tưởng. – Anh chị chọn cái tên Regina hả? – Bà Rizzoli nói cho chúng tôi cái tên đó.
– Ừm, tôi thấy đó là cái tên hay đấy – Maura hạ đầu tử thi xuống – Một cái tên ý nghĩa. – Jane đã rút gọn nó lại thành Reggie. – Không hay lắm. Maura tháo găng tay rồi nhìn Yoshima. Anh gật đầu. – Tôi cần chút không khí trong lành – cô nói – chúng ta nghỉ một lát. Họ bỏ áo khoác ngoài, cô đi thẳng ra khỏi phòng.
Mãi đến khi ra khỏi tòa nhà đến khu đậu xe cô mới bắt đầu nói chuyện. – Xin lỗi vì phải nói lòng vòng với anh. Ban nãy tôi không muốn nói vì tôi nghĩ chúng ta phải giữ bí mật. – Chuyện gì thế? – Đêm qua, vào khoảng 3 giờ sáng, đội cứu hỏa Medford đã đưa đến một nạn nhân bị chết trong vụ tai nạn.
Thường chúng tôi khóa cửa từ bên ngoài và họ phải gọi người trực để lấy mã khóa. Lúc đến nơi, họ nhận ra cửa không hề khóa, vào trong thì đèn sáng. Họ đã gọi nhân viên bảo vệ đến kiểm tra tòa nhà. Bất cứ ai đột nhập vào trong thì cũng đã rất vội vàng vì thậm chí ngăn kéo tủ của tôi vẫn còn mở.
– Ngăn kéo trong văn phòng của cô? Maura gật đầu. – Máy tính của bác sĩ Bristol cũng bị bật lên. Anh ấy luôn tắt máy khi rời phòng vào lúc nửa đêm – Cô dừng lại – Máy tính đang được mở đến mục dữ liệu về việc giải phẫu tử thi của Joseph Roke. – Có gì bị lấy khỏi văn phòng không? – Không, chúng tôi đã kiểm tra lại rồi.
Nhưng có điều bây giờ tôi rất băn khoăn về sự việc đó. Ai đó đã ở trong văn phòng, trong cả phòng thí nghiệm. Chúng tôi không biết họ có ý gì. Tôi không phải là nhà giả thuyết học nhưng cứ nhìn vào những sự việc xảy ra: Hai cái xác bị đưa ra khỏi tầm kiểm soát hợp pháp của chúng ta; bằng chứng từ viện đạn đạo học cũng bị đưa về Washington.
Vậy anh nghĩ xem ai làm những việc ở đây? Anh nhìn bãi đậu xe đang ngột ngạt vì hơi nóng. – Chắc có lẽ phải là những người có vị thế rất cao. – Thế có nghĩa là ta sẽ không động được tới họ? – Nhưng không có nghĩa là ta sẽ không thử. Jane tỉnh dậy trong đêm. Những lời thì thầm trong giấc mơ vẫn còn vang vọng trong tai.
Vẫn là tiếng nói của Olena thì thào với cô trước lúc chết. Tại sao cô cứ mãi đeo bám tôi? Hãy nói cho tôi biết cô muốn gì. Nói cho tôi biết Mila là ai. Nhưng tiếng thì thầm đã vụt tan biến chỉ còn hơi thở của Gabriel bên cạnh. Tiếp đó là tiếng khóc của cô con gái trong phòng bên.
Cô nhẹ nhàng ra khỏi giường để cho chồng ngủ tiếp. Giờ thì cô đã hoàn toàn tỉnh táo nhưng vẫn bị những âm thanh trong giấc mơ ám ảnh. Đứa trẻ đã đạp tung chăn ra và đang khua khoắng hai nắm tay nhỏ xíu hồng hồng. Nó có vẻ đang rất sẵn sàng để đánh nhau – một cuộc chiến với chính mẹ của mình.
– Regina, Regina – Jane vừa thở dài vừa bế con bé ra khỏi nôi. Giờ cô lại thấy cái tên này bật ra sao lại tự nhiên đến thế. Có lẽ đúng là bẩm sinh con bé đã mang cái tên Regina này rồi. Nhưng cũng mất mấy ngày Jane mới nhận ra được điều này và thôi không cứng đầu cãi lại mẹ nữa.
Có lẽ mẹ cô cũng đã biết cái tên này từ rất lâu rồi. Sao mà cô ghét phải thừa nhận chuyện đó đến vậy. Nhưng cô vẫn phải công nhận là mẹ luôn đúng trong rất nhiều thứ. Tên của đứa trẻ này, bình sữa này và hơn nữa bà lại còn là người sẵn sàng giúp đỡ khi cô cần. Điều này mới là điều khó chịu nhất đối với cô.
Cô không muốn thừa nhận chuyện mình cần sự giúp đỡ của người khác, không muốn thừa nhận rằng mình không biết phải làm gì. Cô có thể làm tốt công việc của mình trong đội điều tra án mạng, có thể săn lùng cả những con “quái vật” theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nhưng bảo cô làm sao cho đứa trẻ khỏi khóc chẳng khác gì yêu cầu cô đi phá bom nguyên tử.
Cô liếc nhìn quanh phòng với hy vọng sẽ có một bà tiên tốt bụng nào đấy đang đứng đâu đó, sẵn sàng vung cây đũa thần lên giúp mình. Nhưng không, chẳng có bà tiên nào cả. Chỉ có mình mình. Regina dùng năm phút để ngậm bầu vú bên phải, thêm năm phút nữa cho vú trái rồi sau đó sẽ là khoảng thời gian dành cho sữa bình.
Được rồi, mẹ thất bại với con rồi, đúng như một con bò sữa vậy, Jane nghĩ rồi bồng con vào bếp. Trong lúc Regina hồ hởi ngậm bình sữa thì Jane ngồi xuống ghế, hài lòng với những khoảnh khắc im lặng ngắn ngủi. Cô nhìn mái tóc đen, ngắn của con gái. Cô nghĩ: tóc xoăn, giống mình.
Mẹ Angela đã có lần nói rằng: Sẽ có lúc con có một cô con gái mà con đáng được có. Giờ thì đúng rồi. Một cô con gái lúc nào cũng ồn ào, không bao giờ chịu bằng lòng cả. Đồng hồ trong bếp điểm 3 giờ sáng. Jane với tay lấy tập tài liệu mà thám tử Moore để lại tối qua. Cô đã đọc xong các tài liệu về vụ Ashburn, giờ cô mở tiếp một file khác của cảnh sát Boston về xe của Joseph Roke – Chiếc xe đã bị bỏ lại ở cách bệnh viện vài dãy nhà.
Jane đọc những ghi chép của Moore, xem vài bức ảnh chụp phần phía trong xe. Có một bản báo cáo của trung tâm AFIS về dấu vân tay và các lời nói của nhân chứng. Trong lúc cô bị kẹt trong bệnh viện thì các đồng nghiệp của cô đã rất tích cực làm việc. Họ đã tìm kiếm từng mẩu thông tin về kẻ bắt giữ con tin.
Mình không đơn độc, cô nghĩ. Bạn bè của mình ở bên ngoài, chiến đấu vì mình và đây chính là bằng chứng cho việc đó. Cô nhìn chữ kí của một viên thám tử trong bản khai của nhân chứng rồi mỉm cười, ngạc nhiên. Ghê quá, thậm chí cả Darren Crowe – kẻ không đội trời chung với cô cũng đã làm việc rất tích cực.
Mà tại sao lại không nhỉ? Nếu thiếu cô ở trong đội thì anh ta lấy ai mà chỉ trích cơ chứ. Cô lật tới những bức ảnh chụp phần trong xe. Trong đó thấy có những tờ giấy gói thức ăn, những lon Red Bull rỗng vứt đầy trên sàn. Quá nhiều đường và caffein – cái này chắc bác sĩ nào nhìn vào cũng thấy lo ngại.
Trên ghế sau là một chiếc chăn được dồn thành đống, một chiếc gối và một tờ báo lá cải – tờ Weekly Confidential[6]. Trên bìa báo là ảnh Melanie Griffith. Cô cố tưởng tượng cảnh Joe nằm trên băng ghế sau, lật mấy trang báo lá cải để đọc những tin mới nhất về các bữa tiệc, các cô gái với tính khí kỳ quặc mà cô không tài nào hiểu nổi.
Có thể anh ta thực sự quan tâm đến thế giới Hollywood? Biết đâu nhìn vào cuộc sống của họ sẽ giúp anh ta thấy cuộc đời mình dễ chịu hơn? Tờ Weekly Confidential là thú tiêu khiển vô hại cho những lúc căng thẳng. Cô đặt file của cảnh sát Boston sáng bên cạnh rồi với lấy tập tài liệu về vụ Ashburn.
Lại thêm lần nữa cô phải đối diện với những hình ảnh về hiện trường vụ án. Thêm lần nữa cô phải dừng lại trước tấm ảnh của nạn nhân thứ năm. Đột nhiên cô thấy mình không thể nhìn tiếp vào cảnh máu me, vào cái chết thêm nữa. Lạnh gai người, cô đóng tập tài liệu lại.
Regina đã ngủ. Cô bồng con đặt vào nôi rồi về lại giường ngủ. Nhưng cô vẫn chưa hết run cho dù hơi ấm của Gabriel làm ấm cả tấm chăn. Cô cần ngủ, rất cần. Nhưng cô không tài nào làm yên được cái đống hỗn độn trong đầu mình. Quá nhiều hình ảnh trong đầu cô. Đây là lần đầu tiên cô hiểu rõ được ý nghĩa của cụm từ quá mệt mỏi để có thể ngủ.
Cô đã từng biết nhiều người phải vào viện vì thiếu ngủ. Có lẽ cô phải nhanh chóng vượt qua giai đoạn này nếu không muốn như thế. Phải nhanh chóng tống khứ những cơn ác mộng đi rồi cả nỗi lo về những nhu cầu của đứa trẻ. Mình phải vứt bỏ những giấc mơ này. Gabriel vòng tay qua người cô, anh gọi: – Jane? – Vâng.
– Em đang run này. Em lạnh à? – Hơi hơi. Anh ôm chặt cô hơn nữa, sưởi ấm cho cô bằng hơi ấm của mình. – Regina tỉnh dậy à? – Vài phút trước. Em vừa cho con bé ăn xong. – Đến lượt anh rồi mà? – Đúng lúc em cũng vừa tỉnh giấc. – Sao thế? Cô không trả lời. – Lại là những giấc mơ phải không em? – Có vẻ như cô ấy vẫn đeo bám em, không chịu rời.
Cứ hàng đêm cô ấy lại làm em không thể ngủ được. – Olena chết rồi Jane ạ. – Vậy giờ là bóng ma của cô ấy. – Em không tin vào ma quỷ cơ mà. – Đúng thế. Nhưng giờ thì… – Em thay đổi suy nghĩ rồi sao? Cô quay người nhìn vào mặt anh, thấy ánh sáng của đèn thành phố lung linh trong mắt anh.
Gabriel tuyệt vời của cô. Sao cô lại may mắn thế nhỉ? Cô đã làm gì được cho anh? Cô chạm vào mặt anh, lùa tay vào tóc anh. Thậm chí sau đám cưới sáu tháng cô vẫn còn ngạc nhiên vì mình đã chia sẻ chiếc giường của mình với người đàn ông này. – Em chỉ muốn mọi chuyện lại như xưa, như lúc ban đầu trước khi tất cả những chuyện này xảy ra.
Anh kéo cô lại gần mình hơn. Cô hít hà mùi xà phòng trên da thịt anh – mùi hương của chồng cô. – Hãy cho nó thêm thời gian em ạ. Có lẽ em cần có những giấc mơ này. Em vẫn đang trong quá trình hồi phục, em phải có thời gian để trải qua cơn chấn động tâm lý. – Hoặc cũng có thể em cần phải làm gì đó.
– Làm gì? – Làm điều mà Olena muốn em làm. Anh thở dài. – Em lại đang nói về cái bóng ma đấy. – Cô ấy đã nói với em. Em không nhớ rõ lúc đó. Nhưng nó không phải một giấc mơ. Nó là ký ức về một điều gì đó đã thực sự xảy ra – cô xoay người nằm ngửa, mặt hướng lên trần nhà, mắt nhìn vào bóng đêm – “Mila biết”.