Cô Gái Chọc Tổ Ong Bầu

PHẦN IV: KHỞI ĐỘNG LẠI HỆ THỐNG – CHƯƠNG 23



1 THÁNG BẢY – 7 THÁNG MƯỜI
Từ Hy Lạp cổ đại, Nam Mỹ, Châu Phi và các nơi khác, tuy dã sử về Amazon phong phú các loại nhưng về các nữ chiến binh thì từ khía cạnh tài liệu lịch sử chỉ mới sưu tầm được một tấm gương. Đó là quân đội phụ nữ đã từng tồn tại trong tộc người Fon ở Dahomey, thuộc Tây Phi, nay là nước Benin.
Các lịch sử quân sự đã xuất bản chưa bao giờ nhắc đến các nữ chiến binh này; không có bộ phim mang tính tiểu thuyết nào đã được làm về họ và ngày nay sự tồn tại của họ không ra ngoài các chú thích về lịch sử. Chi có một công trình học thuật về các phụ nữ này, các Amazons của Sparta Đen do Stanley B. Alpern viết (C. Hurst & Co., London, 1998), và lúc ấy họ đã dựng nên một lực lượng ngang bằng với mọi tập đoàn binh lính đàn ông ưu tú cận đại ở các cường quốc thực dân.
Không biết chính xác thời gian thành lập quân đội nữ của người Fon nhưng một vài nguồn cho rằng đó là vào những năm 1600. Đầu tiên nó là đội vệ binh hoàng gia rồi phát triển thành một tập thể vũ trang gồm sáu nghìn lính được coi như những vị á thần. Họ không đơn thuần chỉ để trưng cho đẹp. Trong gần hai trăm năm họ là mũi tiên phong của người Fon chống lại thực dân Châu Âu. Quân đội Pháp, sau nhiều trận bị thua, ngày càng khiếp sợ các nữ binh. Mãi tới năm 1892, khi Pháp cử quân đội với pháo binh, lính Lê dương, một trung đoàn thủy quân lục chiến và kỵ binh đến, đội quân nữ này mới bị đánh bại.
Không biết được bao nhiêu nữ binh ấy đã ngã ở chiến trường. Trong nhiều năm sau, những người sống sót vẫn đánh du kích và vào cuối những năm 1940, các cựu binh của đội quân ấy đã được phỏng vấn, chụp ảnh.
o O o
Thứ Sáu, 1 tháng Bảy
Chủ nhật, 10 tháng Bảy
Hai tuần trước khi phiên tòa xử Salander bắt đầu, Malm trình bày xong cuốn sách 352 trang mang một cái tít cụt lủn Bộ phận. Bìa lơ chữ vàng. Malm đã đặt ở chân bìa bảy bức ảnh trắng đen, to cỡ con tem, của các Thủ tướng Thụy Ðiển. Một bức ảnh Zalachenko lơ lửng trên đầu các vị Thủ tướng như một hình minh họa, tăng thêm sự tương phản, khiến phần sẫm màu nhất nổi bật lên như một thứ bóng tối vắt ngang qua toàn bộ trang bìa. Ðây không phải là một thiết kế bìa đặc biệt tân kỳ nhưng rất gây ấn tượng. Blomkvist, Cortez và Eriksson được nêu ra là các tác giả.
Đã 5 giờ sáng và Malm đã làm việc cả đêm. Anh thấy hơi mệt và rất muốn về nhà ngủ. Eriksson đã ngồi sửa với anh từng trang một còn Malm thì gật OK với các trang đó để cho in chúng ra. Lúc này Eriksson đang ngủ trên sofa.
Malm cho tất cả bản thảo cùng minh họa vào một hồ sơ. Anh mở chương trình Toast sao ra hai đĩa CD. Một đĩa anh cất vào két. Đĩa kia được Blomkvist buồn ngủ díp mắt nhặt đi đúng vào lúc 7 giờ.
– Ði nghỉ lấy một ít đi, – Blomkvist nói.
– Đang sắp sửa đây.
Họ để Eriksson ngủ, bật hệ thống báo động. 8 giờ Cortez sẽ đến tiếp quản.
Blomkvist đi bộ đến Lundagatan, ở đây anh lại mượn phứa chiếc Honda bỏ lại của Salander. Anh đi đến Hallvigs Reklam, nhà in gần đường xe lửa ở Morgongava, phía tây Uppsala. Cái việc này anh không thể tin vào bưu điện.
Anh lái thong thả, không chịu nhận rằng mình đang trải qua một cơn căng thẳng để chờ cho đến khi nhà in kiểm tra thấy họ có thể đọc được chiếc đĩa CD. Anh cầm bằng cho quyển sách được sẵn sàng phát hành chắc chắn đúng vào ngày đầu tiên của phiên tòa. Vấn đề không phải ở khâu in mà đóng sách có thể phải mất thời gian. Nhưng Jan Kobin, quản đốc nhà in Hallvigs hứa vào hôm ấy sẽ bàn giao ít nhất năm trăm quyển của lần in mười nghìn quyển đầu tiên. Cuốn sách sẽ được in dưới dạng bìa mềm.
Cuối cùng Blomkvist làm cho ai cũng hiểu nhu cầu giữ bí mật tuyệt đối, tuy căn dặn này xem ra không cần thiết. Hai năm trước, Hallvigs cũng đã in sách của Blomkvist về Hans-Erik Wennerstrom trong những hoàn cảnh tương tự. Họ hiểu rằng sách của nhà xuất bản đặc biệt Millennium này luôn hứa hẹn một món gì ra thêm được tiền.
Blomkvist lái về Stockholm không đặc biệt vội vã. Anh để xe ở bên ngoài nhà số 1 Bellmansgatan rồi vào trong, gói mấy bộ áo quần để thay đổi và lấy một túi quần áo mang đi giặt. Anh lái tiếp đến cảng Stavsnas ở Varmdo, đỗ chiếc Honda ở đây rồi xuống phà qua Sandhamn.
Từ Thiên chúa Giáng sinh, đây là lần đầu tiên anh đến căn nhà nghỉ mùa hè. Anh mở các lá chắn cửa sổ để cho không khí vào rồi uống một cốc nước khoáng Ramlosa. Như thường tình, khi xong một công việc, đã đem bản thảo đến nhà in và không còn cần thay đổi gì nữa, anh đều cảm thấy trống rỗng.
Anh bỏ một giờ ra quét dọn lau bụi, chà cọ phòng tắm cho sạch sẽ, cắm điện vào tủ lạnh, kiểm tra ống dẫn nước, thay chăn gối vải giường ở trên gác xép phòng ngủ. Anh ra cửa hàng tạp hóa mua mọi thứ anh cần trong hai ngày cuối tuần. Rồi anh bật máy pha cà phê, ra hiên ngồi, hút một điếu thuốc lá, không nghĩ tới một điều gì đặc biệt.
Đúng 5 giờ anh xuống bến phà gặp Figuerola.
o O o
– Tôi ngỡ cô nói cô không có thì giờ nghỉ, – anh nói, hôn má cô.
– Tôi cũng ngỡ như thế. Nhưng tôi bảo Edklinth suốt mấy tuần qua tôi làm việc chẳng cả ngủ nghê, tôi sắp kiệt sức đến nơi mất rồi. Tôi nói tôi cần hai ngày nghỉ để sạc lại pin cho mình.
– Nghỉ ở Sandhamn đây?
– Ai lại bảo ông ấy là đến đâu, – cô mỉm cười nói.
Figuerola lục lọi khắp căn nhà hai mươi lăm mét vuông của Blomkvist. Kiểm tra ngặt nghèo bếp, buồng tắm và gác xép xong, cô mới gật đầu bằng lòng. Cô tắm rửa rồi mặc một chiếc váy mùa hè mỏng trong khi Blomkvist nấu sườn cừu sốt vang và bày bàn ghế ra hiên. Họ im lặng vừa ăn vừa nhìn các con tàu giương buồm diễu qua trên đường ra bến du thuyền hay ngược lại. Họ chia nhau chỗ vang đỏ còn lại ở trong chai.
– Nơi này tuyệt. Ðây là chỗ anh đưa các cô bạn gái đến đấy à? – Figuerola hỏi.
– Chỉ những ai quan trọng thôi.
– Erika Berger đã ở đây chưa?
– Nhiều lần.
– Thế Salander?
– Cô ấy ở đây vài tuần khi tôi viết quyển sách về Wennerstrom. Rồi hai năm trước cô ấy và tôi qua Noel ở đây.
– Vậy trong đời anh Berger và Salander đều là quan trọng cả đấy à?
– Erika là bạn thân nhất của tôi. Chúng tôi là bạn của nhau đã hai mươi lăm năm. Lisbeth thì là một chuyện hoàn toàn khác. Chắc chắn cô ấy là duy nhất, và cô ấy cũng là người phản xã hội nhất mà tôi từng biết. Cô có thể nói là ngay trong lần gặp đầu tiên cô ấy đã gây ấn tượng mạnh với tôi. Tôi thích cô ấy. Cô ấy là một người bạn.
– Anh không thấy tiếc cho cô ấy ư?
– Không. Cô ấy phải tự trách mình về nhiều cái bố láo đã xảy ra với cô ấy. Nhưng tôi thấy đồng cảm và đoàn kết ghê gớm với cô ấy.
– Nhưng cả cô ấy lẫn Berger anh đều không yêu ư?
Blomkvist nhún vai. Figuerola nhìn một chiếc Amigo 23 đi vào muộn, đèn hàng hải bật sáng chói khi nó xình xịch đi qua một xuồng máy trên đường đến bến du thuyền.
– Nếu yêu là thích ai đó đặc biệt nhiều thì tôi cho rằng tôi đã yêu mấy người, – Blomkvist nói.
– Và nay thì tôi?
Blomkvist gật. Figuerola cau mày nhìn anh.
– Vậy có làm cô khó chịu không?
– Khó chịu vì anh đã đưa các phụ nữ khác đến đây ư? Không. Nhưng nếu không hiểu chuyện gì đang thực sự xảy ra ở giữa hai chúng ta thì tôi khó chịu. Và tôi nghĩ không thể có quan hệ với một người mà hễ lúc nào muốn anh ta cũng có ngay một cô ở trên giường…
– Tôi sẽ không xin lỗi về cái cách mà tôi đã sống.
– Không hiểu sao tôi lại bị đổ vì anh. Tôi đoán đó là vì anh sống đúng như con người anh. Ngủ với anh dễ vì không có chuyện tầm bậy và vì anh làm cho tôi cảm thấy an toàn. Nhưng tất cả cái này bắt đầu và có được thì đó là vì tôi đã thua một xung lực rồ dại. Nó không hay xảy ra và tôi không có ý định gì cả với nó. Và bây giờ thì chúng ta đến cái nơi mà tôi rõ ràng đã trở thành một phụ nữ nữa trong số các cô anh mời ra đây.
Họ ngồi im lặng một lúc.
– Lẽ ra cô chẳng cần phải đến đây.
– Có chứ, tôi lại cần phải đến. Ôi Mikael…
– Tôi biết.
– Tôi không hạnh phúc. Tôi không muốn yêu anh. Khi chấm dứt thì sẽ đau đớn nhiều lắm.
– Nghe nhé, tôi có căn nhà này đã hai mươi lăm năm, từ khi bố chết và mẹ chuyển về Norrland. Chúng tôi chia nhau bất động sản, em gái tôi được căn hộ còn tôi có nhà này. Ngoài vài chỗ quen biết nhì nhằng vào những năm đầu, có năm người phụ nữ từng ở đây trước cô: Erika, Lisbeth, cô vợ cũ của tôi, người tôi vẫn chung sống những năm 80, một phụ nữ mà tôi có quan hệ nghiêm túc cuối những năm 90 và một người tôi gặp cách đây hai năm, người này thỉnh thoảng tôi vẫn có gặp. Ðây là một kiểu hoàn cảnh đặc biệt…
– Tôi cá là như thế rồi.
– Tôi giữ nơi này để có thể chuồn khỏi thành phố và có đôi chút thời gian yên tĩnh. Phần lớn tôi ở đây theo mình. Tôi đọc sách, tôi viết, tôi thư giãn, ngồi ở bến nhìn các con tàu. Ðây không phải là một tổ ấm bí mật của tình yêu.
Anh đứng lên lấy chai rượu vang anh để ở trong bóng râm.
– Tôi sẽ không hứa hẹn gì. Hôn nhân của tôi đổ vỡ vì Erika và tôi không thể xa được nhau, – anh nói rồi thêm bằng tiếng Anh. – “Been there, done that, got the T-shirt” 1.
Anh rót rượu đầy hai cốc.
– Nhưng lâu rồi, cho đến nay cô là người thú vị nhất mà tôi gặp. Tựa như từ điểm xuất phát tĩnh tại, quan hệ của chúng ta đã cất cánh bay vút lên hết sức nhanh. Tôi cảm thấy tôi bị đổ với cô ngay từ lúc cô nhặt tôi ở bên ngoài căn hộ của tôi. Từ đấy đã có ít lần tôi ngủ ở nhà và nửa đêm thức dậy tôi thấy cần cô. Tôi không biết liệu tôi có mong đợi một quan hệ bền vững hay không nhưng tôi rất sợ mất cô. – Anh nhìn cô. – Vậy cô nghĩ chúng ta nên thế nào?
– Hãy nghĩ đến các công việc đã, – Figuerola nói. – Tôi cũng bị anh cuốn hút tệ hại.
– Chuyện đâm ra nghiêm túc đây, – Blomkvist nói.
Cô chợt cảm thấy buồn vô hạn. Một lúc lâu họ không nói gì nhiều. Khi trời tối, họ dọn bàn, vào trong nhà, đóng cửa lại.
o O o
Thứ Sáu trước phiên tòa một tuần, Blomkvist dừng lại ở quầy báo Pressbyran tại Slussen đọc bảng dán báo chí buổi sáng. Tổng giám đốc và Chủ tịch Hội đồng Quản trị của Svenska Morgon-Posten đã đầu hàng và xin từ chức. Blomkvist mua báo rồi đi bộ tới Java ở trên Hornsgatan để ăn bữa điểm tâm muộn mằn. Giải thích việc bất ngờ từ chức, Borgsjo viện cớ gia đình. Ông sẽ không bình luận về các lời đồn rằng Berger cũng đã từ chức sau khi ông ra lệnh chị phải bịt đi một bài báo viết về việc ông dính dáng đến Liên doanh Vitavara làm ăn lớn. Nhưng trong một tin vắn người ta lại nói Chủ tịch của Svenskt Naringsliv, Liên hiệp các Doanh nghiệp Thụy Ðiển đã quyết định lập một ủy ban đạo đức để điều tra các công ty Thụy Ðiển làm ăn với các doanh nghiệp ở Ðông Nam Á có tiếng là bóc lột lao động thiếu nhi.
Blomkvist phá ra cười rồi anh gấp báo lại, mở di động Ericsson của anh ra gọi người phụ nữ ở chương trình Nàng trên kênh TV4, chị đang ăn dở chiếc sandwich bữa trưa.
– Chào cô bạn thân mến, – Blomkvist nói. – Tôi cho là đôi lúc cô vẫn thích ăn tối nhỉ.
– Chào Blomkvist, – chị ta cười. – Xin lỗi, nhưng kiểu người như tôi thì anh không thể đi xa hơn được đâu.
– Nhưng đi ra ngoài bàn công việc với tôi tối nay thì sao?
– Anh sẽ làm cái gì đấy?
– Hai năm trước, Erika Berger đã làm vụ Wennerstrom với cô. Tôi muốn làm một vụ cũng sẽ đáng của như thế.
– Tôi đang dỏng tai lên đây.
– Chỉ khi nào thỏa thuận được về các khoản mục tôi mới nói với cô về chuyện đó. Tôi đang viết dở một bài báo. Chúng tôi sẽ xuất bản một quyển sách và một số tạp chí chuyên đề, việc này sẽ lớn đấy. Tôi cho cô xem mọi tài liệu, với điều kiện trước khi chúng tôi xuất bản cô không được để lộ ra bất cứ điều gì. Lần này, việc xuất bản sẽ cực kỳ phức tạp vì nó diễn ra trong một ngày đặc biệt.
– Chuyện lớn ra sao đây?
– Lớn hơn Wennerstrom, – Blomkvist nói. – Thích không?
– Nghiêm túc đấy chứ? Ờ, gặp nhau ở đâu đây?
– Quán Chảo Ðại của Samir thì sao? Erika sẽ biểu tình ngồi ở cuộc họp.
– Rồi với chị ấy thì sao? Bị quăng khỏi SMP thì có quay về Millennium không?
– Không phải là bị quăng. Từ chức vì trái ý kiến với Magnus Borgsjo.
– Cha này có vẻ là dân rắn rết thật.
– Ở điểm này thì cô không lầm đâu.
o O o
Clinton nghe Verdi 2 qua tai nghe. Âm nhạc là thứ khá chắc chắn còn lại duy nhất ở trong đời có thể mang ông ra khỏi các máy lọc thận và cơn đau cứ tăng dần lên ở eo lưng. Ông không khe khẽ hát theo nhạc. Ông nhắm mắt, tay phải bắt nhịp theo, bàn tay lơ lửng như có cuộc đời riêng của nó ở bên cái hình bài đang tan rã của ông.
Sự đời là thế. Chúng ta sinh ra. Chúng ta sống. Chúng ta già đi. Chúng ta chết. Ông đã chơi cái phần mình. Tất cả còn lại là tan rã.
Ông cảm thấy hài lòng lạ lùng với cuộc đời.
Ông đã chơi cho Evert Gullberg bạn ông.
Hôm nay thứ Bảy, ngày 9 tháng Bảy. Chỉ bốn ngày nữa là tòa bắt đầu và Bộ phận có thể đem toàn bộ câu chuyện thảm sầu này quẳng lại ở đằng sau họ. Ông đã nhận tin nhắn sáng nay. Gullberg cứng rắn hơn gần như bất cứ ai mà ông biết. Khi tự bắn một viên đạn 9 li với vỏ ngoài toàn thép vào chính ngay thái dương mình, thế là bạn đã chờ chết. Vậy mà phải ba tháng thân xác Gullberg cuối cùng mới chịu buông bỏ. Đó là nhờ may mắn và cũng là nhờ các bác sĩ ngoan cường chiến đấu vì sự sống của Gullberg. Rồi rút cục là ung thư chứ không phải viên đạn nó quyết định kết liễu ông.
Gullberg đã chết đau đớn, và điều đó khiến Clinton đau buồn xót xa. Tuy không thể giao tiếp với thế giới bên kia, Gullberg đôi khi cũng đã ở trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, mỉm cười khi nhân viên bệnh viện vỗ nhẹ má ông hay càu nhàu khi ông có vẻ lên cơn đau. Ðôi lúc ông cố khuôn ra thành chữ và cả thành câu nữa, nhưng chả ai hiểu nổi được là ông nói gì.
Ông không có gia đình, và chả người bạn nào của ông đến bên giường bệnh. Mối tiếp xúc cuối cùng của ông với cuộc đời là cô hộ lý người Phi có tên là Sara Kitama, cô đã túc trực bên giường bệnh và nắm tay ông khi ông chết.
Clinton nhận thấy rằng mình cũng sẽ sớm đi theo người bạn chiến đấu của mình. Chả còn nghi ngờ gì ở chỗ này. Qua việc ghép thận, mỗi ngày khả năng sống sót của ông một giảm đi. Mỗi lần thăm khám lại thấy gan và các chức năng ruột của ông suy yếu thêm.
Ông hy vọng sống qua Thiên chúa Giáng sinh.
Nhưng ông hài lòng. Ông cảm thấy thỏa mãn, một niềm thỏa mãn gần như tâm linh, phơi phới, rằng vào những ngày cuối cùng, ông đã dính dáng đến một câu chuyện bất ngờ và đáng ngạc nhiên là được quay trở lại phục vụ.
Ân huệ này ông đã không thể lường tới.
Những nốt nhạc cuối cùng của Verdi tan đi đúng lúc một ai đó mở cửa gian phòng nho nhỏ, nơi ông đang nghỉ ở ban chỉ huy của Bộ phận tại Artillerigatan.
Clinton mở mắt. Wadensjoo.
Ông đã đi đến kết luận rằng Wadensjoo là một trọng lượng chết. Ông ta hoàn toàn không xứng đáng làm giám đốc của cái mũi nhọn tiên phong nhất của nền quốc phòng Thụy Ðiển. Ông không thể hình dung nổi làm sao ông và von Rottinger lại có thể tính toán sai cơ bản đến thế được khi ngỡ rằng Wadensjoo có thể là người kế tục thích đáng.
Wadensjoo là một chiến binh cần luồng gió thuận. Trong cơn khủng hoảng ông ta yếu đuối, không thể cho ra quyết định. Một món đồ phiền toái nhút nhát thiếu thép ở sống lưng, xem vẻ chủ yếu là ì ra tê liệt, không thể hành động rồi để cho Bộ phận chìm nghỉm.
Ðơn giản là vậy. Một vài người giống như thế. Những người khác sẽ luôn loạng choạng khi bị thử thách.
– Ông muốn nói gì?
– Ngồi đi, – Clinton nói.
Wadensjoo ngồi.
– Ðời tôi đã đến lúc không còn được phung phí thì giờ, tôi cứ nói thẳng vấn đề ra. Khi tất cả việc này xong, tôi muốn ông từ chức quản lý Bộ phận.
– Ông muốn thế?
Clinton dịu giọng.
– Wadensjoo, ông là người tốt. Nhưng việc cáng đáng trách nhiệm sau Gullberg thì không may là ông lại hoàn toàn không hợp. Lẽ ra không nên trao cho ông trách nhiệm này. Sau khi tôi ốm, sai lầm của Von Rottinger và tôi là đã không giải quyết đúng đắn việc kén người kế tiếp.
– Ông có bao giờ ưa tôi đâu.
– Chỗ này ông sai. Lúc tôi và von Rottinger chịu trách nhiệm về Bộ phận, ông là một người quản trị hành chính xuất sắc. Không có ông, chúng tôi sẽ bất lực và tôi rất ngưỡng mộ lòng yêu nước của ông. Nhưng thiếu khả năng quyết định, điều ấy đã làm cho ông tụt dốc.
Wadensjoo mỉm cười chua chát.
– Sau chuyện này, tôi không biết liệu tôi có còn muốn ở Bộ phận nữa không đây.
– Bây giờ cả Gullberg và Von Rottinger đều đã chết, tôi phải tự đưa ra quyết định, thì trong ít tháng vừa rồi tất cả các quyết định của tôi đều đã bị ông ngăn cản.
– Còn tôi thì kiên trì rằng các quyết định ông đưa ra đều là vớ vẩn. Chúng sẽ dẫn tới tai họa.
– Có thể là thế. Nhưng cái tính chần chừ do dự của ông đã bảo đảm cho cơ sự của chúng ta sụp đổ. Nay ít nhất chúng ta cũng đã có một cơ hội và xem vẻ thì nó ăn thua đấy. Millennium không biết ngó theo ngả nào. Họ có thể nghi chúng ta là ở đâu đó bên ngoài cái cơ quan này nhưng họ thiếu tài liệu và họ không có cách nào tìm ra nó – hay tìm ra chúng ta. Mà họ làm gì thì ít ra chúng ta đều biết cả.
Wadensjoo nhìn qua cửa sổ ra các mái nhà.
– Việc duy nhất chúng ta vẫn phải làm là thanh toán đứa con gái của Zalachenko, – Clinton nói. – Nếu ai đó bắt đầu moi móc vào quá khứ của con ranh ấy và nghe những gì nó phải nói thì không biết rồi sẽ xảy ra chuyện gì. Nhưng vài hôm nữa phiên tòa bắt đầu và mọi sự sẽ chấm dứt. Lần này chúng ta phải đào sâu chôn chặt con ranh để cho nó không còn bao giờ quay lại mà ám chúng ta nữa.
Wadensjoo lắc đầu.
– Tôi không hiểu nổi thái độ của ông, – Clinton nói.
– Tôi có thể thấy điều đó. Ông đã sáu mươi tám tuổi. Ông đang chờ chết. Các quyết định của ông không hợp lý và hình như ông đã bỏ bùa để mê hoặc Nystrom và Sandberg. Họ tuân lệnh ông tựa như ông là Đức Chúa Cha vậy.
– Với mọi sự liên quan đến Bộ phận thì tôi là Ðức Chúa Cha. Chúng ta đang làm việc theo một kế hoạch. Các quyết định để hành động của chúng ta đã tạo ra một cơ may cho Bộ phận. Và tôi hoàn toàn tin tưởng mà nói rằng Bộ phận sẽ không bao giờ còn phải sa vào một vị thế nguy hiểm như thế này nữa. Khi mọi chuyện qua đi rồi, chúng ta sẽ bắt tay vào kiểm tra và đại tu các hoạt động của mình.
– Tôi rõ.
– Nystrom sẽ là Giám đốc mới. Ông ấy thực sự đã quá già nhưng ông ấy là lựa chọn duy nhất của chúng ta và chúng ta hứa cho ông ấy ở đây ít nhất sáu năm nữa. Sandberg thì quá trẻ và quá ít từng trải – đó là kết quả của các chính sách quản lý của ông. Bây giờ anh ấy cần được huấn luyện đầy đủ.
– Clinton, ông không nhìn thấy những việc ông đã làm hay sao? Ông đã giết chết một người. Bjorck từng làm việc cho Bộ phận ba mươi lăm năm mà ông ra lệnh giết ông ấy. Ông không hiểu…
– Ông hoàn toàn hiểu giết thế là cần thiết. Hắn phản bội chúng ta và khi cảnh sát vây sát sườn thì hắn sẽ không chịu nổi sức ép.
Wadensjoo đứng lên.
– Tôi chưa xong.
– Vậy thì chúng ta để sau làm tiếp. Tôi có việc phải làm còn ông thì nằm đấy mơ hão rằng mình là Ðức Chúa Cha.
– Nếu tinh thần ông nổi phẫn lên như thế thì tại sao ông không tìm Bublanski mà thú nhận tội lỗi của ông cho rồi đi?
– Tin tôi đi. Tôi đã tính đến chuyện ấy. Nhưng ông có thể nghĩ gì thì nghĩ chứ tôi thì đang phải làm mọi việc để bảo vệ Bộ phận đây.
Ông mở cửa thì gặp Nystrom và Sandberg đang trên đường đi vào.
– Chào, Fredrik, – Nystrom nói. – Chúng ta cần nói chuyện.
– Wadensjoo vừa mới bỏ đi.
Nystrom chờ cho cửa đóng lại.
– Fredrik, tôi rất lo ngại đây.
– Có chuyện gì vậy?
– Sandberg và tôi đang nghĩ. Việc đã xảy ra và chúng tôi không hiểu. Sáng nay, luật sư của Salander đã trao cho công tố viên bản tự thuật của Salander.
– Gì thế chứ hả?
o O o
Thanh tra Faste quan sát kỹ luật sư Giannini trong khi Ekstrom rót cà phê ở bình ra. Hai người đều sửng sốt về tài liệu Ekstrom nhận sáng nay lúc đến cơ quan. Ông và Faste đã đọc bốn chục trang câu chuyện Salander rồi bàn mãi về tập tài liệu khác thường này. Cuối cùng ông thấy buộc phải đề nghị Giannini đến để nói chuyện không chính thức.
Họ ngồi ở cái bàn họp nho nhỏ trong văn phòng Ekstrom.
– Cảm ơn bà đã vui lòng đến, – Ekstrom nói. – Tôi đã đọc cái… hừm, câu chuyện kể này, nó đến đây sáng hôm nay và có một vài điều tôi muốn làm rõ.
– Giúp được gì thì tôi sẵn sàng thôi, – Giannini nói.
– Tôi không biết đúng ra nên bắt đầu từ đâu. Ðể tôi nói ngay từ đầu rằng cả thanh tra Faste và tôi đều hết sức ngạc nhiên.
– Vậy à?
– Tôi đang cố hiểu mục đích của bà là gì.
– Ý ông là thế nào?
– Bản tự thuật này, hay bà gọi nó là gì thì tùy. Nó định nói cái gì đây?
– Cái nó định nói thì hoàn toàn rõ. Thân chủ của tôi muốn viết thành văn bản những điều đã xảy đến với cô ấy.
Ekstrom hồn hậu cười thành tiếng. Ông uốn uốn nắn nắn chòm râu dê, một cử chỉ nhắc lại quá nhiều đang bắt đầu làm cho Giannini nổi cáu.
– Vâng, nhưng thân chủ của bà đã có mấy tháng để tự làm rõ cho mình rồi mà. Trong tất cả các lần Faste hỏi, cô ấy không hề nói một câu nào.
– Theo tôi biết thì không có luật nào bắt buộc thân chủ của tôi phải nói cho vừa lòng thanh tra Faste sất cả.
– Đúng, nhưng ý tôi là… bốn ngày nữa phiên tòa xử Salander sẽ bắt đầu thì vào giờ chót cô ấy lại ra mắt bằng cái này. Nói thật, ở đây tôi cảm thấy có một trách nhiệm vượt ra ngoài các phận sự của công tố viên là tôi.
– Ông cảm thấy?
– Tôi không muốn nói chút nào cho ra vẻ công kích. Tôi không định như thế. Nhưng chúng ta có một thể thức về các phiên tòa ở đất nước này. Bà Giannini, là một luật sư chuyên về quyền lợi phụ nữ, trước đây bà chưa thay mặt cho một thân chủ nào trong một vụ án hình sự. Tôi không lên án Lisbeth Salander vì là phụ nữ mà là về tội gây ra thương tổn nghiêm trọng cho thân thể người khác. Tôi tin là ngay bà, bà cũng nhận thấy cô ấy mắc bệnh tâm thần nghiêm trọng, cần được nhà nước bảo hộ và giúp đỡ.
– Ông sợ tôi không bảo vệ thỏa đáng được cho Lisbeth Salander, – Giannini thân thiện nói.
– Tôi không muốn đánh giá gì cả, – Ekstrom nói. Tôi không nghi ngờ năng lực của bà. Tôi chỉ nêu lên rằng bà thiếu kinh nghiệm.
– Tôi rất hiểu và tôi hoàn toàn tán thành với ông. Đáng tiếc là tôi thiếu kinh nghiệm khi gặp phải các vụ án hình sự.
– Nhưng các luật sư có nhiều kinh nghiệm đáng kể hơn từng muốn giúp đỡ thì đều bị bà từ chối suốt…
– Theo nguyện vọng đặc biệt của thân chủ tôi. Lisbeth Salander muốn tôi là luật sư của cô ấy và như thế thì tôi sẽ thay mặt cho cô ấy ở tòa. – Chị lễ độ mỉm cười với ông.
– Rất tốt, nhưng tôi nghĩ bà định đưa nội dung này cho tòa thì liệu có phải là hoàn toàn nghiêm túc không đây.
– Dĩ nhiên chứ. Ðây là chuyện của thân chủ tôi mà.
Ekstrom và Faste liếc nhau. Faste nhếch lông mày. Ông không thể hiểu được việc Ekstrom cứ luẩn quẩn với chuyện này. Nếu Giannini không hiểu rằng ả đang sắp dìm chết thân chủ ả thì chắc chắn đó không phải là lỗi của công tố viên. Họ chỉ cần có mỗi việc nói cảm ơn, nhận tài liệu rồi gạt vấn đề sang bên.
Theo Faste thì Salander chập cheng rồi. Ông đã trổ hết tài cán ra thuyết phục con ranh bảo cho ông biết ít nhất là nó sống ở đâu. Nhưng hỏi tái hỏi hồi con ranh ấy cứ ngồi lì, câm như tảng đá, nhìn trừng trừng vào bức tường đằng sau ông. Ông mời thuốc lá, nó từ chối, và không bao giờ nhận cà phê hay nước lạnh. Cũng chả phản ứng gì khi ông sinh sự để cãi nhau với nó, hay những khi ông cao giọng lên vì quá ư chán nản. Chưa bao giờ Faste dắt dẫn một lần thẩm vấn nào đáng thất vọng như lần này.
– Bà Giannini, – cuối cùng Ekstrom nói. – Tôi tin rằng thân chủ của bà nên được miễn trình diện tại phiên tòa này. Cô ấy không khỏe. Căn cứ của tôi là báo cáo tâm thần của một bác sĩ cao cấp. Cô ấy nên được chăm sóc tâm thần, điều mà trong nhiều năm nay cô ấy đã cần đến ghê gớm.
– Tôi coi như vậy là ông sẽ trình bày gợi ý này với tòa án quận.
– Ðúng là tôi sẽ làm như thế. Việc của tôi không phải là bảo bà cách tiến hành bảo vệ thân chủ như thế nào. Nhưng nếu đây là đường lối bà có ý đi theo thì tình hình, hoàn toàn thẳng thắn mà nói, sẽ buồn cười. Bản tường thuật này có những lời kết tội lăng nhăng, bày đặt đối với một số người, đặc biệt với người giám hộ của cô ấy, luật sư Bjurman và bác sĩ Peter Teleborian. Tôi hy vọng bà hoàn toàn không hề nghiêm túc tin rằng tòa sẽ chấp nhận một câu chuyện gieo nghi ngờ vào bác sĩ Teleborian mà lại không có một mảy may bằng chứng nào hết. Tài liệu này sẽ là cái đinh cuối cùng đóng lên quan tài thân chủ bà, xin bà thứ lỗi cho ví von này.
– Tôi hiểu rõ mọi điều ông nói.
– Trong quá trình tòa xét xử, bà có thể tuyên bố cô ấy không bệnh rồi yêu cầu cho một đánh giá tâm thần bổ sung và thế là vấn đề được trao cho bộ phận y tế. Nhưng để nói cho trung thực, bản tự thuật của cô ấy chỉ tổ làm cho ai cũng tin rằng dù là bác sĩ tâm thần pháp y nào thì cũng đi tới kết luận giống với bác sĩ Teleborian. Chính sự tồn tại của bản này nó xác nhận cô ấy là một bệnh nhân tâm thần phân lập và hoang tưởng đúng như mọi tài liệu bằng chứng đã nói.
Giannini mỉm cười lễ độ.
– Có một cách nhìn khác thế, – chị nói.
– Là gì nhỉ?
– Là câu chuyện cô ấy kể đúng ở từng chi tiết và tòa sẽ quyết định tin nó.
Câu nói làm cho Ekstrom nom bấn ra mặt. Rồi ông mỉm cười uốn uốn nắn nắn bộ râu dê.
o O o
Clinton ngồi ở chiếc bàn phụ nho nhỏ cạnh cửa sổ trong văn phòng ông. Ông chăm chú nghe Nystrom và Sandberg. Mặt nhăn thành rãnh nhưng hai con mắt như hai viên hạt tiêu của ông thì tập trung và nhanh nhẹn.
– Từ tháng Tư chúng ta đã kiểm tra điện thoại và đường thư điện tử đi đến của các nhân viên chủ chốt ở Millennium, – Clinton nói. – Chúng ta xác nhận rằng về tổng thể Blomkvist, Eriksson và tay Cortez kia đều đã oải cả rồi. Chúng ta đã đọc đề cương của số báo tới. Có vẻ Blomkvist đã đảo ngược chỗ đứng của hắn, nay hắn coi Salander muốn gì thì cũng là bị bất ổn về tâm thần. Có một sự bào chữa liên quan tới xã hội dành cho cô ta – hắn đang nói xã hội đã để cho cô ấy bị trượt dốc nên kết quả là tuy cô cố giết bố nhưng hành vi này như thế nào đó lại không phải là lỗi của cô ấy. Nhưng cái này khó mà thành nổi một lý lẽ. Không có một lời nào về việc nhà hắn bị lẻn vào trộm hay việc em gái hắn bị tấn công ở Goteborg, cũng chả có nhắc gì đến việc mất các bản báo cáo. Hắn biết hắn không thể chứng minh được cho cái gì cả.
– Chính đấy mới thành vấn đề, – Sandberg nói. – Blomkvist chắc phải biết là có người để mắt đến hắn. Nhưng xem vẻ hắn hoàn toàn không biết đến các nghi ngờ của chính hắn. Tha lỗi cho tôi chứ cái đó không phải là cách của Millennium. Ngoài ra, Erika đã trở về tòa soạn và hiện nay toàn bộ vấn đề này lại quá nhợt nhạt và thiếu thực chất đến nỗi nhìn cứ ngỡ như đó là trò đùa vậy.
– Ông đang nói gì đây? Rằng là đã có một cái bẫy ư?
Sandberg gật.
– Số báo mùa hè sẽ ra vào tuần cuối của tháng Sáu. Theo một thư điện tử của Malin Eriksson thì số báo được một công ty ở Sodertalje in, nhưng sáng nay tôi gọi hỏi thì họ nói chưa nhận được gì. Họ chỉ được yêu cầu làm một trích dẫn đã cách đây cả tháng rồi.
– Trước đây chúng nó in ở đâu? – Clinton nói.
– Ở chỗ tên là Hallvigs ở Morgongava. Tôi gọi hỏi chuyện in ấn kia đã được bao lâu rồi – tôi nói tôi gọi từ Millennium, thì tay quản lý chả bảo gì tôi hết. Tôi nghĩ tối nay sẽ lái đến đó xem một cái.
– Hay đấy. Còn Georg?
– Tôi đã soát lại hết điện thoại đi đến từ tuần trước, – Nystrom nói. – Quái, chẳng thấy tòa soạn Millennium bàn cái gì liên quan đến phiên tòa hay Zalachenko.
– Không gì hết cả sao?
– Ðúng. Chúng nó chỉ nhắc đến mỗi lần chuyện trò với ai đó ở bên ngoài Millennium. Thí dụ đây, nghe này. Blomkvist được một phóng viên ở Aftonbladet gọi hỏi liệu hắn có đưa ra bình luận gì về phiên tòa sắp tới không.
Ông để một máy ghi âm lên bàn.
– Xin lỗi, nhưng tôi không có bình luận gì.
– Ông dính vào chuyện này từ đầu. Ông là người đã tìm thấy Salander bị chôn ở Gossberga. Mà từ đấy ông không đăng lên một lời nào. Khi nào ông có ý đưa lên báo?
– Khi đúng lúc. Với điều kiện là có cái để nói.
– Thật vậy ư?
– Ðúng, ông có thể mua một tờ Millennium mà đọc.
Ông tắt máy ghi âm.
– Trước đây chúng ta không nghĩ đến chỗ này, nhưng tôi rà lại và tình cờ nghe thấy toàn những chuyện vặt vãnh. Lúc nào cũng như thế hết. Hắn ít nói đến vụ Zalachenko, có nói thì cũng chung chung. Hắn cũng chả bàn với em gái mà mụ lại là luật sư của Salander.
– Có thể hắn chả có gì để nói thật.
– Hắn luôn không thích suy diễn việc gì. Xem vẻ hắn sống suốt ngày đêm ở tòa báo; hiếm khi ở nhà mình. Nếu hắn hiện làm việc cả đêm lẫn ngày thì chắc là hắn đang phải bận với một cái gì thực chất hơn so với tất cả những gì sẽ được đưa lên số báo tới của Millennium.
– Còn chúng ta vẫn chưa thể gài bọ nghe trộm điện thoại ở cơ quan báo chúng nó.
– Chưa, – Sandberg nói. – Ngày đêm lúc nào cũng có đứa ở đó – và thế là có ý cả đấy – từ lần đầu tiên chúng ta vào căn hộ của Blomkvist. Đèn tòa soạn luôn sáng và nếu không phải Blomkvist thì là Cortez hay thằng đồng tính… ờ ờ Christer Malm.
Clinton nắn nắn cằm, nghĩ một lúc.
– Kết luận sao?
Nystrom nói:
– Nếu không biết được gì khá hơn nữa thì tôi cho là chúng đang dàn dựng cho chúng ta một vở.
Clinton thấy một luồng băng giá chạy xuống đến dưới gáy ông.
– Sao trước đây chuyện này lại không xảy ra với chúng ta?
– Chúng ta nghe thấy những cái chúng nó nói nhưng những cái chúng không nói thì đâu có nghe thấy được. Nghe điện thoại hay đọc thấy chúng hoang mang ở thư điện tử thì chúng ta khoái. Blomkvist thừa biết có đứa ăn cắp mất của nó và em gái nó các bản báo cáo năm 1991 của Salander. Nhưng nó có làm cái khỉ gì về chuyện ấy không?
– Anh em nó cũng không báo cảnh sát chuyện con em bị chẹn cổ à?
Nystrom lắc.
– Lúc thẩm vấn Salander đều có mặt Giannini. Mụ lịch sự nhưng chả nói cái gì đáng giá cả. Bản thân Salander cũng chả nói câu nào.
– Nhưng như thế lại lợi cho chúng ta. Nó càng câm càng hay. Ekstrom nói sao?
– Tôi gặp ông ấy trước đây hai giờ. Ông ấy vừa mới nhận được bản tường thuật của Salander xong.
Ông chỉ vào các trang giấy ở trên đùi Clinton.
– Ekstrom lúng túng. May mà Salander không giỏi viết tự diễn đạt. Với một người ngoài cuộc thì bản này có vẻ là một lý lẽ hoàn toàn điên rồ về âm mưu có cộng thêm những yếu tố dâm ô. Nhưng con bé vẫn bắn sát sạt hồng tâm đấy. Nó tả chính xác nó bị nhốt ở bệnh viện Thánh Stefan như thế nào, nó nói Zalachenko làm việc cho Sapo này nọ, v.v… Nó nói nó nghĩ mọi sự đến liên quan tới một cái nhóm nho nhỏ ở trong nội bộ Sapo, chỉ ra là có tồn tại một cái gì đó nghe như ứng với Bộ phận. Tóm lại khá chính xác. Nhưng như tôi đã nói, nó không hợp lý. Ekstrom dao động vì có vẻ bản này cũng sẽ là tuyến phòng ngự Giannini đem ra dùng ở tòa.
– Chó má thật, – Clinton nói.
Ông cúi đầu xuống nghĩ căng một lúc. Cuối cùng ngửng lên.
– Jonas, tối nay lái xe đến Morgongava tìm xem liệu đang có chuyện gì không. Nếu chúng nó đang in Millennium thì tôi muốn một bản sao.
– Tôi sẽ mang Falun đi cùng.
– Tốt, Georg, tôi muốn ông gặp Ekstrom tối nay, bắt mạch ông ta xem. Cho tới nay mọi sự đểu diễn ra trơn tru nhưng tôi không thể không tính đến những cái hai ông vừa bảo tôi.
Clinton ngồi im thêm một lúc nữa.
– Nếu không có phiên xét xử thì hay nhất… – cuối cùng ông nói.
Ông nhếch lông mày nhìn Nystrom. Nystrom gật. Sandberg gật.
– Ông có thể nghiên cứu các lựa chọn của chúng ta được không?
o O o
Sandberg và anh thợ khóa có tên Falun đỗ cách đường sân ga một quãng ngắn rồi đi bộ qua Morgongava. Ðang là 8 rưỡi tối. Trời quá sáng và quá sớm 3 để làm được trò gì nhưng họ muốn thám thính và nhòm qua địa điểm.
– Nếu tòa nhà có cài đặt báo động là tôi không làm đâu, – Falun nói. – Tốt hơn là nhìn qua cửa sổ. Nếu xung quanh ổn, ông có thể chỉ cần ném một hòn đá qua, nhảy vào, tóm lấy cái ông cần rồi cắm đầu mà chạy trối chết.
– Như thế ăn thua đấy, – Sandberg nói.
– Nếu chỉ cần một bản sao của tạp chí ấy thì chúng ta có thể lục soát các thùng rác ở quanh đằng sau nhà. Thế nào cũng có những bản in thừa, in thử, đại loại các thứ như thế.
Xưởng in Hallvigs nằm trong một tòa nhà gạch thấp. Họ đi từ hướng nam ở phía bên kia con phố. Sandberg đã sắp qua đường thì Falun nắm lấy khuỷu tay ông.
– Cứ đi thẳng, – hắn nói.
– Cái gì?
– Cứ đi thẳng, làm như chúng ta ra ngoài đi dạo.
Họ qua xưởng in Hallvigs đi một vòng quanh đó.
– Sao lại phải làm cái trò ấy?
Sandberg hỏi.
– Ông phải chong mắt lên chứ. Ðúng là nhà không cài đặt báo động. Có một cái xe đỗ dọc tòa nhà.
– Ý ông là có người đang ở đó à?
– Cái xe ấy của An ninh Milton, lạy Chúa.
o O o
– An ninh Milton à? – Clinton cảm thấy cú sốc đánh trúng vào ruột gan ông.
– Không có Falun thì tôi đã đi tuốt luôn vào tay họ mất rồi, – Sandberg nói.
– Có một cái gì đen tối đang diễn ra, – Nystrom nói. – Chả lẽ nào mà một cái nhà in phố huyện cỏn con lại đi thuê An ninh Milton canh gác ngày đêm thế này.
Môi Clinton mím chặt. Đã 11 giờ và ông cần nghỉ.
– Và như thế có nghĩa là Millennium đang thực sự bận về một vụ gì, – Sandberg nói.
– Tôi có thể hiểu được, – Clinton nói. – OK. Chúng ta hãy phân tích tình hình. Kịch bản cho trường hợp tồi tệ nhất là gì? Chúng có thể biết được gì không? – Vẻ mặt khẩn trương ông nhìn Nystrom.
– Chắc là bản báo cáo của Salander, – ông nói. – Bị chúng ta nẫng các bản sao thì chúng cho cài đặt báo động. Chắc chúng đã đoán là chúng đang bị theo dõi. Trường hợp tồi tệ nhất là chúng vẫn còn một bản sao của bản báo cáo.
– Nhưng bị mất các cái kia là Blomkvist hết võ rồi.
– Tôi biết, nhưng có thể là chúng ta đã mắc phải quả lừa. Chúng ta không thể làm ngơ trước khả năng này.
– Chúng ta sẽ làm việc theo giả định này. – Clinton nói. – Thấy sao Sandberg?
– Chúng ta biết họ sẽ bào chữa như thế nào cho Salander. Con ranh thấy sao thì nói y như vậy. Tôi đã đọc tự thuật của nó. Thật ra cái này là gậy ông đập lưng ông. Nó đầy những lời kết tội cùng chửi bới về cưỡng hiếp và vi phạm quyền dân sự đến nỗi tình cờ lại đâm ra thành những trò ám ảnh mê loạn của một kẻ hoang tưởng.
– Ngoài ra, không có một tí bằng chứng nào cho các tội kể ra. Ekstrom sẽ dùng tự thuật này chống lại chính con ranh. Ông ấy sẽ đánh sập độ tín nhiệm của nó, chẳng ai tin lời nó nữa.
– OK. Báo cáo mới của Teleborian rất hay. Dĩ nhiên có khả năng Giannini sẽ mời chuyên gia của mụ ấy đến nói là Salander không điên và tất nhiên câu chuyện sẽ được lái đến trước một hội đồng y học. Nhưng, nói lại, trừ phi Salander thay đổi chiến thuật, chứ nếu chỉ khăng khăng không chịu nói với họ thì họ sẽ kết luận là kết luận của Teleborian đúng. Con ranh là kẻ thù của chính nó.
– Không có phiên tòa thì vẫn cứ là hay nhất, – Clinton nói.
Nystrom lắc.
– Rút cục không thể nào mà có được chuyện ấy. Con ranh đang ở nhà tù Kronoberg, không được tiếp xúc với các tù phạm khác. Mỗi ngày được ra tập một giờ ở cái mảnh con con trên mái nhưng trên ấy chúng ta không với được tới chỗ ấy. Chúng ta cũng không có quan hệ gì với nhân viên nhà tù.
– Có thể vẫn có thời gian.
– Nếu muốn loại con ranh thì đã phải làm từ hồi nó còn ở Sahlgrenska cơ. Lúc ấy khả năng một tay đao búa làm nên chuyện là gần như trăm phầm trăm. Bây giờ thì tìm đâu ra súng, ai chịu làm chuyện đó? Rồi thời gian báo trước ngắn như vậy thì sẽ không thể bố trí để thành một vụ tự sát hay tai nạn được.
– Tôi sợ thế. Chết bất ngờ là hay khiến cho người ta dễ thắc mắc hỏi han. OK, chúng ta sẽ phải trông coi xem phiên tòa làm ăn thế nào. Thực tế thì chưa có gì thay đổi cả. Chúng ta vẫn tính trước là chúng sẽ chơi một kiểu phản đòn nào đó, xem vẻ lần này thì phản đòn là cái gọi là tự truyện này đây.
– Vấn đề là Millennium, – Sandberg nói.
– Millenium và An ninh Milton, – Clinton trầm ngâm nói. – Salander đã làm việc cho Armansky, Blomkvist đã có lần có chuyện với con ranh. Chúng ta có nên cho rằng chúng đang phối hợp với nhau không?
– Việc An ninh Milton đang giám sát nhà in, nơi in Millennium không phải là chuyện vớ vẩn. Và không thể là một trùng hợp ngẫu nhiên.
– Khi nào chúng sẽ xuất bản? Sandberg, ông nói chúng bị chậm mất gần như hai tuần so với kế hoạch. Nếu chúng ta cho rằng Milton đang để mắt tới nhà in để đảm bảo cho bản sao không bị ai lấy nổi thì có nghĩa hoặc là chúng đang xuất bản một cái gì chúng không muốn bị rò rỉ ra hoặc là số tạp chí đã được in xong.
– Ðể cho trùng vào đúng thời điểm phiên tòa bắt đầu mở, – Sandberg nói. – Chỉ giải thích như thế thì mới có lý.
Clinton gật.
– OK. Trong tạp chí sẽ là cái gì đây cơ chứ?
Họ suy nghĩ một lúc, rồi Nystrom phá vỡ im lặng.
– Trường hợp xấu nhất là họ có bản sao của bản báo cáo năm 1991, như chúng ta đã nói.
Clinton và Sandberg cũng đã đi tới kết luận này.
– Nhưng chúng làm gì được với bản sao ấy? – Sandberg nói. – Bản báo cáo liên lụy tới Bjorck và Teleborian. Thì Bjorck đã chết. Chúng có thể ép dữ Teleborian nhưng ông ấy sẽ nói ông ấy làm một cuộc xét nghiệm pháp y theo thủ tục thông thường. Chúng sẽ lấy chỗ đó để chống lại ông ấy.
– Còn chúng ta thì có thể làm được gì nếu chúng đăng bản báo cáo lên? – Nystrom nói.
– Tôi nghĩ chúng ta đang nắm quân át chủ, – Clinton nói. – Nếu xảy chuyện ầm ĩ về bản báo cáo thì người ta sẽ chú ý nhiều đến Sapo chứ không đến Bộ phận. Rồi khi đám phóng viên bắt đầu hỏi thì Sapo chỉ cứ việc rút nó ra khỏi hồ sơ lưu trữ…
– Và nó sẽ không phải là bản báo cáo giống như thế, – Sandberg nói.
– Shenke đã thay bản báo cáo có sửa đổi vào hồ sơ lưu trữ, tức là cái bản đưa cho Ekstrom đọc. Nó được gán cho một mã số vụ án. Vậy là chúng ta có thể nhanh chóng đưa ra cho giới truyền thông nhiều thông tin giả… Chúng ta có bản gốc, bản mà Bjurman nắm còn Millennium chỉ có bản sao. Chúng ta thậm chí có thể tung tin gợi ý rằng chính Blomkvist đã làm mạo bản gốc.
– Tốt. Millennium còn biết được cái gì khác nữa?
– Họ không biết gì về Bộ phận hết. Làm sao mà biết được chứ. Chúng sẽ tập trung chú ý vào Sapo và thế có nghĩa là Blomkvist sẽ đóng vai nhà bày đặt âm mưu.
– Hiện hắn đang khá nổi tiếng, – Clinton thong thả nói. – Từ khi giải quyết vụ Wennerstrom hắn khá là được xem trọng.
– Có cách nào làm giảm tín nhiệm của cha này đi không? – Sandberg nói.
Nystrom và Clinton liếc nhau. Clinton nhìn Nystrom.
– Ông có nghĩ chúng ta có thể nhúng tay vào… cứ tạm nói là năm mươi gam cocaine được không?
– Có thể là của bọn Nam Tư.
– Thử một cái xem, và làm tới đi thôi. Ba ngày nữa tòa đã mở rồi.
– Tôi không hiểu cái này, – Sandberg nói.
– Một thủ đoạn cũng già đời y như nghề này thôi ấy mà. Nhưng vẫn hiệu nghiệm cực kỳ.
o O o
– Morgongava? – Edklinth cau mày nói. Ông mặc áo ngủ ngồi trên sofa ở nhà, đọc kỹ đến lần thứ ba bản tự thuật của Salander thì Figuerola gọi. Vì đã quá nửa đêm nên ông cho là phải có chuyện gì gấp.
– Morgongava, – Figuerola nhắc lại. – Sandberg và Falun đã ở đấy hồi 8 rưỡi tối nay. Thanh tra Andersson ở cánh Bublanski đã bám đuôi chúng và chúng tôi đã cắm vào xe của Sandberg một máy truyền tin vô tuyến. Chúng để xe ở gần ga xe lửa cũ, đi bộ loanh quanh một lúc rồi quay lại xe lái về Stockholm.
– Tôi rõ. Chúng có gặp ai hay…
– Không. Thế mới lạ. Chỉ xuống xe đi bộ phất phơ một ít rồi re thẳng về Stockholm, Andersson bảo tôi vậy.
– Tôi rõ. Thế tại sao 12 rưỡi đêm mà cô lại gọi tôi để nói chuyện đó?
– Phải mất một lúc tôi mới mò ra. Chúng đi bộ qua nhà in Hallvigs. Tôi đã nói với Blomkvist chuyện này. Millennium đang in ở đấy.
– Ô chết tiệt, – Edklinth nói. Ông tức khắc thấy ra sự liên hệ.
– Vì Falun cùng đi nên tôi cho rằng chúng đang có ý chờ khuya sẽ vào thăm viếng nhà in, nhưng chúng đã bỏ chuyến thám hiểm, Figuerola nói.
– Tại sao?
– Vì Blomkvist đề nghị Armansky để mắt tới nhà in cho đến khi phát hành số tạp chí. Chắc chúng đã trông thấy xe của An ninh Milton. Tôi nghĩ ông muốn biết chuyện ngay.
– Cô nói đúng. Thế là chúng bắt đầu ngửi thấy mùi chuột chết.
– Lúc trông thấy chiếc xe, chắc còi báo động rú trong đầu chúng. Sandberg thả Falun xuống thành phố rồi quay về Artillerigatan. Chúng ta biết Clinton ở đó. Nystrom đến gần như cùng lúc. Vấn đề là chúng sắp sửa làm gì?
– Phiên tòa mở hôm thứ Tư… Cô có thể gọi Blomkvist giục cho tăng gấp đôi an toàn ở Millennium lên không? Phòng xa.
– An toàn của họ tốt rồi. Họ đã chơi trò ném hỏa mù các điện thoại bị nghe trộm – y như những dân chuyên nghiệp. Blomkvist cũng quá ư hoang tưởng đến nỗi chúng ta có thể học được cả các chiến thuật nghi binh của anh ta.
– Nghe thế tôi mừng nhưng muốn gì cũng cứ gọi cho anh ta đi.
o O o
Figuerola đóng di động đặt nó lên bàn cạnh giường. Chị ngửng lên nhìn kỹ Blomkvist đang nằm trằn như nhộng, đầu gối lên chân giường.
– Tôi cần gọi anh để bảo anh hãy đề cao cảnh giác ở Millennium, – Cô nói.
– Cảm ơn gợi ý ạ, – anh nói, giọng chế nhạo.
– Tôi nghiêm túc đấy. Chúng mà ngửi thấy mùi chuột chết là có nguy cơ chúng sẽ làm một cái gì đó thiếu suy nghĩ. Chúng có thể đột nhập vào tòa báo.
– Henry ngủ ở đấy đêm nay. Bọn này lại có hệ thống báo động kẻ trộm nối thẳng với An ninh Milton, ba phút là biết ngay.
Anh nằm xuống, mắt nhắm lại, im lặng.
– Hoang tưởng, – anh lầm bầm.
Chú thích
1. “Ðã ở đó, đã làm chuyện đó, đã có cái áo phông”, ý nói đã sống thân mật với nhau.
2. Giuseppe Verdi (1813 – 1901), nhạc sĩ cổ điển người Ý.
3. Vào mùa hè ở các nước Bắc Âu như Thụy Ðiển, trời tối rất muộn, có những vùng trời không tối vì hiện tượng đêm trắng.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.