Thứ Sáu, 2 Tháng Mười Hai
Thứ Bảy, 28 Tháng Mười Hai
Giannini gặp Salander ở bar nhà hát Sodra lúc 9 giờ. Salander đang uống bia và sắp xong cốc thứ hai.
– Xin lỗi đến muộn, – Giannini nói, liếc đồng hồ. – Tôi phải làm việc với một thân chủ khác.
– OK thôi, – Lisbeth nói.
– Cô mừng chuyện gì thế?
– Chả gì cả. Chỉ là muốn say tí ti.
Ngờ vực nhìn cô, Giannini ngồi xuống:
– Cô có hay thích say như thế này không?
– Sau khi được tha tôi đã bị say ngu say ngơ nhưng tôi không có xu hướng nghiện. Tôi chỉ thế này cho cái lần đầu trong đời tôi được quyền say ở Thụy Ðiển.
Giannini gọi một campari.
– OK. Cô muốn uống một mình, – chị nói, – hay muốn uống có bạn?
– Một mình thì hơn. Nhưng nếu chị không nói quá lắm thì chị có thể ngồi với tôi. Tôi cho rằng chắc chị chẳng muốn về nhà với tôi rồi ngủ với nhau đâu.
– Xin lỗi?
– Không, tôi không nghĩ thế. Chị là một trong những người dị tính ái không lành mạnh.
Giannini thình lình nom thú vị.
– Lần đầu tiên trong đời, tôi có một thân chủ gạ tình tôi đây.
– Chị có thích không?
– Không, ít ra thì cũng không, xin lỗi. Nhưng cảm ơn là đã gạ nhé.
– Vậy chị muốn gì chứ cố vấn?
– Hai điều. Hoặc tôi thôi là luật sư của cô ngay tức khắc hoặc cô trả lời điện thoại khi tôi gọi. Khi cô được tha ra, chúng ta đã nhất trí như thế.
Salander nhìn Giannini.
– Tôi cố liên hệ với cô suốt cả tuần. Tôi gọi điện, tôi gửi thư.
– Tôi đi xa.
– Thật ra gần như suốt mùa thu tôi không liên hệ được với cô. Thế là không được. Tôi đã nói tôi sẽ thay mặt cô trong mọi cuộc thương lượng với Chính phủ rồi cơ mà. Có những thủ tục cần phải chú trọng. Những giấy tờ cần ký. Những câu hỏi cần phải trả lời. Tôi phải liên hệ được với cô và tôi không muốn bị biến thành một đứa ngu vì không biết cả đến cái chỗ cô ở là cái con khỉ gì ở đâu nữa.
– Tôi đi xa hai tháng. Về nhà hôm qua mới biết chị đang tìm là tôi gọi chị ngay đấy thôi.
– Tốt bụng như thế chưa đủ đâu. Cô phải luôn báo tôi biết cô đang ở đâu và cho tới khi các vấn đề về bồi thường, v.v… nhiều thứ khác nữa, đã được giải quyết xong, thì ít nhất hãy liên hệ với tôi mỗi tuần một lần.
– Tôi hê vào bồi thường. Tôi chỉ muốn Chính phủ để cho tôi yên.
– Nhưng Chính phủ sẽ không để cô yên, bất cần cô muốn yên nhiều đến đâu. Việc tha cô trắng án đã làm cho cả một chuỗi đài dằng dặc các thứ hệ quả liền lập tức mở máy. Không chỉ là chuyện về cô thôi đâu. Teleborian sẽ bị khởi tố về những điều hắn đã làm với cô. Cô sẽ phải làm chứng. Ekstrom là đề tài của một cuộc điều tra vì làm sai phận sự và ông ta có thể cũng bị khởi tố nếu rút cục ông ta vì theo lệnh của Bộ phận mà cố tình sao nhãng phận sự.
Salander nhướng lông mày lên. Cô có vẻ thích thú một lúc.
– Tôi không ngờ lại thành ra có cả một cáo trạng. Ông ta đã bị Bộ phận dắt mũi trong khi thực tế ông ta chả có dính líu gì đến chúng. Nhưng vừa mới tuần qua một công tố viên đã mở một cuộc điều tra sơ bộ với Sở Giám hộ. Họ dính đến mấy bản báo cáo gửi lên Nghị viện cũng như một báo cáo gửi đến Bộ Tư pháp.
– Tôi không báo ai cả.
– Đúng. Nhưng rõ ràng là đã có chuyện sao nhãng phận sự một cách trắng trợn. Cô không phải là người duy nhất bị hại.
Salander nhún vai.
– Cái này chả dính gì đến tôi. Nhưng tôi hứa sẽ liên hệ chặt chẽ hơn với chị. Hai tháng qua là một ngoại lệ. Tôi làm việc.
Giannini nom cô vẻ không tin cô.
– Cô đang làm gì?
– Tham vấn.
– Tôi thấy rồi, – chị nói. – Điều thứ hai là về kiểm kê di sản.
– Kiểm kê di sản gì?
– Di sản của bố cô. Người đại diện hợp pháp của di sản đã tiếp xúc với tôi vì hình như không còn ai biết làm như thế nào để liên hệ được với cô. Cô và em gái cô là hai người thừa kế duy nhất.
Salander ngẩn ra nhìn Giannini. Rồi bắt được ánh mắt cô phục vụ bàn, Salander chỉ tay vào cốc bia.
– Tôi không muốn bất cứ thừa kế nào của bố hết. Muốn cái khỉ gì với nó thì chị cứ việc làm thôi.
– Sai. Cô có thể làm bất cứ cái gì mà cô muốn về chuyện thừa kế. Việc của tôi là trông nom sao cho cô có dịp nhận khoản thừa kế đó.
– Tôi không muốn một xu nào của con lợn ấy.
– Vậy đem tiền ấy cho tổ chức Hòa bình xanh hay cái gì đó đi.
– Về cá voi là tôi không có cho một tí gì cả.
Giọng Gianninio chợt mềm dịu.
– Lisbeth, nếu cô sắp là một công dân có trách nhiệm về pháp lý thì cô sẽ phải bắt đầu ứng xử giống như một công dân. Tiền của cô cô làm gì thì tôi kệ. Chỉ là ký vào đây rằng cô đã nhận, rồi sau đó thì cô cứ việc tha hồ mà yên tâm say xỉn.
Salander liếc chị rồi nhìn xuống bàn. Annika cho đó là một cử chỉ làm lành, coi tương đương được với một lời xin lỗi ở trong phạm vi biểu cảm hạn chế của Salander.
– Chúng ta đang nói đến những con số gì đây chứ?
– Không xoàng đâu. Bố cô có khoảng 300.000 krona trong cổ phần. Bán bất động sản ở Gosseberga sẽ được chừng 1 triệu rưỡi – kể cả khu rừng nhỏ. Và có ba cơ ngơi khác nữa.
– Cơ ngơi kiểu gì?
– Hình như ông ấy đã đầu tư một món tiền không nhỏ. Không có gì là giá trị đồ sộ, nhưng ông ấy sở hữu một tòa nhà sáu buồng ở Udderalla, các cái này cũng mang lại được thu nhập. Nhưng cơ ngơi này không được ổn. Ông ấy không chú ý bảo quản và các căn hộ đã bị hội đồng người thuê kiện ra tòa. Cô sẽ không giàu lên vì nó nhưng nếu bán thì cô sẽ được giá hời. Ông ấy cũng sở hữu một căn nhà nhỏ mùa hè ở Smaland đáng chừng 250.000 krona. Cộng thêm ông ấy lại có một khu nhà xưởng ọp ẹp ở bên ngoài Norrtalje.
– Tại sao ông ta lại mua tất cả các cái của nợ ấy làm gì thế cơ chứ?
– Tôi không hiểu. Nhưng bất động sản ấy có thể mang lại hơn bốn triệu krona sau khi đã đóng thuế, nhưng…
– Nhưng gì?
– Di sản được chia đều cho hai chị em cô. Vấn đề là không ai biết em cô ở đâu cả.
Salander im lặng nhìn Giannini.
– Ừm…
– Ừm gì?
– Em cô ở đâu?
– Tôi không biết. Tôi không gặp nó mười năm nay rồi.
– Hồ sơ cô ấy được xếp hạng bí mật nhưng tôi tìm ra là cô ấy đã vào danh sách người Thụy Ðiển ở nước ngoài.
– Tôi hiểu, – Salander nói, tỏ ra hờ hững.
Giannini cáu thở dài.
– Có lẽ tôi gợi ý chúng ta cứ thanh lý hết các tài sản rồi gửi ngân hàng một nửa số tiền thu được, chờ cho đến khi tìm ra cô em cô. Tôi sẽ tiến hành thương lượng nếu cô bằng lòng.
Salander nhún vai.
– Tôi không muốn dính một tí nào vào tiền của lão ta.
– Tôi hiểu chỗ đó. Nhưng giấy tờ quyết toán thì vẫn cứ phải làm cho xong. Ðấy là một phần trách nhiệm của cô ở tư cách công dân.
– Thế thì bán cái đống đồng nát ấy đi. Ðể một nửa vào ngân hàng còn chị muốn cho ai chỗ còn lại thì tùy chị.
Giannini nhìn cô chằm chằm. Chị biết Salander tiêu tiền như nước nhưng chị không ngờ nổi thân chủ của chị lại đoạn tuyệt với mọi sự đến độ có thể lờ đi một khoản thừa kế có lẽ lên tới một triệu krona hay hơn. Hơn nữa, chị không hiểu Salander đã lấy ở đâu ra tiền hay là đã bập vào tiền đến đâu. Mặt khác chị thạo việc hoàn tất các thủ tục giấy tờ quan liêu.
– Lisbeth, xin cô đấy… Cô có thể đọc bản kiểm kê di sản rồi bật đèn xanh cho tôi để chúng ta giải quyết chuyện này được không nào?
Salander càu nhàu một lúc rồi cuối cùng bằng lòng, nhét tập hồ sơ vào túi khoác vai của cô. Cô hứa sẽ đọc hết rồi gửi ý kiến cho Giannini biết là cô muốn chị làm gì. Rồi cô quay lại với bia. Giannini ngồi với cô một giờ nữa, phần lớn uống nước khoáng.
o O o
Phải vài ngày sau, khi Giannini gọi điện thoại nhắc chuyện kiểm kê di sản, Salander mới lấy các giấy tờ nát nhàu ra. Cô ngồi ở bàn bếp, vuốt phẳng lại các tài liệu và đọc hết.
Bản kiểm kê dài mấy trang. Có một danh sách cụ thể về các thứ bà dằn – đồ sứ trong tủ bát đĩa ở trong bếp tại Gosseberga, quần áo, camera và các đồ dùng cá nhân khác. Zalachenko không để lại nhiều các thứ có giá trị thực sự, còn đồ đạc có chút giá trị tình cảm nào thì tuyệt đối không với Salander. So với hôm cô gặp Giannini ở quầy bar nhà hát, cô vẫn quyết định không thay đổi thái độ. Bán chỗ đồng nát ve chai ấy đi và cho một nơi nào đó món tiền ấy. Hay một cái gì đó đại khái như vậy. Cô khẳng định không thiết một xu trong tài sản của ông bố nhưng cô cũng hoàn toàn tin rằng trong thực tế Zalachenko đã giấu tài sản vào một chỗ mà không thanh tra thuế vụ nào có thể tìm ra.
Rồi cô mở chứng thư về bất động sản ở Norrtalje.
Ðấy là một khu công nghiệp gồm ba tòa nhà, tổng cộng hai chục nghìn mét vuông ở lân cận Skederid, giữa Norrtalje và Rimbo.
Người đánh giá bất động sản rõ ràng chỉ đến cưỡi ngựa xem hoa rồi ghi nhận rằng đây là một công trình bằng gạch cũ kỹ ít nhiều trống rỗng và bỏ không từ khi xưởng máy phải đóng cửa hồi những năm 60, trừ hồi thập niên 70, một dạo người ta có lấy nó để chứa gỗ phiến. Ông ghi rằng thực trạng các tòa nhà là “tồi tàn” và xem chừng không còn làm mới lại để dùng cho các hoạt động khác được nữa. Thuật ngữ “tồi tàn” cũng được dùng để mô tả “tòa nhà phía bắc” đã bị hỏa hoạn phá hủy và đánh sập thực sự. “Tòa nhà chính” có được sửa chữa phần nào, ông viết.
Điều làm cho Salander sốc là lịch sử của địa điểm đó. Ngày 12 tháng Ba năm 1984, với một cải giá bèo, Zalachenko đã có được bất động sản này nhưng người ký tên trên giấy tờ mua bán lại là Agneta Sofia Salander.
Vậy thực tế người sở hữu bất động sản là mẹ của Salander. Nhưng đến năm 1987 thì quyền sở hữu của bà chấm dứt. Zalachenko đã mua đoạn của bà với cái giá 2.000 krona. Sau đó trong vòng mười lăm năm bất động sản không được dùng vào việc gì. Bản kiểm kê cho thấy ngày l7 tháng Mười hai năm 2003, công ty Nhập khẩu KAB đã thuê công ty xây dựng Norrbygg tân trang lại, gồm có sửa chữa sàn và trần, cũng như cải thiện các hệ thống nước và điện. Sửa chữa trong hai tháng nhưng đến cuối tháng Mười một thì đứt đoạn. Norrbygg có gửi hóa đơn đến và đã được thanh toán.
Trong tất cả tài vật thuộc bất động sản của ông bố, đây là khoản duy nhất đáng ngạc nhiên. Salander hoang mang. Quyền sở hữu khu công nghiệp này chỉ có ý nghĩa khi bố cô muốn tạo ra ấn tượng rằng công ty Nhập khẩu KAB đang tiến hành các hoạt động hợp pháp hay đã sở hữu một số tài vật khác. Nó cũng có nghĩa rằng ông đã dùng mẹ cô làm tiền phương cho ông kiếm lợi rồi đã mua lại bất động sản với một khoản tiền còm.
Nhưng có gì đã khiến ông chi gần 440.000 krona ra tân trang một tòa nhà rách nát mà theo lời người đánh giá tài sản thì vào năm 2005 Zalachenko cũng không dùng nó vào việc nào hết?
Không hiểu được điều này nhưng cô cũng chả mất thì giờ suy nghĩ về nó. Cô đóng tập hồ sơ lại và gọi Giannini.
– Tôi đã đọc bản kiểm kê. Tôi vẫn giữ nguyên ý kiến ban nãy. Cứ bán chỗ đồng nát ấy đi rồi chị thích làm gì với số tiền đó thì làm. Tôi không muốn cái gì của ông ta sất.
– Rất tốt. Tôi sẽ lo việc chuyển một nửa số tiền vào tài khoản của em gái cô. Và tôi sẽ gợi ý một vài nơi thích đáng để nhận chỗ còn lại.
– Ðúng, – Salander nói và đặt máy, không bàn cãi nhiều hơn.
Cô ngồi ở ghế bên cửa sổ, châm một điếu thuốc rồi nhìn về phía Saltsjon.
o O o
Salander bỏ tuần sau ra giúp Armansky một vấn đề khẩn cấp. Cô phải dò tung tích và nhận dạng một người bị nghi là đã thuê bắt cóc một đứa trẻ trong vụ tranh giành quyền nuôi con của một phụ nữ li hôn với ông chồng người Liban. Việc của Salander là kiểm tra thư điện tử của người bị cho rằng đã thuê kẻ bắt cóc. Vai trò của An ninh Milton đã bị đình lại khi hai bên đi tới một giải pháp hợp pháp.
Ngày 18 tháng Mười hai, Chủ nhật nước Chúa Giáng sinh, Salander dậy lúc 6 giờ và nhớ là cô phải mua quà tặng Palmgren. Thoáng một lúc cô nghĩ liệu có ai khác nữa cô nên mua quà tặng không – có lẽ là Giannini. Cô dậy, tà tà tắm gội, ăn bánh mì nướng lót dạ với phomát và mứt cùng cà phê.
Không có dự định đặc biệt gì cho hôm đó, cô bỏ một lúc ra dọn dẹp báo và tạp chí ở bàn làm việc. Rồi mắt cô đặt vào tập hồ sơ có bản kiểm kê di sản. Cô mở ra đọc lại trang đăng ký tên gọi cho cái địa điểm ở Norrtalje. Cô thở dài. OK. Mình phải tìm cho ra xem ông ta làm cái đồ quỷ gì ở chỗ ấy mới được.
Cô mặc quần áo ấm và đi ủng. 8 rưỡi thì cô lái chiếc Honda màu mận chín ra khỏi gara dưới hầm nhà số 9 Fiskargatan. Thời tiết lạnh buốt nhưng đẹp, nắng và bầu trời màu lam nhẹ phớt. Cô đi con đường qua Slussen và Klarabergsleden rồi lượn vòng vèo lên quốc lộ E18 hướng về phía bắc. Cô không vội. 10 giờ, cô rẽ vào một trạm xăng kiêm cửa hàng ở ngoài Skederid một vài dặm, hỏi đường đến khu nhà gạch cũ nát. Cô vừa đổ xe thì nhận ra ngay là chả cần phải hỏi.
Cô đang ở trên sườn đồi nhìn thông sang tới thung lũng bên kia con đường. Bên trái lối đi Norrtalje, cô có thể nhìn thấy một nhà kho sơn, một kiểu sân bãi gì đó của tòa nhà và một sân bãi nữa với các cỗ xe ủi. Ở bên phải, cuối khu vực công nghiệp, cách đường cái chừng bốn trăm mét là một tòa nhà gạch âm u với một dãy ống khói đổ nát. Cái xưởng máy đứng như một tiền đồn cuối cùng của khu công nghiệp, có phần cô quạnh heo hút ở bên kia một con đường và một khe suối hẹp. Cô đăm chiêu theo dõi tòa nhà, thầm hỏi cái của khỉ gì nó đã ám, xui khiến cô lái xe từng ấy độ đường lên tới Norrtalje đây.
Cô quay lại liếc về trạm xăng OK, ở đó một xe tải đường trường kèm xe moóc mang huy hiệu Liên hiệp vận tải đường bộ quốc tế đang đi vào. Cô nhớ rằng cô đang ở trên con đường chính của bến phà chót Kapellskar, nơi một số lượng lớn xe cộ chở hàng giữa Thụy Ðiển và các nước vùng Baltic chạy qua.
Cô nổ máy đi ra con đường dẫn tới khu nhà gạch già nua. Cô đỗ xe ở giữa sân và đi ra. Bên ngoài trời buốt cóng, cô phải đội một mũ lưỡi trai màu đen và đeo găng da.
Tòa nhà chính có hai tầng. Ở tầng dưới tất cả các cửa sổ đều bít kín bằng gỗ dán. Cô thấy nhiều cửa sổ tầng trên đã bị gẫy vỡ. So với cô tưởng tượng thì xưởng máy là một tòa nhà lớn hơn nhiều và tan hoang không thể ngờ nổi. Cô không thấy có bằng chứng sửa chữa. Không dấu vết của một bóng người nào đang sống nhưng cô có thể thấy một bao cao su đã dùng vất ở trong sân, và các nghệ sĩ vẽ graffitti đã tấn công vào một phần mặt tiền.
Tại sao Zalachenko lại có tòa nhà này?
Cô đi quanh xưởng máy, tìm thấy tòa nhà mạn bắc đổ nát ở phía đằng sau. Cô thấy các cửa vào tòa nhà chính đều khóa. Cô thất vọng xem xét kỹ một cửa ở đằng cuối của tòa nhà. Tất cả các cửa khác đều có khóa móc gắn vào các then sắt và dây an toàn mạ kẽm, nhưng cái khóa ở đằng cuối đầu hồi nom có vẻ mong manh hơn và thực tế chỉ được gắn vào những đầu nhọn sơ sài. Con khỉ, thế mà là tòa nhà của tôi đấy nha. Cô nhìn quanh thấy một ống sắt ở trong đống rác vụn. Cô lấy nó bẩy mở chiếc khóa móc.
Cô vào một lồng cầu thang có một lối cửa vào khu vực tầng trệt. Các cửa sổ bít gỗ dán có nghĩa là bên trong tối như hũ nút, trừ một ít tia sáng lọt qua khe các ván gỗ vào trong. Cô đứng im một lúc cho tới khi mắt quen với bóng tối. Cô nhìn thấy một biển những đồ bỏ đi, những palét gỗ, những bộ phận máy cũ và gỗ ván trong một gian nhà xưởng dài bốn mươi lăm mét, rộng khoảng hai chục mét, có những cây cột đồ sộ đỡ chống. Các lò gạch cũ hình như đã rệu rã, trên sàn ở chỗ của chúng là những vũng nước lớn và những vạt đất mốc meo. Có mùi hôi hám ngai ngái ở tất cả đống đổ nát này. Cô ghê rợn nheo mũi.
Cô quay lại và lên gác. Tầng trên khô ráo gồm hai phòng giống nhau, mỗi phòng khoảng hai mươi nhân hai mươi mét và cao tối thiểu tám mét. Gần trần có những cửa sổ cao không thể ra vào và không cho nhìn thấy bên ngoài nhưng để lọt vào nhiều ánh sáng. Tầng trên nữa, cũng giống xưởng máy tầng trệt đầy đồ bà dằn ba vạ. Có khoảng chục chiếc thùng đựng hàng cao mét tám chất đống lên nhau. Cô nắm lấy một thùng nhưng không xê dịch nổi nó ra được. Chữ trên thùng đề:Các bộ phận máy O-A77 với một hàng chữ Nga ở bên dưới có vẻ mang cái nghĩa tương ứng. Cô để ý thấy một thang máy chở hàng ở lưng chừng phía dưới một bức tường của phòng thứ nhất.
Một nhà kho máy móc gì đó nhưng sẽ khó lòng cho ra thu nhập chừng nào máy móc còn đứng gỉ sét cả ở đây.
Cô đi vào gian phòng bên trong và phát hiện ra đấy là chỗ người ta đã cho sửa chữa. Gian phòng lại ngập ngụa rác rến, thùng hộp và đồ dùng văn phòng để thành một trật tự bát nháo. Một phần sàn lộ ra ở chỗ mới lắp đặt ván. Salander đoán công việc sửa chữa đã bị đột ngột ngừng lại. Các dụng cụ, một bàn cưa ngang và một bàn cưa tròn, súng bắn đinh, xà beng, gậy sắt và những thùng dụng cụ vẫn còn đây. Cô cau mày. Dù công việc bị dừng đột ngột thì các thợ mộc lẽ ra cũng phải thu nhặt hết dụng cụ của họ đi chứ. Nhưng câu hỏi này đã được giải đáp khi cô giơ một tuốc nơ vít ra chỗ sáng và thấy chữ trên cán của nó là tiếng Nga. Zalachenko đã nhập dụng cụ vào và có lẽ cả công nhân.
Cô cho chiếc cưa tròn chạy thì một ánh sáng xanh bật lên. Có điện. Cô tắt máy cưa.
Ở đầu cùng gian phòng là ba cái cửa đưa đến những căn buồng nhỏ hơn, có lẽ ngày trước là các văn phòng. Cô thử tay nắm cánh cửa ở mạn bắc gian phòng. Khóa. Cô quay về đống dụng cụ lấy một xà beng. Cô mất một lúc phá mở cái cửa.
Gian phòng tối như bưng và sặc mùi mốc. Cô lướt tay lên tường, tìm được công tắc điện và bật, một bóng đèn trơ trụi trên trần sáng lên. Salander ngạc nhiên nhìn quanh.
Ðồ đạc trong gian phòng gồm có ba cái giường với đệm vững chắc cùng ba cái đệm khác nữa ở trên sàn. Chăn, khăn rải giường hôi hám vất rải rác xung quanh. Ở bên phải là một dao phay lăn và vài cái bình ở gần một vòi nước han gỉ. Ở một góc là chiếc xô tôn và cuộn giấy vệ sinh.
Ai đó đã sống ở đây. Vài người.
Rồi cô thấy ở mặt bên trong cửa không có tay nắm. Một dòng băng lạnh toát chạy suốt dọc sống lưng cô.
Có một tủ lớn căng bằng vải ở đầu đằng kia gian phòng. Mở nó ra cô thấy hai chiếc vali. Trong một chiếc, ở trên cùng là một ít quần áo. Cô lục tìm, giơ lên một váy dài có nhãn hiệu Nga. Tìm thấy một túi xách tay, cô đổ các thứ ở trong ra sàn. Cô lấy từ trong đống mỹ phẩm và vài ba thứ khác ra một hộ chiếu của một phụ nữ trẻ, tóc đen. Một hộ chiếu Nga, cô đánh vần cái tên thì là Valentina.
Salander từ từ đi ra khỏi gian phòng. Cô có cảm giác déjà vu, đã thấy. Hai năm rưỡi trước cô đã từng làm một kiểu xem xét hiện trường tội phạm giống như thế này ở gian hầm tại Hedeby. Quần áo phụ nữ. Một nhà tù. Cô đứng suy nghĩ ở đó một lúc lâu. Cô thắc mắc sao tấm hộ chiếu và quần áo đã bị để lại. Điều này có vẻ không ổn.
Rồi cô quay lại chỗ dụng cụ, lục lọi cho tới khi tìm thấy một chiếc đèn pin lớn. Cô kiểm tra thấy pin còn tốt rồi xuống gác đi vào gian xưởng máy rộng hơn. Nước trong các vũng ngấm vào ủng cô.
Cô càng đi xa vào xưởng máy, mùi hôi thối của các thứ mục ruỗng càng nồng nặc và khi cô đến giữa xưởng thì hình như nó lên đến cực độ. Cô dừng lại ở gần nền của một trong các lò gạch cũ, nước đã ngập đầy đến mấp mé miệng lò. Cô chiếu đèn vào mặt nước đen thui nhưng không tìm thấy gì cả. Mặt nước bị rong rêu phủ mất một phần trông giống một chất nhớt màu xanh lá cây. Gần đó cô tìm thấy một cây gậy sắt, cô cầm nó thọc vào trong khoảnh nước khoắng quanh. Nước chỉ sâu chừng nửa mét. Gần như ngay lập tức cây gậy bập vào phải một cái gì. Cô lùa cây gậy theo lối đó và rồi mấy giây sau, một xác người nổi lên, bộ mặt trước, một mặt nạ nhăn nhở và thối rữa của chết chóc. Thở bằng miệng, Salander nhìn vào bộ mặt trong luồng ánh sáng đèn pin và thấy đó là một phụ nữ, chắc là người phụ nữ trong tấm ảnh hộ chiếu. Cô không biết gì về tốc độ thối rữa trong nước tù và lạnh, nhưng cái xác có vẻ đã bị ngâm ở đây lâu rồi.
Có cái gì đó động đậy trên mặt nước. Ðại loại một kiểu ấu trùng gì đó.
Cô để cái xác chìm lại vào trong nước rồi chọc dò quanh quẩn thêm bằng cây gậy. Ở rìa khoảnh nước, cô vướng phải một vật gì, có thể là một cái xác nữa. Cô để nó ở đấy, rút cây gậy lên, buông xuống sàn, còn cô thì đứng suy nghĩ ở cạnh khoảnh nước.
o O o
Salander quay về cầu thang. Cô lấy xà beng phá cái cửa ở giữa. Gian phòng trống không.
Cô đi đến cửa cuối cùng, lùa xà beng vào khe nhưng cô chưa kịp dùng sức thì cửa đã mở hé ra. Không khóa. Cô thúc xà beng đẩy nó mở rộng và nhìn quanh.
Gian phòng rộng chừng ba chục mét vuông. Có các cửa sổ ở độ cao bình thường có thể nhìn ra sân ở đằng trước khu nhà gạch. Cô có thể trông thấy trạm xăng OK ở trên đồi. Có một cái giường, bàn và một cái chậu với bát đĩa ở trong. Rồi cô trông thấy một cái túi để mở ở trên sàn. Có tiền giấy ở trong. Ngạc nhiên cô đi lên hai bước, nhận ra hơi ấm và nhìn thấy một máy sưởi điện ở giữa gian phòng. Rồi cô thấy đèn bật đỏ ở máy pha cà phê.
Một người nào đó đang sống ở đây. Không chỉ có mình cô trong tòa nhà.
Quay ngoắt lại cô chạy qua gian phòng bên trong, ra ngoài cửa, đến lối ra ở xưởng máy bên ngoài nữa. Cô dừng sững lại cách lồng giếng cầu thang năm bước thì trông thấy lối ra kia đã đóng lại và móc khóa. Cô bị nhốt ở bên trong. Cô từ từ quay lại nhìn quanh nhưng không có một ai.
– Hello em gái bé bỏng, – từ một chỗ nào đó bên phải cô vọng lên tiếng nói hí hửng.
Cô quay lại để thấy hiện lên từ đằng sau mấy cái thùng chất đồ hình thù đồ sộ của Niedermann.
Trong tay hắn có một con dao to đùng.
– Tao đang hy vọng có duyên gặp lại mày nữa đây, – Niedermann nói. – Lần trước mọi sự xảy ra nhanh quá.
Salander nhìn quanh mình.
– Đừng bận tâm, – Niedermann nói. – Chỉ có tao với mày thôi, và không có lối nào ra trừ cái cửa đã khóa ở đằng sau mày kia thôi.
Salander quay lại nhìn người anh cùng bố khác mẹ.
– Bàn tay sao rồi? – Cô nói.
Niedermann mỉm cười với cô. Hắn giơ bàn tay phải lên cho cô xem. Ngón út hắn cụt.
– Nó bị nhiễm trùng. Tao chặt đi rồi.
Niedermann không cảm thấy đau. Salander đã rạch toang tay hắn ra bằng một mũi giáo ở Gosseberga chỉ mấy giây trước khi hắn bắn vào đầu cô.
– Tao lẽ ra phải nhằm vào sọ mày mới phải, – Salander nói dửng dưng. – Mày làm cái trò khỉ gì ở đây? Tao tưởng mày bỏ nước đi từ mấy tháng trước rồi chứ.
Hắn lại mỉm cười với cô.
o O o
Nếu Niedermarm cố trả lời câu Salander hỏi rằng hắn làm gì ở đây thì chắc hắn cũng không biết giải thích thế nào. Hắn chả giải thích nổi cho ngay cả hắn nữa mà.
Hắn bỏ Gosseberga đi với một cảm giác thoát thân. Hắn đang tính đến chuyện Zalachenko chết rồi thì hắn sẽ tiếp quản công việc làm ăn. Hắn biết hắn giỏi tổ chức.
Hắn thay xe ở Alingsas, cho cô y tá sợ cứng người Anita Kaspersson vào thùng xe rồi lái đến Boras. Hắn không có kế hoạch gì. Ði theo hứng bất chợt. Hắn không nghĩ đến số phận Kaspersson. Cô chết hay sống, hắn dửng dưng. Và hắn cho là hắn buộc phải dứt ra khỏi một nhân chứng phiền phức. Ở đâu đó tại ngoại ô Boras, hắn nảy ý có thể dùng cô theo một cách khác. Hắn rẽ về phía nam, kiếm một khu rừng vắng ở bên ngoài Seglora. Hắn trói cô lại trong một nhà kho rồi quẳng cô ở đó. Hắn nghĩ trong vài giờ đồng hồ cô có thể tìm ra cách cởi được trói và thế là sẽ dẫn dắt cảnh sát xuống tận phía nam săn lùng hắn. Còn nếu không tự sổng ra được thì cô sẽ đói hay rét mà chết trong nhà kho, chuyện ấy không quan trọng, đó không phải là bận tâm của hắn.
Rồi hắn lái quay lại Boras, từ đấy đi về phía đông tới Stockholm. Hắn đã lái thẳng tới Svavelsjo nhưng hắn tránh căn nhà của Câu lạc bộ xe máy. Điều cản trở hắn là Lundin đang bị tù. Thay vì thế hắn đến nhà của người bảo vệ Câu lạc bộ, Hans-Aka Waltari. Hắn nói hắn đang tìm một chỗ để náu mình và Waltari đã chọn cách gửi hắn đến Goransson, người thủ quỹ của câu lạc bộ. Nhưng hắn chỉ ở đấy có vài ba giờ.
Về lý thuyết mà nói, Niedermann không bị rắc rối về tiền. Hắn để lại gần 200.000 krona ở Gosseberga nhưng hắn được quyền sử dụng một khoản tiền lớn hơn đáng kể gửi ở nước ngoài. Vấn đề là hiện tại hắn hết tiền mặt, Goransson phụ trách tài chính của Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo và với Niedermann thì thuyết phục ông ta đưa hắn đến cái tủ cất giữ tiền để ở nhà kho là không có khó gì hết. Niedermann vớ may. Hắn đã có thể tự trợ cấp cho hắn được những 800.000 krona.
Hắn nhớ hình như trong nhà còn có một phụ nữ nhưng hắn không nhớ hắn đã làm gì bà ta.
Goransson cũng cấp cho một chiếc xe mà cảnh sát chưa lùng tìm. Niedermann đi lên phía bắc. Hắn mang máng có một dự định đi đến một trong những bến phà ở Kapellskar để qua đó hắn đến Tallinn.
Đến Kapellskar hắn ngồi nửa giờ ở bãi đỗ xe, nghiên cứu vùng này. Ở đây nhung nhúc cảnh sát.
Hắn lái đi không mục đích. Hắn cần một chỗ có thể náu núp một độ. Khi qua Norrtalje hắn nhớ đến khu nhà gạch cũ. Ðã hơn một năm, từ khi chỗ này còn đang sửa chữa, hắn không hề nghĩ đến nó. Anh em nhà Harry và Atho Ranta đang dùng khu nhà gạch làm kho chứa các hàng hóa qua lại các cảng biển Baltic thì đã ra ngoài nước mấy tuần, từ khi tay nhà báo Svensson bắt đầu chõ mũi vào việc kinh doanh gái điếm. Khu nhà gạch sẽ vắng tanh.
Hắn lái chiếc Saab của Goransson vào một cái lán ở sau xưởng máy, đi vào trong. Hắn đã phải phá mở một cánh cửa ở tầng trệt và một trong những việc đầu tiên hắn làm là tạo ra một lối thoát khẩn cấp qua một khung gỗ dán lỏng lẻo ở một đầu của tầng trệt. Sau đó hắn thay chiếc khóa móc bị phá gẫy. Rồi hắn biến một gian phòng tử tế ở tầng trên cùng trở thành nơi hắn sống như ở nhà.
Cả một buổi chiều qua đi, rồi thì hắn nghe thấy những tiếng động vọng qua các bức tường. Thoạt tiên hắn ngờ đó là những con ma quen thuộc của hắn. Hắn ngồi cảnh giác nghe ngóng gần một giờ đồng hồ rồi đứng lên đi ra xưởng máy để nghe gần hơn. Thoạt tiên hắn không nghe thấy gì nhưng hắn kiên nhẫn đứng ở đó cho đến khi nghe thấy nhiều tiếng cạo nạy hơn.
Hắn tìm chiếc chìa khóa ở gần bồn rửa.
Hiếm khi Niedermann ngạc nhiên như lúc hắn mở cửa và thấy hai cô gái điếm Nga. Họ chỉ còn xương với da. Hình như hàng tuần nay họ không có gì ăn, toàn sống bằng trà và nước kể từ khi bịch gạo cuối cùng đã cạn.
Một cô kiệt quệ đến nỗi không ra được khỏi giường. Cô kia khá hơn. Cô chỉ nói tiếng Nga nhưng hắn biết tiếng này đủ để hiểu được rằng cô ấy đang cảm tạ Chúa và hắn đã đến cứu họ. Cô quỳ xuống, quàng hai tay ôm lấy chân hắn. Hắn đẩy cô ra rồi rời gian phòng, khóa trái cửa lại.
Hắn không biết làm gì với các cô điếm. Hắn hâm nóng cho họ một ít xúp ở các lon hắn tìm thấy trong bếp trong khi hắn suy nghĩ. Cô yếu hơn ở trên giường có vẻ lấy lại được đôi chút sức khỏe. Hắn bỏ buổi tối ra hỏi họ. Một lúc hắn mới nhận ra họ không hề là gái điếm mà là sinh viên đã trả tiền cho anh em nhà Ranta để chúng đưa họ đến Thụy Ðiển. Họ được bọn này hứa có thị thực, có giấy phép lao động. Hồi tháng Hai họ từ Kapellskar đến đây và được đưa thẳng vào nhà kho rồi bị nhốt chặt lại.
Niedermann tức tím mặt lại. Anh em thằng Ranta chó má kiếm được thêm thu nhập mà không báo cáo với Zalachenko. Rồi chúng quên phắt mất hai người phụ nữ hay có thể là khi vội vã chạy trốn khỏi Thụy Ðiển chúng đã cố ý vất họ lại với số phận họ.
Vấn đề là: hắn làm gì với họ đây? Hắn chả có lý do nào làm khổ họ nhưng thực sự hắn cũng không thể để cho họ ra đi, nghĩ đến chuyện chắc chắn họ sẽ đưa cảnh sát đến khu nhà gạch. Ðơn giản là thế thôi. Hắn không thể đưa họ về lại Nga, vì như thế có nghĩa là hắn sẽ phải lái cho họ đi xuống Kapellskar. Việc này có vẻ quá khó. Người phụ nữ tóc sẫm màu, tên Valentina, mời hắn ngủ nếu hắn giúp đỡ họ. Hắn không phải không thiết đến chuyện ăn nằm với đàn bà nhưng cô gái mời hắn thì đã biến mình ra thành gái điếm mất rồi. Tất cả phụ nữ đều là gái điếm. Ðơn giản như thế đấy.
Sau ba ngày thì hắn mệt với những lời cầu xin, những câu mè nheo và những tiếng đập cửa không dứt của họ. Hắn không nhìn thấy lối ra nào khác hơn. Nên hắn mở khóa cửa và giải quyết chóng vánh vấn đề một lần cho dứt điểm. Hắn xin Valentina tha thứ rồi vươn tay ra ngoéo một cái bẻ gẫy cổ của cô ở giữa đốt xương cổ thứ hai và thứ ba. Ðoạn hắn đến chỗ cô gái tóc vàng ở trên giường mà hắn không biết tên. Cô nằm đó bị động, không có chút chống đỡ nào. Hắn mang hai cái xác xuống gác, thả vào trong một cái hố ngập nước. Cuối cùng hắn cảm thấy thư thái đôi phần.
o O o
Niedermann không có ý ở lại khu nhà gạch lâu. Hắn nghĩ hắn chỉ nằm im mai phục cho tới khi nào cuộc săn lùng của cảnh sát lắng đi. Hắn cạo đầu, để râu dài đến bốn phân và như vậy hình dạng hắn đã thay đổi. Hắn tìm thấy một bộ áo liền quần của một trong những người thợ của công ty Norrbygg, đủ rộng để vừa với hắn. Hắn đội một mũ lưỡi trai đánh bóng chày của đội Sơn Becker và nhét vào túi quần một chiếc thước cuộn. Tảng sáng hắn lái xe ra cửa hàng OK ở trên đồi mua thức ăn, vật dụng. Hắn có toàn bộ tiền mặt mà hắn cần do lấy được ở con heo đất cất tiền của Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo. Hắn nom giống bất kỳ người lao động nào dừng lại trên đường về nhà và hình như chả có ai để ý đến hắn. Một tuần hắn mua sắm hai lần vào đúng giờ giấc ở trong ngày. Ở cửa hàng OK, lúc nào họ cũng hết sức thân thiện với hắn.
Ngay từ ngày đầu tiên hắn đã phải bỏ rất nhiều thời gian ra xua đuổi những con côn trùng trú trong tòa nhà. Chúng sống ở trong tường và ban đêm lại chui ra. Hắn nghe được chúng nhốn nháo chạy trong xưởng máy.
Hắn giam mình lại ở trong phòng. Ðược mấy ngày hắn không chịu nổi nữa. Cầm một con dao to tìm thấy ở trong bếp, hắn đi ra ngoài đối đầu với bọn quái vật. Việc này phải chấm dứt.
Thình lình hắn phát hiện ra rằng chúng đang tháo lui. Lần đầu tiên trong đời hắn đã có thể chế ngự được những con ma của hắn. Chúng chùng lại về đằng sau khi hắn đến gần. Hắn có thể trông thấy những cái thân bị biến dạng và những cái đuôi ngó ngoáy của chúng ở sau các thùng đựng đồ và các cái tủ con. Hắn gầm gào với chúng. Chúng chạy.
Nhẹ người, hắn trở về gian phòng ấm cúng, ngồi suốt đêm, chờ chúng quay lại. Mờ sáng chúng mở cuộc tấn công thứ hai và hắn lại đương đầu với chúng để đuổi chúng một lần nữa. Chúng chạy.
Hắn chòng chành giữa hoảng sợ và hưng phấn.
Suốt đời, hắn đã bị những con vật này ám ảnh trong đêm tối và lần đầu tiên hắn cảm thấy hắn đang kiểm soát được tình hình. Hắn không làm gì. Hắn ngủ. Hắn ăn. Hắn nghĩ. Yên bình.
o O o
Ngày quay sang tuần, xuân quay sang hè. Qua chiếc radio bán dẫn của hắn và các báo chiều, hắn có thể nói cuộc săn đuổi tên giết người Ronald Niedermann đang đến hồi kết thúc. Hắn thích thú đọc các tường thuật về vụ giết Zalachenko.Buồn cười thật. Đời Zalachenko ra lại bị một lão điên kết liễu cơ chứ lại. Tháng Bảy niềm thích thú của hắn càng tăng lên khi theo dõi các tường thuật về phiên tòa xét xử Salander. Hắn hoảng hồn khi cô được tha bổng. Nghe như không phải.Con ranh tự do trong khi ta thì buộc phải lẩn trốn kìa.
Hắn mua số đặc biệt Millennium ở cửa hàng OK, đọc hết về Salander và Zalachenko và Niedermann. Một tay nhà báo tên Blomkvist đã mô tả Niedermann như một tên sát nhân bệnh hoạn và một kẻ tâm thần. Hắn nhăn mặt.
Mùa thu thình lình đến và hắn vẫn chưa động đậy gì. Khi trời lạnh hơn hắn mua một lò sưởi điện ở cửa hàng OK. Hắn không biết cái gì giữ hắn không rời khu nhà gạch.
Thỉnh thoảng vài ba thanh niên lái vào trong sân bãi, để xe ở đấy nhưng không ai quấy rầy hắn hay thử xông vào tòa nhà. Tháng Chín, một chiếc xe đi đến, một người đàn ông mặc một áo gió xanh lam đã thử mở cửa và dò xét quanh khu bất động sản. Niedermann theo dõi ông ta qua cửa sổ ở tầng trên cùng. Người đàn ông ghi chép miết vào một quyển sổ tay. Ông ta đứng ở đó chừng hai mươi phút, nhìn quanh một lần cuối cùng rồi lên xe lái đi. Niedermann thở phào. Hắn không biết người đàn ông là ai cũng như việc gì kéo ông ta đến đây, nhưng xem vẻ ông ta đang để mắt trông coi tới bất động sản. Niedermann không hề nghĩ rằng việc Zalachenko chết đã thúc đẩy người ta kiểm kê dinh cơ bất động sản này.
Hắn nghĩ nhiều đến Salander. Hắn không bao giờ trông chờ còn gặp lại cô nữa nhưng cô vừa hấp dẫn lại vừa đe đọa hắn. Hắn không từng sợ qua một người sống nào. Nhưng em gái hắn – em cùng bố khác mẹ – đã gây một ấn tượng đặc biệt với hắn. Không ai từng đánh bại được hắn như cách của cô em này. Cô quay về với đời mặc dù hắn đã vùi cô xuống đất. Cô đã quay lại và săn lùng hắn. Hắn mơ thấy cô hằng đêm. Hắn sẽ toát mồ hôi mà tỉnh dậy, hắn thừa nhận rằng cô đã thay thế các bóng ma quen thuộc của hắn.
Tháng Mười một hắn quyết định. Chưa tìm ra và thủ tiêu cô em gái thì hắn sẽ chưa rời Thụy Ðiển. Hắn không có kế hoạch nhưng ít nhất bây giờ đời hắn đã có một mục tiêu. Hắn không biết cô ở đâu hay làm sao dò ra lõng của cô. Ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, hắn cứ ngồi ở trong phòng trên tầng thượng của khu nhà gạch nhìn ra ngoài cửa sổ.
Cho tới một hôm một chiếc Honda màu mận chín đỗ ở bên ngoài tòa nhà và hắn kinh ngạc vô cùng thấy Salander xuống xe. Chúa nhân từ, hắn nghĩ. Salander sẽ nhập bọn với hai người phụ nữ hắn không nhớ tên nằm ở trong hố nước dưới nhà. Hắn sẽ thôi phải chờ với đợi và cuối cùng hắn có thể sống tiếp cuộc đời của hắn.
o O o
Salander đánh giá tình hình và thấy rằng không thể kiểm soát được nó. Não cô hoạt động cực nhanh. Click, click, click. Tay cô vẫn cầm chiếc xà beng nhưng cô biết nó chỉ là một vũ khí yếu ớt so với một người không có cảm giác đau đớn. Cô bị nhốt trong một khu vực chừng một nghìn mét vuông với một con robot giết người vừa ở dưới địa ngục lên.
Khi Niedermann bất ngờ xô đến, cô vung xà beng về phía hắn. Hắn né như bỡn. Salander di chuyển nhanh. Cô bước lên một tấm palét, quăng mình lên trên một thùng đựng đồ và cứ thế, như một con khỉ, trèo thêm hai thùng nữa. Cô dừng lại, nhìn xuống Niedermann bây giờ ở dưới cô bốn mét. Hắn nhìn lên cô chờ.
– Xuống đi, – hắn kiên nhẫn nói. – Mày không thoát được đâu. Mày không tránh được bước đường cùng đâu mà.
Cô nghĩ liệu hắn có súng hay cái gì đại loại không. Nay chuyện này sẽ thành vấn đề đây.
Hắn cúi xuống nhặt một chiếc ghế ném cô. Cô né người.
Niedermann cáu. Hắn đặt chân lên tấm palét, bắt đầu leo lên theo cô. Cô chờ hắn lên gần lên tới đỉnh mới vùng chạy nhanh hai bước và nhảy qua một ngăn trống giữa hai dẫy thùng rồi buông mình xuống nắp một cái thùng khác. Cô quăng mình xuống sàn nắm lấy cây xà beng.
Niedermann không đến nỗi vụng về, nhưng hắn biết hắn không thể nhảy đại từ trên đống thùng xuống, bàn chân hắn có cơ bị gẫy một cái xương nào đó. Hắn phải tụt cẩn thận xuống rồi đặt chân lên sàn. Hắn cứ luôn phải di chuyển từ từ, ngay ngắn, trong đời hắn đã phải bỏ công ra tập sai khiến cơ thể mình. Ðã sắp xuống đến sàn thì hắn nghe thấy tiếng chân ở đằng sau. Hắn vừa kịp quay lại đúng lúc để giơ vai ra đỡ lấy cú xà beng. Con dao tuột khỏi tay hắn.
Salander ném xà beng đi ngay sau khi đánh. Không có thì giờ nhặt con dao, cô đá nó ra xa hắn, dọc theo các tấm palét, tránh một quả đấm ngược chiều từ bàn tay đồ sộ của hắn rồi lui lại lên đống thùng đựng đồ ở bên kia ngăn trống giữa hai dẫy thùng. Cô liếc thấy Niedermann rượt theo. Nhanh như chớp cô co hai chân lên. Các thùng xếp thành hai dẫy, chồng lên nhau cao tới ba mét ở đoạn giữa của khoảng trống và hai mét cao ở ngoài rìa. Cô quăng mình xuống hai cái thùng rồi hãm đà lại, lấy hết sức tì lên hai chân, đưa lưng ra đẩy cái thùng ở ngay cạnh cô. Nó phải nặng đến hai trăm kí. Cô cảm thấy nó bắt đầu lung lay và rồi đổ kềnh xuống đoạn giữa của ngăn trống giữa hai dãy thùng.
Thấy cái thùng đổ, Niedermann quăng mình sang một bên. Một góc thùng đập vào ngực hắn. Nhưng có vẻ hắn không bị thương. Hắn tự đứng lên. Con ranh chống lại đây. Hắn bắt đầu leo theo cô. Ðầu hắn vừa nhô lên khỏi cái thùng thứ ba thì cô đá hắn. Ủng cô giáng hết sức mạnh vào trán hắn. Hắn làu nhàu và gắng sức leo lên nóc đống thùng đựng đồ. Salander chạy, nhảy trở lại lên các cái thùng ở dãy bên kia. Ðến cuối dãy cô buông mình xuống và lập tức mất hút khỏi mắt hắn. Hắn có thể nghe thấy tiếng chân cô và thoáng thấy cô chạy qua khung cửa vào xưởng máy bên trong nữa.
o O o
Salander nhìn đánh giá địa thế. Click. Cô biết cô không có cơ hội. Cô có thể sống sót nếu tránh được quả đấm đồ sộ của hắn và ở xa hắn. Còn nếu cô phạm sai lầm – sớm muộn sẽ xảy ra thôi – thì cô chết. Cô phải thoát khỏi hắn. Chỉ cần hắn túm được cô là trận đấu xong.
Cô cần vũ khí.
Súng lục. Tiểu liên. Súng phóng lựu đạn. Mìn cá nhân.
Bất cứ thứ gì làm đổ máu.
Nhưng ở trong tay cô lại không có thứ nào như thế cả.
Cô nhìn khắp nơi.
Không có vũ khí.
Toàn là dụng cụ. Click. Mắt cô đặt vào một cái cưa đĩa nhưng hắn sẽ khó lòng mà chịu bề nằm xuống bàn cưa. Click. Click. Cô thấy một gậy sắt mà cô có thể dùng như một mũi mác nhưng nó lại quá nặng, cô khó mà sử dụng hiệu quả được. Click. Cô liếc qua cửa thấy Niedermann đang tụt từ trên đống thùng xuống và chỉ còn cách cô không quá mười lăm mét. Hắn lại đang đi đến cô. Cô bắt đầu dịch ra khỏi cửa. Có lẽ còn năm giây nữa thì Niedermann đến sát cô. Cô liếc một lần nữa vào các dụng cụ.
Một vũ khí… hay một chỗ nấp.
o O o
Niedermann không gấp. Hắn biết không có đường ra và sớm muộn hắn cũng bắt được đứa em gái. Nhưng nó là đứa nguy hiểm, chuyện ấy chả còn phải ngờ. Dẫu gì nó cũng là con của Zalachenko. Và hắn không thích bị thương. Tốt nhất là cứ để nó chạy quanh mà tự làm cho nó kiệt sức.
Hắn dừng lại ở khung cửa vào gian phòng trong, nhìn khắp lượt đống dụng cụ, bàn ghế và các ván sàn đang làm dở. Không thấy con bé ở đâu.
– Tao biết mày ở đây. Tao sắp tìm ra mày rồi.
Niedermann đứng im nghe. Hắn chỉ nghe thấy tiếng hắn thở. Con ranh đang nấp. Hắn mỉm cười. Con ranh lại thách thức hắn. Con ranh đến thăm thì hóa ra lại thành một trò chơi giữa anh với em.
Rồi hắn nghe thấy tiếng sột soạt là lạ ở đâu đó tại giữa gian phòng. Hắn quay đầu lại nhưng thoạt tiên hắn chưa thể nói được là tiếng động từ đâu đến. Rồi hắn lại mỉm cười. Ở giữa sàn, hơi cách xa các vật đổ nát khác là một mặt bàn máy bằng gỗ dài năm mét với một dãy ngăn kéo và các cửa trượt của cái tủ ở bên dưới đó.
Hắn đến gần mặt bàn máy từ bên cạnh và liếc ra đằng sau bàn để cầm chắc là cô không có ý định lừa hắn. Không có gì ở đó cả.
Con ranh nấp trong tủ này. Quá ngu.
Hắn cho trượt cái cánh cửa tủ ở đầu bên trái.
Hắn lập tức nghe thấy tiếng động đậy trong tủ, ở khúc giữa. Hắn nhào nhanh hai bước tới, mặt đầy vẻ đắc thắng mở toang cánh cửa giữa ra.
Rỗng không.
Rồi hắn nghe thấy một loạt tiếng tằng tằng sắc nhọn giống như tiếng súng lục bắn. Tiếng động gần quá đến nỗi thoạt tiên hắn không thể nói là nó đến từ đâu. Hắn quay lại nhìn. Rồi hắn thấy bàn chân trái hắn bị một cái gì là lạ đè lên. Hắn không thấy đau nhưng nhìn xuống sàn thì vừa đúng lúc ấy hắn trông thấy bàn tay Salander đưa khẩu súng bắn đinh vào bàn chân phải hắn.
Con ranh ở dưới gầm tủ.
Hắn đứng như tê liệt một vài giây, trong khi cô dí mũi súng vào giầy hắn rồi nã thẳng cho một loạt năm phát đinh hai mươi phân nữa vào bàn chân phải hắn.
Hắn cố bước đi.
Phải mất vài giây hắn mới nhận ra là chân hắn đã bị đinh đóng ngập cứng vào sàn gỗ mới tân trang. Bàn tay Salander lại dịch sang bàn chân trái hắn. Nghe giống như súng tự động phát nổ. Cô cẩn thận bắn thêm bốn đinh nữa để gia cố, phòng xa hắn có thể phản ứng.
Hắn với xuống để tóm lấy tay cô nhưng lập tức mất thăng bằng, hắn phải bám vào mặt bàn máy trong khi nghe cây súng bắn đinh nổ plắp, plắp, plắp. Cô đang lui trở về chân phải hắn. Hắn nhìn thấy cô bắn đinh theo đường chéo góc xuyên qua gót hắn vào sàn.
Thình lình nổi điên, Niedermann tru lên. Hắn lại toan nhào xuống túm lấy tay Salander.
Ớ dưới gầm tủ, Salander thấy ống quần hắn kéo lên thì biết hắn đang cố cúi xuống. Cô để tuột khẩu súng đinh. Chưa kịp với tới cô, Niedermann đã thấy tay cô biến mất vào dưới gầm tủ nhanh như một con thằn lằn.
Hắn với lấy khẩu súng đinh nhưng đầu ngón tay hắn vừa chạm vào nó thì cô đã kéo nó vào gầm tủ.
Khe hở giữa đáy tủ và sàn nhà khoảng chừng hai chục phân. Hắn cố dồn hết sức lật đổ kềnh cái tủ ra. Vẻ như bị xúc phạm, Salander trợn mắt nhìn hắn. Cô giơ súng nhằm bắn ở khoảng cách nửa mét. Cái đinh trúng vào giữa cẳng chân hắn.
Liền sau đó cô quăng súng lăn nhanh như chớp ra xa hắn và đứng lên không cho hắn túm được. Lùi về sau chừng một mét cô dừng lại.
Niedermann định dịch chân đi thì lại mất thăng bằng, người đung đưa trước sau, hai tay vùng vẫy. Cố giữ cho khỏi ngã, hắn điên lên cúi xuống.
Lần này hắn đã xoay xở nắm được khẩu súng. Hắn chĩa nó vào Salander bóp cò.
Không nổ. Hắn ngán ngẩm nhìn khẩu súng rồi Salander. Cô thản nhiên nhìn lại hắn, giơ cái ổ cắm điện lên. Hắn nổi khùng ném cây súng vào cô. Cô tránh sang bên.
Rồi cô lại cắm vào ổ điện, thu khẩu súng về.
Nhìn phải đôi mắt dửng dưng như không của Salander, hắn hết sức kinh hoàng. Con bé đã đánh bại hắn. Con bé này siêu nhiên. Theo bản năng hắn thử nhấc một bàn chân lên khỏi sàn. Con này đúng là quái vật. Hắn mới chỉ nâng bàn chân lên được vài li thì ủng của hắn đã mắc kẹt vào các đầu đinh. Ðinh đã bắn vào hai chân hắn ở nhiều góc khác nhau, muốn được tự do thì hắn sẽ phải rạch chân hắn cho nát ra tơi tả. Ngay với sức mạnh gần như siêu nhân của mình hắn cũng không thể rút lỏng giầy ra được. Hắn đung đưa người trước sau một lúc như thể đang bơi. Hắn nhìn thấy từ từ hiện ra một vũng máu ở giữa hai chiếc giầy của hắn.
Salander ngồi lên một chiếc ghế đẩu chờ dấu hiệu hắn có thể xé toạc được chân hắn cho tuột ra. Vì hắn không có cảm giác đau đớn nên đây chỉ là vấn đề liệu hắn có đủ sức khỏe để rút thẳng các đầu đinh ra khỏi chân hắn hay không thôi. Cô ngồi im như tượng quan sát hắn vật vã trong mười phút. Trong tất cả thời gian đó, mắt cô lạnh băng vô hồn.
Lát sau cô đứng lên đi ra sau lưng hắn, để khẩu súng bắn đinh vào xương sống hắn, ngay ở dưới gáy.
Salander nghĩ lung. Với phụ nữ, con người này đã chuyên chở, đã cho dùng ma túy và đã bán buôn bán lẻ họ. Hắn ít nhất cũng đã giết tám người, kể cả một cảnh sát ở Gosseberga và một thành viên của Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo cùng vợ ông ta. Cô không biết trong trương mục giết người của đứa anh khác mẹ này còn có bao nhiêu nhân mạng khác nữa, và nếu không phải do hắn cố tình thì cũng là vì hắn mà cô đã bị săn lùng khắp đất nước Thụy Ðiển như một con chó dại, nghi can của ba vụ giết người do chính hắn gây nên.
Ngón tay cô đè nặng lên cò súng.
Hắn đã giết nhà báo Dag Svensson và Mia Johansson, bạn cộng tác của anh.
Hắn đã cùng với Zalachenko giết cô rồi vùi cô xuống đất đen ở Gosseberga. Và bây giờ hắn lại nhoi ra để giết cô một lần nữa.
Không cần phải bị khiêu khích nhiều đến thế, người ta cũng đã đủ nổi điên lên rồi.
Cô không thấy lý do nào để cho hắn sống lâu thêm. Hắn thù ghét cô với một đam mê mà cô không thể lường. Nếu cô trao hắn cho cảnh sát thì chuyện gì sẽ xảy ra? Tòa sẽ xử? Tù chung thân? Khi nào thì hắn được hưởng ân xá? Hắn sẽ vượt ngục sớm chừng nào? Và nay cuối cùng khi bố hắn đã rồi đời – thì cô sẽ còn cứ phải ngoái đầu lại đằng sau trong bao nhiêu năm nữa chờ cái ngày đứa anh của cô lại hiện ra? Cô nhâng nhấc xem trọng lượng khẩu súng trong tay. Cô có thể kết thúc cái đồ này một lần cho xong mãi mãi.
Ước lượng nguy cơ.
Cô cắn môi.
Salander không sợ bất kỳ ai và bất kỳ cái gì. Cô nhận thấy mình đúng là chỉ thiếu có óc tưởng tượng cần thiết – và cái này cũng đã đủ là bằng chứng rằng đầu óc cô chẳng hề có gì bất ổn.
Niedermann thù ghét cô và cô đáp trả lại hắn bằng một thù ghét lì lợm tương đương. Hắn gia nhập hàng ngũ những người như Magge Lundin, Martin Vanger và Zalachenko và hàng chục những quân rắn rết sâu bọ khác mà theo đánh giá của cô thì tuyệt đối không được phép đòi tồn tại chung với nhân quần. Nếu cô đưa được chúng đến một hòn đảo – rồi thả một quả bom nguyên tử xuống thì cô sẽ hài lòng.
Nhưng giết? Có đáng thế không? Nếu cô giết hắn thì chuyện gì sẽ xảy ra với cô? Cô tránh được bị phát hiện là đã nhờ vào những sự màu nhiệm nào? Cô sẽ sẵn sàng hy sinh cái gì để được bắn lần cuối cùng khẩu súng bắn đinh cho hả lòng hả dạ?
Cô có thể nói là mình tự vệ…, nói thế sao được khi mà hai chân hắn bị đóng đinh xuống sàn gỗ như thế kia.
Cô thình lình nghĩ đến Harriet Vanger Ẩm ương, người cũng bị bố và anh trai tra tấn hành hạ. Cô nhớ lần Mikael Blomkvist Ba láp chuyện trò với cô và cô đã rủa Harriet Vanger bằng những lời lẽ cay nghiệt nhất cô có thể nghĩ ra. Chính là tại lỗi của Harriet Vanger mà Martin Vanger, anh chị ấy mới được phép giết phụ nữ năm này qua năm khác.
– Em sẽ làm gì…? – Blomkvist đã hỏi.
– Em giết luôn thằng khốn nạn. – Cô nói, đinh ninh câu này nó đến từ thẳm sâu tâm hồn lạnh ngắt của mình.
Và bây giờ cô đang đứng ở đúng cái vị trí Harriet từng đứng ngày nào. Nếu cô để Niedermann đi thì hắn sẽ còn giết bao nhiêu phụ nữ khác nữa? Cô có quyền hợp pháp của một công dân và cô chịu trách nhiệm về mặt xã hội với các hành động của bản thân. Cô đã muốn hy sinh bao nhiêu năm tháng của đời mình? Harriet Vanger đã nguyện hy sinh bao nhiêu năm tháng?
o O o
Thình lình cô cảm thấy khẩu súng quá nặng, cô không thể cầm chĩa vào sống lưng hắn, dù bằng cả hai tay.
Cô hạ súng xuống, cảm thấy mình quay về lại với thực tại. Cô nhận ra Niedermann đang lầm rầm một cái gì đó không mạch lạc. Hắn đang nói tiếng Ðức. Hắn đang nói đến một con quỷ tới bắt hắn.
Cô biết hắn không nói với cô. Có vẻ hắn nhìn thấy một ai đó ở đằng cuối gian phòng. Cô quay lại nhìn theo mắt hắn. Không có gì cả. Cô cảm thấy tóc gáy dựng ngược lên.
Cô quay gót, nắm lấy cây gậy sắt, đi đến gian phòng ngoài để tìm túi khoác vai của mình. Khi cúi xuống nhặt nó cô trông thấy con dao. Vẫn còn đi găng, cô cầm con dao lên.
Do dự một lúc, cô đặt con dao lù lù xuống ở ngay lưng chừng ngăn trống giữa hai chồng thùng đựng hàng. Cô mất ba phút lấy cây gậy sắt nậy lỏng chiếc khóa móc để đi ra ngoài.
o O o
Cô ngồi ở trên xe nghĩ hồi lâu. Cuối cùng cô mở điện thoại di động. Cô mất hai phút để tìm ra số điện thoại của trụ sở Câu lạc bộ xe máy Svavelsjo.
– Hả?
– Nieminen, – Cô nói.
– Chờ.
Cô chờ ba phút thì Sonny Nieminen đến cầm điện thoại.
– Ai đấy?
– Không dính gì đến công việc làm ăn bẩn thỉu của anh, – Salander nói khẽ để cho hắn chỉ có thể nhận ra lời. Hắn không thể xác định người ở đầu kia là đàn ông hay đàn bà.
– Được, vậy anh muốn gì?
– Có muốn được mách tin về Niedermann không?
– Tôi ấy ư?
– Đừng có mà giấu tôi. Có muốn biết hắn ở đâu không thì bảo đây?
– Thì tôi đang nghe đây mà.
Salander chỉ cho hắn lối đi đến khu nhà gạch ở ngoài Norrtalje. Cô nói Niedermann sẽ ở đấy đủ lâu để cho Nieminen tìm được hắn nếu gấp gáp lên.
Cô tắt di động, khởi động xe, lái đến trạm xăng OK ở bên kia đường. Cô đỗ xe sao cho có thể nhìn thấy rõ dãy nhà gạch.
Cô phải chờ hơn hai giờ đồng hồ. Ðúng 1 rưỡi chiều thì cô thấy một xe van từ từ qua đường ở bên dưới cô. Nó đỗ lại ở chỗ quẹo khỏi đường cái, dừng lại chừng năm phút rồi lái xuống khu nhà gạch. Ngày tháng Chạp, trời đã bắt đầu nhá nhem.
Khi chiếc van đỗ lại, cô mở ngăn đựng găng tay, lấy một ống nhòm hai mắt Minolta 16×50 ra theo dõi. Cô thấy Nieminen và Waltari cùng với ba người mà cô không nhận ra. Máu mới. Chúng đang xây dựng lại hoạt động.
Lúc Nieminen và đồng bọn đã tìm ra chỗ cửa mở ở đằng cuối tòa nhà, cô lại mở điện thoại di động. Cô viết một tin nhắn gửi tới đồn cảnh sát ở Norrtalje.
KẺ GIẾT CẢNH SÁT, RONALD NlEDERMANN, Ở TRONG KHU NHÀ GẠCH GẦN TRẠM XĂNG OK, BÊN NGOÀI SKEDERlD. SẮP BỊ S. NIEMINEN VÀ CÁC THÀNH VIÊN CỦA CÂU LẠC BỘ XE MÁY SVAVELSJO GIẾT. HAI PHỤ NỮ CHẾT Ở TRONG HỐ NUỚC TẦNG TRỆT.
Cô không thấy động tĩnh gì trong xưởng máy. Cô chờ lúc xảy ra chuyện.
Trong lúc chờ, cô bỏ thẻ SIM trong điện thoại ra, cắt vụn bằng chiếc kéo cắt móng tay rồi ném đi. Rồi cô lấy một thẻ SIM mới ở trong ví cho vào máy di động. Cô đang dùng thẻ Comviq trả tiền ngay, thế này không để lộ tung tích người dùng. Cô gọi Comviq và ghi trả 500 krona cho chiếc thẻ mới.
Tin nhắn của cô gửi đi được mười một phút thì hai chiếc xe cảnh sát tắt còi rú nhưng bật đèn xanh nhấp nháy từ Norrtalje phóng nhanh đến nhà máy. Họ đỗ trong sân bãi cạnh chiếc van của Nieminen. Một phút sau, hai xe tuần tra đến. Các sĩ quan hội ý rồi đi đến khu nhà gạch. Salander nâng ống nhòm lên. Cô thấy một cảnh sát đọc biển đăng ký chiếc van của Nieminen qua bộ đàm. Các sĩ quan đứng chờ xung quanh. Salander theo dõi trong khi một toán cảnh sát nữa đến rất nhanh sau đó hai phút.
Cuối cùng mọi sự đều xong.
Câu chuyện bắt đầu từ hôm Salander ra đời đã kết thúc ở khu nhà gạch này.
Cô đã tự do.
Khi các sĩ quan cảnh sát lấy súng xung phong từ trong xe ra, mặc áo chống đạn và xòe thành đội hình cánh cung vây lấy địa điểm nhà máy, Salander vào nhà hàng mua một cốc cà phê và bánh sandwich bọc trong giấy kính. Cô đứng ăn ở quầy trong quán cà phê.
Lúc cô ra xe thì trời đã tối. Ðúng lúc cô mở cửa xe thì nghe thấy những tiếng nổ xa xa ở phía bên kia đường mà cô cho là tiếng súng cầm tay. Cô thấy mấy bộ mặt đen nhẻm, chắc của cảnh sát, áp vào tường gần lối vào ở một đầu tòa nhà. Cô nghe thấy còi rú khi một chiếc xe tuần tra khác từ phía Uppsala đi đến. Vài xe hơi dừng lại ở rìa đường bên dưới cô theo dõi vở kịch.
Cô nổ máy chiếc Honda, quay lên xa lộ E18 lái về nhà.
o O o
7 giờ tối hôm ấy, Salander rất ngán ngẩm nghe thấy chuông cửa réo. Cô đang tắm và nước vẫn còn bốc hơi. Thực sự chỉ mỗi một người là có thể đứng trước cửa nhà cô mà thôi.
Ban đầu cô nghĩ lờ đi nhưng đến hồi chuông thứ ba thì cô thở dài, ra khỏi bồn tắm, quấn khăn tắm vào người. Môi dưới mím lại, cô kéo lê nước thành vệt xuống sàn gian sảnh. Cô mở hé của.
– Chào, – Blomkvist nói.
Cô không trả lời.
– Em có nghe tin chiều không?
Cô lắc.
– Anh nghĩ chắc em muốn biết là Ronald Niedermann đã chết. Hôm nay hắn bị một băng nhóm trong bọn xe máy Svavelsjo giết ở Norrtalje.
– Thật ư? – Salander nói.
– Anh đã nói chuyện với sĩ quan cảnh sát trực ở Norrtalje. Hình như là chuyện nội bộ tranh giành nhau. Niedermann rõ ràng đã bị tra tấn và mổ bụng bằng một con dao. Họ tìm thấy một cái túi đựng mấy trăm nghìn krona ở nhà máy đó.
– Ôi trời.
– Băng nhóm Svavelsjo đã bị bắt, nhưng chúng đã đánh trả ra trò. Hai bên bắn nhau và cảnh sát đã phải cho thêm quân từ Stockholm đến. 6 giờ thì đám bị vây đã hàng.
– Như vậy à?
– Bạn cũ Sonny Nieminen của em thảm bại. Hắn hoàn toàn như phát điên phát rồ, cứ cố nổ súng tìm lối thoát.
– Thế thì hay.
Blomkvist đứng im lặng. Họ nhìn nhau qua khe cửa hé.
– Anh có làm chuyện gì bị ngừng giữa chừng không đấy? – Anh nói.
Cô nhún vai.
– Tôi đang trong bồn tắm.
– Trông thì cũng thấy. Em có muốn có người ở bên không?
Cô gay gắt nhìn anh.
– Anh không nói là ở bên trong bồn tắm. Anh có mang đến mấy cái túi, – anh nói, giơ một túi lên. – Và một ít cà phê espresso. Vì em có một máy pha cà phê Espresso Jura Impressa X7 thì ít nhất cũng nên học cách dùng nó đi thôi.
Cô nhướng lông mày. Cô không biết là mình đang khó chịu hay thênh thang nữa.
– Chỉ ở bên thôi đấy chứ?
– Chỉ ở bên, – anh khẳng định. – Ðây là một người bạn tốt tới thăm một người bạn tốt. Tức là nói giả dụ như anh được hoan nghênh.
Cô ngập ngừng. Hai năm nay cô cố hết sức giữ cho mình xa lánh Mikael Blomkvist. Nhưng hoặc trên máy tính hoặc trong đời thực, anh cứ dính bết lấy cô y như miếng kẹo cao su bám chết lấy đế giầy. Trên máy tính thì OK. Ở đó anh không là gì hơn ngoài những bức thư điện tử và lời nhắn. Trong đời thật, đứng trên ngưỡng cửa nhà cô, anh vẫn cứ là cái của nợ hấp dẫn kia. Và anh biết các bí mật của cô như cô biết tất cả về anh.
Cô nhìn anh một lúc, nhận ra nay cô không có cảm giác gì với anh. Ít nhất không phải kiểu những cảm giác kia.
Mấy năm qua trong thực tế anh đã là một người bạn tốt của cô.
Cô tin anh. Có lẽ. Rầy rà là một trong số ít người mà cô tin cậy thì lại là cái tay đàn ông cô đã phải bỏ mất nhiều thì giờ ra để lẩn tránh này.
Rồi cô quyết định. Cho rằng anh không tồn tại là lố bịch. Gặp anh cô không còn thấy bị xúc phạm nữa.
Cô mở rộng cửa để anh lại đi vào đời cô.