Hẳn Là Yêu
Chương 16
Gabrielle quỳ xuống cạnh chiếc ghế tựa bằng da cũ của ông nội cô và xoa dầu gừng nóng vào đôi tay nhức mỏi của ông. Các khớp tay của Franklin Breelove bị sưng tấy, các ngón tay biến dạng vì bệnh viêm khớp. Bài massage nhẹ hàng ngày dường như mang lại cho ông đôi chút nhẹ nhõm.
“Thế nào hở ông?” cô hỏi, nhìn vào khuôn mặt nhăn nheo của ông, đôi mắt màu xanh lục nhợt nhạt, và hàng lông mày trắng rậm rạp.
Ông chậm chạp uốn cong các ngón tay hết mức có thể. “Tốt hơn rồi,” ông nói dứt khoát và vỗ lên đầu Gabrielle như thể cô là chú chó săn nhỏ chân vòng kiềng già nua của ông, Molly. “Cháu là một cô bé ngoan.” Bàn tay ông trượt xuống vai tới bắp tay cô, và mắt ông khép lại. Ông ngày càng làm thế thường xuyên hơn. Đêm qua ông đã ngủ gục giữa bữa ăn, chiếc nĩa lửng lơ trước môi. Ông đã bảy mươi tám tuổi và chứng ngủ rũ của ông đang trở nên tệ đến mức ông chỉ mặc pyjama. Mỗi buổi sáng ông thay một bộ mới sạch sẽ trước khi hướng xuống hành lang vào phòng đọc sách. Nhượng bộ duy nhất cho ngày của ông là đôi giày da trên chân.
Theo những gì Gabrielle có thể nhớ được, ông cô đã làm việc trong phòng đọc sách tới tận trưa, rồi tối muộn, làm những việc mà cô đã không rõ lắm cho tới gần đây. Khi còn bé cô bị dẫn dụ tin rằng ông là một nhà đầu tư liều lĩnh. Nhưng từ khi cô về nhà cô đã chặn các cuộc gọi từ những người muốn dặt năm trăm hoặc hai nghìn đô cho những tay ưa thích như Eddie Sharkey “Cá mập” hoặc Greasey Dan Muldoon. Giờ thì cô nghi ngờ ông là nhà cá độ.
Ngồi xuống gót chân, Gabrielle nhẹ nhàng xoa bóp bàn tay xương xẩu của ông. Phần lớn cuộc đời cô, ông cũng là hình bóng người cha. Ông lúc nào cũng lộc cộc và gắt gỏng và ông không quan tâm đến mọi người, trẻ con, hay thú cưng nhà khác. Nhưng nếu bạn thuộc về ông, ông sẽ dời cả thiên đường và mặt đất để làm bạn hạnh phúc.
Gabrielle đứng dậy và đi ra khỏi căn phòng vẫn luôn có múi sách, da, và ám đầy xì gà tẩu – những mùi hương dễ chịu và thân quen giúp chữa lành trí óc – cơ thể – tinh thần cô kể từ buổi tối một tháng trước khi mẹ và di Yolanda của cô đón cô trên hiên sau nhà cô và lái lên phía bắc bốn giờ liên tục đến nhà ông cô. Lúc này đâycái đêm đó dường như xa vời vợi, vậy mà cô vẫn nhớ nó như thể nó mới xảy ra ngày hôm qua. Cô có thể tai hiện màu sắc áo phông của Joe và vẻ trống không trên mặt anh. Cô có nhớ mùi hương hoa hồng ở sân sau của cô, và cả những cơn gió lạnh tốc qua đôi bờ má ẩm ướt của cô khi cô ngồi ở ghế hành khách trên chiếc Toyota của mẹ cô. Cô nhớ bộ lông mềm mại của Beezer trong các ngón tay cô, tiếng gừ gừ đều đặn của con mèo trong tai cô, âm thanh giọng mẹ cô, bảo cô rằng tim cô rồi sẽ lành lại và cuộc đời cô rồi sẽ trở nên tốt đẹp hơn.
Cô đi dọc hành lang dài tới căn phòng khách mà cô đã chuyển thành phòng vẽ của mình. Hàng chồng hộp và sọt chứa tinh dầu lẫn nến thơm chất đầy cạnh tường, chặn hết ánh nắng mặt trời tháng Chín. Cô vẫn giữ cho mình bận rộn kể từ cái ngày cô đến đây chỉ với một túi quần áo và tinh dầu. Cô ném mình vào công việc, giữ đầu óc bận bịu, cho bản thân thi thoảng quên đi rằng trái tim cô đã tan nát.
Từ ngày cô đến sống với ông nội, cô đã về Boise chỉ một lần để ký vào các giấy tờ chào bán Anomaly. Cô đã thăm Francis, và đảm bảo chắc chắn rằng bãi cỏ của mình sẽ được cắt dọn. Cô đã đặt hệ thống tưới cây của mình hoạt động lúc bốn giờ mỗi sáng, để cô không cần lo lắng chuyện cây cỏ của cô sẽ chết, nhưng cô cần thuê dịch vụ làm vườn để cắt cỏ. Khoảng thời gian cô ở trong thị trấn, cô đã thu thập thư từ, lau chùi hang lớp bụi khỏi đồ gỗ, và kiểm tra thư thoại trong máy trả lời tự động.
Chẳng có một lời nào từ một người mà cô muốn được nghe nhất. Một lần cô nghĩ mình đã nghe thấy tiếng vẹt quác quác, nhưng rồi đoạn ghi âm lại đầy những tiếng chuông điện thoại reo lên từ xa và cô gạt nó đi như là một trò nghịch ngợm hoặc một người bán hàng qua điện thoại.
Cô không nghe gì từ Joe hoặc gặp lại anh kể từ buổi tối anh đứng trên hiên nhà cô và bảo cô rằng cô đã nhầm tình dục thành tình yêu. Buổi tối cô bảo anh rằng cô yêu anh và anh lùi bước khỏi cô như thể cô bị bệnh truyền nhiễm. Cảm giác nhức nhối trong tim cô cứ kéo dài không ngừng nghỉ, ở cùng cô khi cô thức dậy mỗi buổi sáng và cả khi cô lên giường mỗi buổi tối. Thậm chí trong giấc ngủ cô cũng không thể thoát khỏi ký ức về anh. Anh đến với cô trong các giấc mơ của cô, như anh vẫn luôn thế. Nhưng giờ đây khi cô thức dậy, cô cảm thấy trống rỗng, cô đơn, và không hề có thôi thúc muốn vẽ anh. Cô chưa cầm đến một cây cọ nào kể từ ngày anh xộc vào nhà cô tìm bức Monet của ông Hilard.
Gabrielle vào phòng khách và đi đến chỗ bàn làm việc nơi đặt tất cả lọ tinh dầu và các lọ dầu nền của cô. (Dầu nền, dầu dẫn hay dầu chuyển là loại dầu thực vật được sử dụng để vận chuyển các tinh dầu tinh chất vào sâu trong làn da. Dầu tinh chất là loại dầu được cô đọng từ thành phần hữu hiệu của thực vật nên không thể bôi trực tiếp lên da. Để hấp thụ thành phần của tinh dầu nguyên chất thong qua da phải sử dụng bằng cách pha trộn với dầu nền mang tinh chất thực vật 100%. Massage bằng dầu nền sẽ giúp tinh dầu nguyên chất thẩm thấu vào da một cách hiệu quả. Ngoài ra nó còn cung cấp các dưỡng chất cho da, giúp da mềm mại, mịn màng. Dầu nền còn được dung để dưỡng tóc giúp tóc mềm mượt tự nhiên, tránh chẻ ngọn, khô cứng. Nuôi dưỡng và tái tạo làn da của bạn). Các khoảng tối trong căn phòng được kéo lên để chống lại những tia sáng mặt trời phá hoại, nhưng Gabrielle cũng không cần phải nhìn để chọn được một lọ nhỏ gỗ đàn hương. Cô bỏ nắp ra và giữ nó gần mũi. Ngay lập tức hình ảnh của anh tràn ngập đầu cô. Hình ảnh khuôn mặt anh, đôi mắt nóng bỏng, đói khát của anh nhìn cô dưới hàng my lim dim, môi anh ẩm ướt vì hôn miệng cô.
Cũng như ngày hôm qua, và hôm kia, cảm giác đau khổ cuồn cuộn chảy qua cô trước khi vặn nắp lọ dầu lại và đặt nó lên bàn. Không, cô vẫn không thoát được anh. Vẫn chưa. Nó vẫn đau, nhưng có lẽ ngày mai sẽ tốt hơn. Có lẽ ngày mai cô sẽ chẳng cảm thấy gì nữa. Có lẽ ngày mai cô sẽ sẵn sàng quay lại nhà cô ở Boise và đối diện với cuộc đời cô một lần nữa.
“Mẹ có thư của con này,” mẹ cô nói khi bà lướt vào phòng khách. Claire Breedove có một giỏ thảo mộc và hoa tươi mát treo trên một khuỷu tay và một phong bì màu vàng lớn trong tay. Bà mặc bộ váy thêu Mexico rực rỡ với một cái khăn choàng khoác lên trên để tránh cái giá lạnh buổi sáng sớm và một vòng cổ gồm nhiều búp bê ủ rũ để tránh rủi ro. Một lúc nào đó trong chuyến đi tới Mexico bà đã trở thành người bản xứ và không bao giờ quay trở lại như trước nữa. Mái tóc tết dài màu nâu đỏ lửng lơ trên đầu gối và có vài đường sọc xám. “Sáng nay mẹ đã nhận được một dấu hiệu mạnh mẽ. Một điều gì đó tốt đẹp sắp xảy ra,” Claire dự đoán. “Yolanda tìm thấy một con bướm chúa trên hoa loa kèn, và con biết điều đó có ý nghĩa gì rồi đấy.”
Không, Gabrielle không biết nhìn thấy một con bướm trong vườn có nghĩa gì, ngoài sự thật rằng nó đang đói và đang tìm thức ăn. Kể từ khi mẹ cô định sẵn cho cô một người tình da nâu nồng nàn, các dự đoán tâm linh của bà là một chủ đề đau đớn. Gabrielle không hỏi them về bướm.
Đằng nào Claire cũng tiết lộ khi bà đưa phong thư cho Gabrielle. “Hôm nay con sẽ nghe được tin tốt. Bướm chúa luôn mang đến tin tốt.”
Cô nhận ra nét chữ của Francis khi lấy gói hang từ mẹ cô và xé nó ra. Bên trong là hóa đơn điện nước hàng ngày cho ngôi nhà ở Boise của Gabrielle và nhiều thư chào hàng linh tinh khác nhau. Hai bức thư khiến cô chú ý ngay lập tức. Bức đầu tiên là một phong bì thư với địa chỉ hoàn lại của ông bà Hilard in ở mặt sau. Bức thứ hai là từ nhà tù bang Idaho. Cô không cần nhìn địa chỉ cũng biết ai gửi bức thư này. Cô nhận ra nét chữ của anh. Kevin.
Trong vài giây không phòng vệ, cảm giác vui sướng tràn ngập cô, như thể cô vừa nghe tin từ một người bạn cũ. Rồi cũng nhanh như vậy, cảm giác tức giận và một dấu chấm đen buồn bã thay thế niềm vui sướng.
Cô đã không nói chuyện với Kevin từ trước vụ bắt giam anh ta, nhưng qua luật sư của mình cô biết được rằng ba ngày sau vụ bắt bớ của Kevin, anh ta đã đạt được một thỏa thuận với văn phòng công tố. Anh ta líu lo như loài chim hoàng yến nổi tiếng, đưa ra thông tin, danh tính và mặc cả nài nỉ đổi lấy việc giảm tội danh chống lại anh ta. Anh ta kể tên tất cả các nhà sưu tập và buôn lậu mà anh ta từng môi giới giao dịch, và anh ta nêu tên lũ trộm anh ta đã dùng để thực hiện vụ trộm nhà Hilard. Theo như Ronald Lowman, Kevin đã thuê anh em nhà Tongan những kẻ đang được tại ngoại nhờ đóng tiền bảo lãnh và chờ phiên tòa xử vài vụ trộm nhà dân mà mới đây chúng bị buộc tội thực hiện.
Nhờ hợp tác, Kevin được tuyên năm năm trong tù nhưng sẽ được ra sau hai năm.
Cô đưa cho mẹ cô phong bì thư từ nhà Hilard. “Mẹ có thể đọc nó nếu mẹ thấy thích,” cô nói, rồi lấy bức thư của mình và đi qua hành lang vào phòng ăn sáng. Cô ngồi xuống một cái ghế dài có đệm, và tay cô run run khi cô mở lớp phong bì dày. Một bức thư bốn trang viết trên giấy nhà tù rơi ra, và cô đọc lướt những dòng chữ nghiêng nghiêng nhờ ánh sáng đang tràn qua cửa sổ.
Gabe thân mến,
Nếu em đang đọc bức thư này vậy thì có hy vọng rằng em sẽ cho anh cơ hội biện hộ cho bản thân và những hành động của anh. Đầu tiên hãy để anh nói rằng anh vô cùng xin lỗi vì nỗi đau mà anh chắc hẳn đã gây ra. Anh không bao giờ có ý định, cũng như anh không bao giờ tưởng tượng đến, rằng công việc kinh doanh khác của anh sẽ lại ảnh hưởng tiêu cực đến em.
Gabrielle dừng lại. Công việc kinh doanh ư? Đó là cách anh ta gọi việc buôn lậu các bức tranh và đồ cổ ăn cắp sao? Cô lắc đầu và quay sự chú ý về lại bức thư. Anh ta nói về tình bạn của họ, và cô có ý nghĩa nhiều với anh ta như thế nào và cả những quãng thời gian tốt đẹp mà họ đã cùng chia sẻ. Cô đang gần như bắt đầu thấy tiếc cho anh ta thì bức thư rẽ sang một hướng mới không chút hối hận.
Anh biết rằng có rất nhiều người xem hành động của anh là tội phạm, và có thể họ đã đúng. Nhận và bán đồ ăn cắp là phạm luật, nhưng tội ác THỰC SỰ của anh là đã muốn quá nhiều. Anh đã muốn những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Và vì điều đó anh đang phải nhận một án phạt khắc nghiệt hơn cả những tên bị kết án hành hung. Những tên đánh đập vợ và lạm dụng con cái còn có án phạt nhẹ hơn anh. Mục đích anh chỉ ra điều này là đặt vào đúng cảnh, các tội của anh dường như thực sự nhỏ xíu khi so sánh. Ai bị đau nào? Những người giàu có được bảo hiểm ư?
Gabrielle thả bức thư xuống đùi. Ai bị đau nào? Anh ta thực sự nghiêm túc sao? Ánh mắt cô nhanh chóng lướt qua phần còn lại của bức thư đầy những lời lý giải và bào chữa. Anh ta đã gọi Joe bằng vài cái tên hạn chế, hy vọng rằng cô đủ thong minh để nhận thấy Joe chỉ dung cô để tiếp cận anh ta, và hy vọng rằng đến giờ cô đã đá Joe rồi. Gabrielle ngạc nhiên khi anh ta không biết về sự dính líu của cô, và cho tới cuối bức thư anh ta còn thực sự đề nghị cô viết lại cho anh ta như thể họ vẫn là bạn. Cô gạt phăng ý đó đi, và với bức thư trong tay, cô lại đi vào phòng khách.
“Trong phong bì của con có gì vậy?” Claire hỏi từ nơi bà đang đứng ở bàn làm việc, trộn oải hương và hồng tươi bằng cối chày.
“Một bức thư từ Kevin. Anh ta muốn con biết rằng anh ta thấy tiếc, và rằng anh ta không thực sự tội lỗi đến thế. Và bên cạnh đó, anh ta chỉ ăn trộm của người giàu.” Cô dừng lại để thả bức thư vào sọt rác. “Con đoán là con bướm đã bảo mẹ rằng hôm nay con sẽ nghe được tin tốt chất đầy cái thư đó.”
Mẹ cô nhìn cô theo cái cách bình thản, điềm tĩnh mà bà có. Phán xét rõ rang, và Gabrielle cảm thấy như cô vừa hất cẳng một đứa trẻ được yêu thương yêu hòa bình.
Cô đoán là mình có như thế thật, nhưng dạo gần đây cô dường như không thể chặn mình lại. Cô cứ mở miệng và tất cả cơn tức giận cô có trong linh hồn đều trào ra.
Chỉ mới tuần trước cô Yolanda của cô đang say sưa với chủ đề ưa thích nhất của mình, Frank Sinatra, và Gabrielle đã càu cạu, “Sinatra như dở hơi ấy, và người duy nhất không nghĩ như vậy là những phụ nữ vẽ lên lông mày của họ.”
Gabrielle đã ngay lập tức xin lỗi bà cô, và Yolanda dường như đã chấp nhận và quên điều đó đi, nhưng một giờ sau cô lại tình cờ chấp nhận một cái ống lấy nước sốt gà tây từ cửa hang IGA.
Gabrielle không phải là chính mình một chút nào nữa, nhưng cô cũng không còn có lý trí thực sự rõ ràng của riêng bản thân mình. Thường thì cô luôn biết rõ mọi việc, nhưng bị làm tan nát cả long tin lẫn trái tim bởi hai người đàn ông khác nhau trong cùng một ngày đã giáng cho niềm tin của cô với chính bản thân và thế giới của mình một đòn đau đớn.
“Ngày hôm nay vẫn chưa qua mà,” Claira nói và chỉ cái chày vào phong thư nhỏ trên bàn. “Nhà Hilard sẽ có một bữa tiệc. Thiệp mời nói rằng họ muốn tất cả những ai có liên quan đến việc thu hồi bức tranh của họ đến.”
“Con không thể đi đâu.” Chỉ ý nghĩ nhìn thấy Joe thôi cũng khiến dạ dày cô nhộn nhạo hết cả lên, như thể cô vừa nuốt con bướm thần bí từ vườn mẹ cô xuống.
“Con không thể trốn ở đây mãi được.”
“Con có trốn gì đâu.”
“Con đang né tránh cuộc đời mình.”
Tất nhiên là cô đang né tránh cuộc đời rồi. Cuộc đời cô là một lỗ đen tăm tối, trải dài trước mặt cô và trống không. Cô đã ngồi thiền và cố hình dung cuộc đời cô không có Joe, nhưng cô không thể. Cô đã luôn rất quả quyết trong cuộc đời không gò bó của mình. Nếu có thứ gì đó không ổn cô sẽ quay người lại và tiến sang một hướng mới. Nhưng lần đầu tiên, tất cả những nơi mà cô quay sang dường như đều tệ hơn nơi cô đang đứng.
“Con có rắc rối với việc khép lại quá khứ.”
Gabrielle nhặt một nhánh bạc hà lên và xoắn nó giữa các ngón tay.
“Có lẽ con nên viết cho Kevin một bức thư. Rồi con nên nghĩ về việc đi đến bữa tiệc nhà Hilard. Con cần đương đầu với người đàn ông đã làm con vô cùng đau đớn và khiến con giận dữ điên cuồng.”
“Con không giận dữ đến mức đó.”
Claire chỉ nhìn không chớp.
“Được rồi, con hơi giận dữ đấy.”
Cô gạt ngay ý nghĩ viết thư cho Kevin ra khỏi đầu, nhưng có lẽ mẹ cô nói đúng. Có lẽ cô nên đương đầu với anh để cô có thể tiếp tục đi tới. Nhưng không phải Joe. Cô chưa sẵn sàng để gặp Joe, để nhìn vào đôi mắt nâu quen thuộc của anh và thấy chẳng có gì nhìn lại cô.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.