Hẳn Là Yêu

Chương 4 (tiếp)



Điều đầu tiên Joe chú ý thấy khi anh đi ra mặt tiền cửa hàng là mùi hương, nó có mùi như một cửa hàng gội đầu, và anh tự hỏi người chỉ điểm mật của anh có thường du lịch trên tàu cỏ khô hay không. Điều đó sẽ giải thích kha khá đấy.

Ánh mắt Joe lang thang khắp căn phòng, và anh ghi nhận sự sắp xếp lộn xộn kỳ cục của cả đồ cũ lẫn đồ mới. Trong một góc, những cây bút ngộ nghĩnh, dao mở thư, và nhiều hộp văn phòng phẩm đặt trên một cái bàn nhiều ngăn kéo. Anh liếc nhìn quấy thu tiền chính giữa và một mẫu trưng bày đá quý cổ trong một cái thùng thủy tinh cạnh máy tính tiền. Anh nhớ thầm tất cả mọi thứ trước khi sự chú ý của anh bị hút về cái thang đặt cạnh cửa sổ mặt tiền và người phụ nữ đang đứng ở bậc trên cùng.

Ánh nắng rực rỡ chiếu sáng dáng nhìn nghiêng của cô, lọt qua mái tóc màu nâu đỏ dài, và biến chiếc áo lẫn cái váy mỏng màu vàng của cô trở nên trong suốt. Ánh mắt anh lướt xuống mặt, cằm tới đôi vai mảnh mai và bộ ngực đầy đặn của cô. Ngày hôm qua, anh tức như điên còn đùi anh thì nhức nhối, nhưng anh chưa chết. Anh vẫn ý thức rất rõ cơ thể mềm mại của cô ấn chặt vào anh. Về ngực cô khi anh kiểm tra xem có vũ khí không hay vài phút sau khi họ đi vê ô tô của anh, cơn mưa lạnh buốt làm ướt đẫm áo phông của cô, đông lạnh da thịt cô và làm cứng đầu ngực cô.

Mắt anh di chuyển tới eo và cái hông tao nhã của cô. Trông không có vẻ là cô có mặc gì dưới váy ngoài một cái quần lót bikini. Chắc là màu trắng hoặc be. Sau khi theo đuôi cô suốt tuần vừa rồi, anh đã trở nên ngưỡng mộ cặp mông tròn trịa xinh xắn và cặp chân dài của cô. Anh không quan tâm giấy phép lái xe của cô nói gì, cô cao gần mét tám ba và có đôi chân chứng minh cho điều đó. Loại cặp chân vốn dĩ là quấn quanh eo một người đàn ông.

“Cô có cần giúp gì không?” anh hỏi khi đi về phía cô, nâng ánh mắt khỏi những đường cong nữ tính khêu gợi của thân hình cô tới mặt cô.

“Thế sẽ rất tuyệt,” cô nói, kéo mớ tóc qua một bên vai và nhìn xuống anh qua bên còn lại. Cô chọn một cái đĩa lớn màu xanh trắng từ một cái giá trong cửa sổ. “Tôi có một khách hàng sẽ ở đây sáng nay để lấy món đồ này.”

Joe lấy cái đĩa từ tay cô, rồi bước lùi lại khi cô trèo xuống thang.

“Kevin có tin anh là thợ sửa chữa cho tôi không?” cô hỏi chỉ hơn một lời thì thầm.

“Hơn cả thợ sửa chữa cho cô.” Anh chờ cho đến khi cô đứng trước mặt anh. “Anh ta nghĩ cô muốn tôi vì cơ thể của tôi.” Anh quan sát cô cào tay qua tóc, làm rối tất cả những lọn tóc xoăn mềm mại như thể cô vừa ra khỏi giường. Cô đã làm cùng chuyện đó ngày hôm qua ở Sở cảnh sát. Anh ghét phải thú nhận điều này, nhưng nó quyến rũ kinh khủng.

“Anh đang đùa.”

Anh bước vài bước về phía cô và thì thầm vào tai cô. “Anh ta nghĩ tôi là món đồ chơi con trai riêng của cô.” Mái tóc lụa là của cô có mùi như hoa hồng vậy.

“Tôi hy vọng anh đã chỉnh lại cho anh ấy.”

“Giờ thì, sao tôi lại làm thế cơ chứ?” Anh lùi ra sau và mỉm cười vào khuôn mặt hãi hùng của cô.

“Tôi không biết mình từng làm gì để phải chịu chuyện này,” cô nói khi lấy cái đĩa và đi vòng qua anh. “Tôi chắc chắn mình chưa bao giờ làm chuyện gì xấu xa đến độ xứng đáng phải nhận loại nghiệp chướng tồi tệ này.”

Nụ cười của Joe tắt lịm, và một cơn buốt giá gặm nhấm gáy anh. Anh đã quên béng mất. Anh đã thấy cô đứng trên cái thang, với ánh nắng rọi lên mọi đường cong mềm mại, và trong vài phút anh đã quên béng mất cô bị điên.

Gabrielle trông thì bình thường, nhưng cô không bình thường. Cô tin vào nhân quả, luồng khí, và xét đoán tính cách con người qua các ngôi sao. Cô hẳn tin rằng mình cũng có thể bắt sóng với Elvis. Cô là một kẻ lập dị, và anh cho là mình nên cảm ơn cô vì nhắc cho anh nhớ rằng anh không ở trong cửa hàng của cô để chằm chằm nhìn mông cô. Nhờ có cô, sự nghiệp thám tử của anh đang trên bờ vực, và anh phải giải quyết cho xong với một vụ khám xét lớn. Không nghi ngờ gì. Anh rời ánh mắt khỏi lưng cô và liếc quanh căn phòng. “Những cái giá mà cô muốn di chuyển ở đâu thế?”

Gabrielle đặt cái đĩa lên quầy hàng cạnh máy tính tiền. “Kia kìa,” cô nói, chỉ về hệ thống giá đỡ bằng kim loại và kính gắn vào tường bên kia căn phòng. “Tôi muốn chúng được chuyển ra tường sau.”

Ngày hôm qua, khi cô nói cái giá, anh đã cho rằng cô có ý nói tủ trưng bày. Với việc lắp và gỡ có dính dáng, công chuyện này sẽ tiêu của anh mất vài ngày. Nếu anh sơn, anh có thể kéo dài ra thành hai, có lẽ là ba, ngày tìm kiếm bất kỳ thứ gì để đóng cọc Kevin Carter. Và anh sẽ đóng cọc hắn. Anh không nghi ngờ điều đó lấy một phút.

Joe băng qua phòng tới cái giá bằng kính, mừng vì việc này sẽ tốn kha khá thời gian. Không giống những miêu tả về cảnh sát chiếu trên tivi, các vụ án không được giải quyết trong có một giờ. Phải mất nhiều ngày và nhiều tuần, đôi khi hàng tháng trời, để thu thập đủ bằng chứng cho một vụ tống giam. Rất nhiều chờ đợi. Chờ cho kẻ nào đó có động tĩnh, hốt hoảng hay bị phản bội.

Joe để ánh mắt lướt qua những khung tranh bằng sứ và thủy tinh, bạc và thiếc. Vài cái rổ đan nằm trên một cái hòm cũ giữa các giá hàng, và anh với tay lấy một cái túi vải nhỏ và giơ nó lên mũi. Anh có hứng thú với những thứ có thể ở trong cái hòm hơn là những gì ở trên hòm. Cũng không phải anh thực sự mong tìm thấy bức họa của ông Hillard dễ dàng đến thế. Đúng là thỉnh thoảng anh đã tìm được chỗ giấu thuốc phiện và đồ trộm cắp ở những nơi rõ rành rành, nhưng anh đoán mình sẽ không may mắn được thế với vụ này.

“Cái đó chỉ là túi hoa khô thơm thôi.”

Joe liếc qua vai nhìn Gabrielle và ném cái túi nhỏ vào trong rổ. “Tôi đã đoán ra rồi, nhưng dẫu sao cũng cảm ơn.”

“Tôi đã nghĩ anh có thể nhầm nó với một loại thuốc gây nghiện nào đó.”

Anh nhìn vào đôi mắt màu xanh lục của cô và nghĩ rằng anh phát hiện thấy một dấu hiệu hài hước, nhưng anh cũng không chắc. Nó cũng rất dễ là một tia mất trí. Ánh mắt anh lướt qua cô tới căn phòng trống không. Carter vẫn ở trong văn phòng. Bận rộn với hy vọng làm cho bản thân hắn khá lên. “Tôi đã là một đặc vụ về ma túy trong tám năm. Tôi nghĩ mình biết sự khác biệt. Cô thì sao?”

“Tôi không nghĩ mình nên trả lời câu hỏi đó xét đến việc nó có thể buộc tội tôi.” Một nụ cười thích thú nhếch hai khóe môi đỏ hồng của cô lên. Cô rõ ràng là nghĩ mình hài hước lắm đấy. “Nhưng tôi phải nói rằng nếu tôi từng dùng thuốc phiện, và nhớ kỹ rằng tôi không có đang thú nhận gì đó đâu đấy, thì cũng là lâu lắc rồi vì những lý do tôn giáo.”

Anh có một cảm xúc rằng anh sẽ thực sự hối tiếc, nhưng anh vẫn cứ hỏi. “Lý do tôn giáo ư?”

“Để tìm kiếm sự thật và sự khai sáng,” cô nói rõ thêm. “Để phá vỡ ranh giới của trí óc nhằm tìm kiếm tri thức cao hơn và sự trọn vẹn trong tâm hồn.”

Ừ đấy, anh thấy hối tiếc rồi.

“Để khám phá mối liên hệ vũ trụ giữa cái tốt và cái xấu. Sự sống và cái chết.”

“Để tìm kiếm cuộc sống mới, nền văn minh mới. Để liều lĩnh đi tới những nơi chưa một con người nào từng đi tới,” anh thêm vào, giữ giọng nhạt nhẽo. “Cô và thuyền trưởng Kirk 1 dường như có rất nhiều điểm chung đấy.”

Một cái cau có đập bẹt nụ cười của cô.

“Có cái gì trong cái hòm này vậy?” anh hỏi.

“Nến Giáng sinh.”

“Lần cuối cùng cô kiểm tra là khi nào?”

“Giáng sinh.”

Chuyển động phía sau Gabrielle hút sự chú ý của Joe về quầy trước, và anh quan sát Kevin đi tới chỗ máy tính tiền và ấn nó mở ra. “Anh có vài công việc lặt vặt phải chạy sáng nay, Gabrielle,” Kevin nói khi anh đổ đầy ngăn kéo bằng tiền. “Anh sẽ quay lại lúc ba giờ.”

Gabrielle quay phắt lại và nhìn bạn kinh doanh của cô. Sự căng thẳng làm tắc nghẽn không khí, nhưng dường như không có ai ngoài cô chú ý tới. Nó bịt kín họng cô, nhưng lần đầu tiên kể từ lúc bị tống giam, cảm giác nhẹ nhõm cũng nâng cánh tâm hồn cô. Cái kết cho cảnh điên khùng này đang trong tầm mắt. Kevin rời đi càng sớm, thì tay thám tử có thể lục soát càng sớm, và anh ta sẽ càng sớm tìm thấy không gì cả. Anh ta sẽ càng sớm rời khỏi cửa hàng và cuộc đời của cô hơn. “Ồ, được rồi. Cứ thoải mái đi. Nếu anh thực sự bận rộn, thì anh không cần quay lại đây đâu.”

Kevin rời ánh mắt khỏi Gabrielle sang người đàn ông đang đứng thẳng phía sau cô. “Anh sẽ quay lại”

Ngay khi Kevin đi, Gabrielle liếc nhìn qua vai. “Làm việc của anh đi, thám tử,” cô nói, rồi đi tới quầy trước và bắt đầu bọc cái đĩa xanh vào giấy lót. Qua khóe mắt, cô quan sát anh kéo một quyển sổ nhỏ màu đen ra khỏi túi sau của chiếc Levi’s. Anh hẩy nó mở ra và từ tốn đi khắp cửa hàng của cô, dùng tay lật một trang và dừng lại để nghuệch ngoạc lên trang khác.

“Khi nào thì Mara Paglino đến làm việc?” anh hỏi mà không nhìn lên.

“Một giờ ba mươi.”

Anh kiểm tra dấu hiệu trên đáy một cái đĩa bơ Wedgwood, rồi đóng quyển sổ lại. “Nếu Kevin quay lại sớm, hãy giữ anh ta ở ngoài này với cô,” anh nói khi đi vào văn phòng và đóng sập cánh cửa lại phía sau.

Bằng cách nào chứ? Cô hỏi cửa hàng trống không. Nếu Kevin quay lại sớm, cô không biết bằng cách nào – chưa nói đến xử trí anh – để giữ anh không phát hiện ra tay thám tử đang xoay vần cả cái bàn của anh lên. Nhưng chuyện Kevin có về sớm và tóm được Joe tận tay cũng không đáng kể, Kevin vẫn sẽ biết mà thôi. Anh quá ư ngăn nắp đến mức anh luôn luôn biết nếu có ai đó chạm vào đồ đạc của anh.

Suốt hai tiếng sau đó, các dây thần kinh của Gabrielle càng ngày càng xoắn chặt hơn. Mọi tiếng tích tắc của đồng hồ đều đẩy cô gần hơn tới ngưỡng sụp đổ hoàn toàn. Cô cố chìm mình trong lịch trình thường ngày, cô thất bại. Cô nhận thức quá rõ chuyện tay thám tử đang lục soát tìm bằng chứng buộc tội sau cánh cửa khép kín của văn phòng cô.

Vài lần cô đi về hướng cửa văn phòng với ý định thò đầu vào trong và xem xem chính xác thì anh ta đang làm cái gì, nhưng cô luôn luôn mất can đảm. Mọi âm thanh nhỏ xíu cũng khiến cô nhảy dựng lên, và một cục nghẹn tạo hình trong họng và dạ dày cô, chặn không cho cô ăn món súp cải xanh mà cô đã mua làm bữa trưa. Đến lúc Joe cuối cùng cũng chui ra khỏi văn phòng lúc một giờ, Gabrielle đã căng thẳng đến mức cô cảm thấy muốn hét toáng lên, thay vào đó, cô hít vài thở sâu và im lặng niệm câu thần chú xoa dịu bảy âm tiết mà cô đã sáng tác ra mười tám năm trước để đương đầu với cái chết của cha cô.

“Được rồi.” Joe xen ngang nỗ lực tìm kiếm chốn thanh tĩnh của cô. “Tôi sẽ gặp cô vào sáng mai.”

Anh chắc chẳng tìm thấy bất kỳ thứ gì đáng tội. Nhưng Gabrielle cũng không ngạc nhiên, chẳng có gì mà tìm hết. Cô theo anh ra phòng sau. “Anh đi đấy à?”

Anh nhìn vào mắt cô, và một khóe miệng anh nhếch lên. “Đừng nói với tôi là cô sẽ nhớ tôi nhé?”

“Tất nhiên là không, nhưng còn mấy cái giá thì sao? Tôi phải nói gì với Kevin chứ?”

“Bảo anh ta rằng tôi sẽ bắt đầu vào ngày mai.” Anh lấy cái kính râm ra khỏi túi áo phông. “Tôi cần đặt một cái máy nghe trộm vào điện thoại làm việc của cô. Nên hãy đến sớm hơn một chút vào buổi sáng đấy. Tôi sẽ chẳng mất đến vài phút đâu.”

“Anh sẽ nghe lỏm điện thoại của tôi à? Anh không cần một lệnh của tòa án hay gì đó sao?”

“Không. Tôi chỉ cần sự cho phép của cô, thứ mà cô sẽ trao cho tôi mà thôi.”

“Không đâu.”

Hàng lông mày đen của anh nhíu xuống và mắt anh trở nên cứng rắn. “Vì quái gì lại không? Tôi tưởng cô đã nói cô chẳng liên quan gì đến vụ trộm bức Monet của Hillard?”

“Tôi không liên quan.”

“Vậy thì đừng có hành động như thể cô có gì phải che giấu nữa.”

“Tôi đâu có. Đó là sự xâm phạm khủng khiếp đời sống riêng tư.”

Anh cắm gót chân xuống và nhìn cô qua đôi mắt nheo nheo. “Chỉ nếu cô có tội mà thôi. Trao sự cho phép của cô có thể giúp chứng minh rằng cô và Kevin trong sáng như những đứa trẻ sơ sinh.”

“Nhưng anh không tin vào điều đó, đúng không nào?”

“Không,” anh trả lời không do dự.

Phải mất rất nhiều nỗ lực mới không nói cho anh ta nghe chính xác nơi anh ta có thể nhét cái máy nghe trộm của mình. Anh ta quá tự mãn vào bản thân. Quá mức tự tin, nhưng cũng quá sai lầm. Một cái máy nghe trộm sẽ chẳng kiếm được gì cho anh ta hết, và chỉ một cách để chứng minh rằng anh ta sai. “Tốt thôi,” cô nói. “Làm bất kỳ chuyện gì anh muôn. Đặt một cái máy quay. Dùng đến máy kiểm tra nói dối. Đưa ra dụng cụ tra tấn.”

“Lúc này thì máy nghe trộm làm hữu dụng rồi.” Anh mở cửa sau và đẩy cái kính râm lên sống mũi thẳng tắp. “Tôi để dành dụng cụ tra tấn cho những tay chỉ điểm lập dị thích thú với nó cơ.” Những đường nét nhục dục ở môi anh cong lại thành một nụ cười khiêu khích có thể khiến một người phụ nữ gần như tha thứ hết cho anh vì đã còng tay cô ta rồi tống cô ta vào tù. “Cô có hứng thú không?”

Gabrielle nhìn xuống chân, tránh khỏi ảnh hưởng thôi miên của nụ cười đó, choáng váng vì anh cũng có thể gây ảnh hưởng đến cô. “Không, cảm ơn.”

Anh móc một ngón tay vào dưới cằm cô và nâng ánh mắt cô lên, quay lại mắt anh. Giọng nói quyến rũ của anh ve vuốt da thịt cô. “Tôi có thể thực sự dịu dàng đấy.”

Cô nhìn vào cặp kính râm của anh và không thể nói được anh đang đùa hay nghiêm túc. Anh cố quyến rũ cô hay đó chỉ là ảo tưởng của cô mà thôi. “Tôi sẽ bỏ qua.”

“Đồ gà con.” Anh thả tay xuống và bước một bước ra sau. “Cô hãy cho tôi biết nếu cô đổi ý nhé.”

Trong vài giây sau khi anh đi, cô nhìn chằm chằm vào cánh cửa đóng kín. Một cơn run rẩy nhồn nhột cù trêu dạ dày cô, và cô cố tự bảo mình đó là vị cô chưa ăn. Nhưng cô không thực sự tin vào điều đó. Với việc tay thám tử đã đi, cô đáng lẽ phải cảm thấy khá hơn, nhưng cô thì không. Anh sẽ quay lại vào ngày mai với máy nghe trộm, rình mò các cuộc trò chuyện.

Đến lúc Gabrielle xong việc trong ngày, cô đã cảm thấy như thể não cô sưng phồng và đầu cô sắp sửa nổ tung. Cô không biết chắc, nhưng cô nghĩ cô có thể đang phát triển một khe stress ở hộp sọ.

Lái xe về nhà, thường tốn mất của Gabrielle mười phút, giờ được hoàn thành trong có năm phút. Cô rẽ chiếc Toyota dòng bán tải vào rồi ra khỏi luồng giao thông, và chưa bao giờ quá đỗi vui mừng đến thế để đi vào căn gara chỉ chứa được một xe ô tô ở đuôi nhà cô.

Ngôi nhà gạch mà cô đã mua cách đây một năm khá nhỏ và nhồi nhét đầy những miếng những mẩu đời sống của cô. Trong một cửa sổ nhô ra đối diện với đường, một con mèo đen khổng lồ nằm duỗi mình giữa những cái đệm màu đào, quá béo và lười biếng để thực hiện được một màn chào hỏi đúng đắn. Những tia mặt trời tràn qua vô số tấm kính, trải những vùng sáng hình lập phương lên sàn gỗ và thảm hoa cỏ.

Bộ ghế và tràng kỷ được bọc màu tùng lam và hồng đào, cùng lúc ấy những cây cỏ tươi tốt tô điểm cho căn phòng hình chữ nhật, bức chân dung bằng màu nước vẽ một con mèo đen nằm trên cái ghế bành được treo trên một lò sưởi gạch thanh lịch.

Khi Gabrielle lần đầu tiên đặt mắt lên ngôi nhà này, cô đã yêu ngay nó. Nó, giống như chủ trước của nó, cổ kính và chứa đựng một bầu không khí chỉ có thể được tạo ra từ thời xa xưa. Căn phòng ăn nhỏ được trang trí bằng tủ bếp liền tường và dẫn ra một căn bếp với những tủ bát đĩa cao với từ sàn nhà lên tận trần. Cô có hai phòng ngủ, một trong số đó cô dùng làm phòng vẽ.

Các đường ống cứ rên rỉ. Sàn nhà gỗ thì lạnh, và nước thì nhỏ giọt vào bồn tắm. Nước toa lét chảy không ngừng nghỉ trừ phi cô lắc nhẹ tay vặn, và cửa sổ phòng ngủ cảu cô thì bị đóng chặt. Dẫu vậy, cô yêu ngôi nhà của cô bất chấp những hư hỏng của nó và yêu thậm chí cả vì những hư hỏng ấy.

Thoát quần áo khi bước đi, Gabrielle hướng đến phòng vẽ. Cô đi nhanh qua phòng ăn và bếp, bỏ qua những cái bát và chai nhỏ chứa kem chống nắng và các loại dầu chiết xuất tự nhiên khác mà cô đã chuẩn bị. Đến lúc cô tới được cửa phòng vẽ, tất cả những gì cô mặc là chiếc quần lót bikini màu trắng.

Một cái áo sơ mi loang lổ màu vẽ treo trên một khung vẽ ở giữa phòng. Khi cô đã cài khuy áo đến nửa ngực, cô bắt đầu nhặt nhạnh đồ vẽ.

Cô biết chỉ có một cách để giải phóng cơn giận khủng khiếp quấn quanh người cô và lại tô đen cả luồng khí của cô. Cô đã vượt quá xa tọa thiền và hương thơm xoa dịu rồi, và chỉ có một cách để biểu lộ cơn giận dữ và cảm giác tra tân nội tại. Chỉ có một cách để tống nó ra khỏi cơ thể cô.

Cô không thèm chuẩn bị vải bạt hay phác họa khuôn hình trước. Cô không thèm làm dịu lớp sơn dầu nặng nề hay cố pha sáng màu sắc. Cô thậm chí còn không có một ý tưởng rõ ràng về những gì cô định vẽ nữa. Cô chỉ vẽ mà thôi. Cô không tốn thời gian cẩn thận tính toán mỗi nét phác cọ, hay thèm quan tâm xem cô đang tạo ra cả một mớ hỗn loạn trên vải vẽ.

Cô chỉ vẽ mà thôi.

Vài giờ sau, cô không ngạc nhiên khi thấy ác quỷ trong bức tranh của cô mang một vẻ tương đồng đáng kể với Joe Shanahan hay con cừu non bé nhỏ tội nghiệp, bị còng bằng một đôi còng tay bạc, có mái tóc đỏ óng ả trên đầu thay vì lông len.

Cô bước lùi lại một bước để cẩn trọng đánh giá bức tranh. Gabrielle biết cô không phải là một nghệ sĩ vĩ đại. Cô vẽ vì tình yêu, nhưng thậm chí cô cũng biết tác phẩm này không phải bức vẽ tuyệt nhất của cô. Dầu bị dùng quá nặng, và vầng hào quang bao quanh đầu con cừu trông giống cái kẹo dẻo hơn. Chất lượng không tốt được gần bằng cả những bức vẽ và chân dung khác treo trên bức tường trắng của phòng tranh. Và như cô đối xử với những bức vẽ khác, cô bỏ chuyện vẽ tay và chân cho một lần khác. Cô cảm thấy trái tim nhẹ bẫng, và một nụ cười nâng hai má cô lên. “Mình thích nó,” cô thông báo cho căn phòng trống không, rồi đâm cây cọ vẽ vào một khoanh mực đen và thêm một bộ cánh kinh khủng cho ác quỷ.

——————————–

1 Nhân vật trong phim Chiến tranh giữa các vì sao.


Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.