Jake ôm chầm chị mình trước khi chia tay. Ngượng nghịu làm sao. Cậu chẳng nhớ đã từng thật sự ôm chị lần nào trước đây chưa. Mọi người thì cứ nhìn chằm chằm làm cậu càng ngượng ngập hơn. Cậu thì thầm vào tai chị mình, cố cong lưỡi nói tiếng Anh, chứ không nói tiếng Toàn Cầu, để không ai nghe lỏm được. “Hãy để ý mọi thứ. Học hỏi những điểu có thể.”
“Chị phải làm gì đây…?”
“Thì chị cứ vui chơi, kết bạn thôi.” Kady rất có tài trong việc này, Jake thì chẳng thể nào làm nổi. Nhưng tới lúc phải chơi trò gián điệp như vầy thì khả năng đó quả thật rất hữu ích.
Tiberius đằng hắng sau lưng hai người, “Được rồi, được rồi. Tối rồi, chúng tôi còn bao nhiêu việc phải làm trước khi ngủ nữa.” Jake lùi lại. Không ôm lấy Jake nữa, đôi tay Kady bỗng trở nên thừa thãi. Cô co ro vòng tay ôm lấy chính mình, có vẻ lo lắng.
Người phụ nữ Viking tiến đến cạnh Kady, chạm vào khuỷu tay cô. “Từ đây về Bornholm không xa lắm. Nhưng chúng ta phải khởi hành ngay, không thì bữa tối nguội mất.”
Kady quay lại nhìn Jake lần cuối, ánh mắt đầy vẻ tuyệt vọng; rồi theo bà Astrid Ufisdottir rời hội trường. Jake mải miết nhìn theo họ.
“Không phải lo. “ah xi paal,” cha Marika nói chệch sang tiếng Maya. “Cháu sẽ được gặp chị mình ít nhất một lần một ngày… ngày nào cũng vậy. Bây giờ chúng tôi sẽ dẫn cháu đến nơi ở mới”.
Mara níu một góc áo khoác đi săn của cậu, dẫn cậu bước lên phía mái vòm ở bên phải hàng ghế cao.
“Cha con mình sống trên Tháp Ánh Sáng, như mọi quốc sư khác của Calypsos.” Thoáng ngượng ngùng hiện lên trong đôi mắt xanh ngọc bích của cô bé. “Nào, để mình dẫn bạn đi xem…”
“Mari, để bạn con thở đã chứ,” cha con bé nhắc nhở. “Còn khối thời gian để chỉ cho bạn con coi mọi thứ ở đây. Cha đoán lúc này cậu ấy khoái thứ gì đó cho căng bụng hơn.”
Bao tử Jake sôi lên đồng tình.
Cậu được dẫn tới cửa vòm, ở đó cậu lại thấy một cầu thang hẹp hình xoắn ốc. Cậu ngập ngừng một chút trước những bậc thang, không biết nên đi lên hay đi xuống.
Marika nói, “Bên dưới là chỗ của Quốc sư Zahur. Bác ấy ở chân tháp, dưới đó bác nuôi mấy con thú rừng nhỏ trong lồng và cũi để làm thí nghiệm về sinh thuật.”
Jake nhớ lại người Ai Cập xăm hình trên đầu. Cậu để ý thấy Marika trề môi bực bội, rõ ràng nhỏ hoàn toàn chẳng thích lãnh vực nghiên cứu của ông này chút nào.
Marika ra hiệu cho Jake bước lên. “Tầng dưới này là của Quốc sư Oswin.” Con bé nhỏ giọng thì thầm khi hai đứa đi qua mấy tầng này, nó cười mỉm. “Bác đó chỉ leo số bậc thang tối thiểu cần phải leo… trừ phi ở đó có ăn.”
Họ leo thêm vài tầng nửa thì đến nơi. Marika dẫn cậu xuống một cái sảnh nhỏ dẫn vào phòng, cuối sảnh là một cánh cửa gỗ. Con bé lấy trong túi ra một cái chìa khóa dài bằng đồng và tra vào ổ khóa. Con bé vặn chìa, rồi kéo chốt, mở cửa.
“Nhà của tớ đây,” con bé nói, vẫy Jake vào trước.
Cậu bước qua bậc cửa vào một phòng sinh hoạt chung lớn, hình tròn. Trong phòng có mấy cánh cửa dẫn đến những căn phòng khác và một cầu thang hẹp dẫn lên tầng hai. Căn phòng không có cửa sổ mà được chiếu sáng bằng những chùm pha lê màu hổ phách rực rỡ, buông lơ lửng trên những sợi xích sắt gắn với xà nhà.
Trên chiếc bàn tròn ngay giữa gian phòng, mấy tô sứ trắng đã được bày biện sẵn. Mùi gia vị và món thịt hầm nóng hổi bốc lên nghi ngút. Mấy lát bánh mì xếp gọn ở một góc bàn. Đầu bên kia bàn để một tô lớn chất đầy một loại trái cây to cỡ trái dưa hấu, vỏ sần sùi.
Khi Jake bước về phía bàn, cậu thoáng thấy bên trái mình có gì động đậy. Cậu quay lại, vừa kịp nhìn thấy cánh cửa hẹp được khép lại thật khẽ. Cánh cửa không lớn hơn một cái bàn để ủi đồ là mấy.
“Ai vậy?” Jake hỏi khi Marika và cha nhỏ bước lại sau lưng cậu. Cậu nhìn chằm chặp vào cánh cửa. “Còn ai sống ở đây với cha con ngài không ạ?”
“Hiện giờ thì… chỉ có hai cha con ta thôi.” Quốc sư Balam nói, mặt thoáng nét buồn bã. “Nào. Chúng ta dùng bữa khi thức ăn còn nóng đi chứ.”
Hai cha con giục cậu ngồi vào bàn, cậu ngoái nhìn cánh cửa hẹp thêm một cái. Có lẽ là cậu đã tưởng tượng thôi. Cậu ngồi ngay ngắn vào bàn, cắm cúi ăn. Cậu làm theo Marika, lấy mấy miếng bánh mì dẹt như bánh ngô, xúc thịt hầm từ một cái tô sứ.
Miếng bánh mì dai dai và nóng hổi, còn thịt thì như tan ra trên đầu lưỡi. Cậu nhai ngấu nghiến, cậu không nhận ra mình đã thật sự đói đến thế nào. Ăn được vài miếng thì mặt cậu nóng bừng lên. Cậu lấy tay phẩy phẩy trước miệng nhưng chỉ càng cảm thấy cay hơn.
Marika bật cười trước tình cảnh khổn khổ của cậu. “Tiêu lửa đấy.”
Sau một hồi thấy đỡ cay, Jake mới mở miệng nói được “Ngon… ngon lắm.”
Cha Marika vỗ vỗ lưng cậu trong lúc ngốn một mồm đầy ứ. Ông chảy cả nước mắt. “Cay hơn nữa nhé?” Ông hít hà.
Marika cười toe toét, bảo Jake nếm thử hết các món trên bàn. Con bé lại rót cho Jake một cốc đựng đầy thứ gì màu đen sền sệt từ một cái ấm nhỏ xíu bằng gốm. Jake cau mày trước cốc nước sền sệt ấm nóng, nhưng cậu vẫn cầm lên, ngửi thử. Mắt cậu mở to đầy ngạc nhiên trước cái mùi vừa lạ lẫm vừa thân quen đó, gần như một thứ hương vị quê nhà.
“Sôcôla!” Đáng lẽ cậu không nên ngạc nhiên mới phải. Người Maya tìm ra món sôcôla mà. Cậu nhấp một ngụm. Sôcôla ở đây đắng hơn và đặc hơn thứ sôcôla mà cậu vẫn thường dùng. Có lẽ thêm ít kẹo dẻo cho ngọt thì hay hơn…
“Chúng tôi gọi nó là ca cao”, Marika nói.
Jake gật đầu, nhấp thêm một ngụm, nhưng cậu cảm thấy cha của Marika đang quan sát mình. Jake cố hết sức tỏ ra thờ ơ. Cậu không muốn ai biết chuyện cậu đã hiểu về nền văn hóa Maya khá nhiều. Họ nghi ngờ cậu vậy là đã quá đủ rồi.
Ăn xong thì Jake no đến nỗi phải ngả người dựa vào thành ghế. Bên phải cậu, cha Marika cũng ngả người ra và ợ một tiếng rõ to, to như tiếng những chiếc đĩa gỗ va vào nhau vậy.
Marika tỏ vẻ khó chịu trước hành động của ông.
Ngó lơ sự bực dọc của con bé; ông nháy mắt với Jake rồi đứng dậy. “Ta phải đọc một số sách cho nghiên cứu của mình trước khi ngủ. Mari, sao con không dẫn cậu Jacob về phòng cậu đi?”
“Cha à, trước khi dẫn bạn ấy về phòng, con dẫn bạn ấy đi xem Đài Thiên Văn nhé? Chắc bạn ấy sẽ thích quang cảnh nhìn từ trên đó xuống lắm.”
Thấy cha gật đầu rồi, Marika nhảy cẫng lên sung sướng rồi gần như lôi Jake ra khỏi ghế.
“Nhưng không được đụng vào thứ gì nhé, Mari.”
“Vâng, thưa cha.”
“Và không được ở trên đó quá lâu!” Cha nhỏ đi tới một cái cửa, mở cửa ra rồi vẫn còn cố quay lại nói với theo. Jake nhìn qua vai ông, thoáng thấy cái bàn làm việc chất đống cuộn cuộn, bó bó giấy da, còn trên kệ thì xếp đầy những sách vở giấy tờ.
Jake khao khát nhìn về phía thư phòng. Biết đâu, đâu đó trong đống sách kia có lời giải đáp về nơi cậu đang ở, bằng cách nào cậu đến được đây, và làm thế nào để có thể về nhà.
Marika kéo cậu ra phía cửa dẫn lên cầu thang xoắn ốc. Cậu chưa kịp định thần thì đã thấy mình đang trèo lên thang.
“Chúng ta đi đâu?” Cậu hỏi, cố nén một cái ngáp dài. Với cái bụng no căng cậu thấy cơ thể mình nặng nề gấp đôi bình thường.
“Rồi bạn sẽ thấy.”
Khi họ leo lên, một câu hỏi vẫn ám ảnh Jake. Vị sôcôla ấm nóng vẫn còn đọng lại trên môi cậu. “Mari này, ở Calypsos này làm sao các bạn làm ra ca cao được? Các bạn không cần có cây ca cao ở quê nhà hay sao?”
Con bé gật đầu, “Trong khi học cách trồng trọt những loài cây mới nơi vùng đất này, chúng tôi không hoàn toàn bỏ đi tất cả những phương thức cũ. Một vài người chúng tôi mang theo hạt giống và chúng tôi đã trồng chúng. Đó là một tục lệ, từ khi mới bắt đầu tạo dựng Calypsos. Mọi dân tộc sống chan hòa cùng nhau nhưng vẫn tự hào về quê hương của mình. Tất cả mọi người đều hy vọng một ngày nào đó sẽ được trở về nhà.”
Jake đã phần nào hình dung nên toàn cảnh thành phố, hiểu nơi này thêm một chút nữa. Thành phố không giống một cái vạc nấu chảy tất cả mọi thứ, mà giống một nồi hầm hỗn hợp nhiều nền văn hóa khác nhau hơn… và mỗi nền văn hóa lưu giữ lại sắc thái và đặc trưng riêng biệt.
Cho đến ngày được trở về nhà. Jake cũng hiểu rất rõ niềm mong ước đó.
“Tới nơi rồi,” Marika nói và nhanh nhảu bước lên những bậc thang cuối cùng.
Cả hai đã lên đến đầu cầu thang. Khi Marika bật cánh cửa trên cùng ra, một làn gió mát ùa vào người họ. Cái nóng bức ngột ngạt của ban ngày giờ đã lắng xuống thành buổi đêm dịu mát. Cơn gió nọ giúp xua đi cảm giác lờ đờ trong đầu Jake sau bữa ăn.
Jake bước lên đỉnh tòa tháp, mắt mở to. Bầu trời đầy sao – Jake chưa bao giờ thấy nhiều sao như thế. Cậu cố tìm những chòm sao quen thuộc, nhưng không có cái nào giống cả. Vốn kiến thức thiên văn học của cậu vẫn còn giới hạn. Lúc còn ở nhà, cậu bỏ nhiều thời gian tìm tòi phía dưới mặt đất hơn: tìm kiếm hóa thạch; nghiên cứu từ sách vở, cậu luôn luôn tìm kiếm manh mối trong đất cát hoặc bụi bẩn.
Tuy vậy, bầu trời đêm kia vẫn có một thứ không thể nhầm lẫn được. Một dải các ngôi sao lung linh vắt ngang bầu trời tạo thành một hình vòng cung lấp lánh.
“Dải Ngân Hà,” cậu thì thầm với chính mình. Cảm giác ấm áp dâng lên trong lòng cậu, một cảm giác của sự thân quen, của quê nhà.
Marika đứng sánh vai bên cậu, ngước nhìn lên. Nhỏ đưa một tay lần theo dải ánh sáng rực rỡ. “Sak be,” nhỏ nói bằng tiếng Maya.
Jake sực hiểu ra, tim cậu đánh trống liên hồi. Trên hai nửa đồng xu bằng vàng của cậu cũng khắc hai chữ này: Sak be, có nghĩa là con đường trắng.
Cậu nhìn lên bầu trời
Dải Ngân Hà… Đó chính là Con Đường Trắng của người Maya.
Marika tiếp tục, “Người ta tin rằng Con Đường Trắng chính là đường dẫn đến thế giới này. Đó là cách mà chúng tôi đã đến đây.”
Jake quan sát dải ánh sáng đó. Một phút trước nó còn mang vẻ quen thuộc ấm áp, giờ đầy vẻ lạnh giá và huyền bí. Ngón tay cậu vẫn bấu chặt sợi dây đeo quanh cổ. Ít ra Con Đường Trắng đã đưa Jake và Kady đến đây. Nhưng liệu Con Đường Trắng có thể đưa họ trở về không?
“Hàng đêm, cha mình nghiên cứu bầu trời; tìm kiếm lời giải đáp về thế giới và sự trôi chảy của thời gian.”
“Và cả đường về nhà nữa chứ?”
Marika gật đầu. Giọng con bé nhỏ dần. “Cha bỏ rất nhiều thời gian trên này. Đặc biệt là những năm gần đây.”
Marika hướng sự chú ý của Jake từ bầu trời sao xuống lại mái của tòa tháp. Bao quanh tòa tháp là một bờ tường bằng đá cao ngang vai, nhưng ở giữa là một mái vòm bằng đồng khổng lồ. Jake đã nhìn thấy mái vòm nọ từ dưới đất. Mái vòm to gấp đôi một gara để xe. Lớp đồng được đánh bóng loáng như gương. Ánh sao phản chiếu lấp lánh trên bề mặt mái vòm đồng chỉ bị vỡ một chút vì một khía nhỏ quanh đỉnh, nhìn hơi giống kim giờ của đồng hồ.
“Phòng Thiên Văn” Marika nói. “Đây là nơi cha mình làm việc vẽ sơ đồ chuyển động của mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Cha đã tiên đoán chính xác hiện tượng nhật thực xảy ra ngày hôm qua.”
Jake vừa tò mò vừa khao khát tiến lại chỗ cánh cửa sập trên mái vòm. Cậu phải vào trong mới được.
Nhưng cậu vừa bước lại gần thì một bóng đen bỗng lướt qua lấp đi ánh sao phản chiếu. Marika cũng kịp nhìn ra, nhỏ há hốc mồm kinh sợ.
Jake nghĩ ngay tới con quái vật có cánh grakyl. Chẳng lẽ con quái vật nọ đã lùng ra bọn cậu?
Jake kéo Marika về phía cánh cửa cầu thang. Cả hai đứa ngẩng mặt nhìn theo cái bóng lớn đang quần quanh đỉnh tháp, chao nghiêng cánh. Ánh trăng rọi vào nó, rõ ràng đó không phải là con grakyl. Nó to hơn nhiều – và có bộ lông đen tuyền. Con vật xếp cánh và bổ nhào xuống. Nó xếp cánh hãm đà lại rồi nặng nề đáp xuống. Nó đậu trên phần tường nhô cao bao quanh tòa tháp.
Marika không thèm núp nữa. “Đó là một trong những trinh sát của Calypsos.”
Con vật cúi đầu xuống, trên lưng nó là một chàng thanh niên ngồi trên yên. Anh ta thuần thục tháo mớ dây buộc bảo hiểm quanh yên ra, bế xốc người hành khách ngồi phía sau lên rồi nhảy xuống đỉnh tháp.
Người trinh sát nọ loạng choạng bước được hai bước về phía tụi nhóc, nhưng rồi anh khuỵu xuống vì kiệt sức. Anh ta để người hành khách nằm sõng soài trên nền đá.
“Gọi người giúp…” người trinh sát thều thào.
Marika quay ngược về cửa thang. Bên dưới vọng lên tiếng xôn xao. Ai đó đã thấy anh trinh sát nọ đáp xuống và đang trên đường lên giúp. Marika quay sang Jake. “Bạn ở lại đây nhé.”
Nhỏ tao đi, phóng vội xuống cầu thang như một con thủ nhỏ đang kinh hồn bạt vía. Jake ở lại xem có giúp gì được không.
Con thiên điểu nọ vẫn còn đậu trên bờ tường, há hốc mỏ, thở hồng hộc, có vẻ mệt không thua gì chủ. Con chim khổng lồ có vẻ khỏe lắm, dám hất được cả một con bò văng ra xa chứ chẳng chơi.
Anh trinh sát xích lại gần thân người sõng soài trên nền đá, Jake cũng tiến lại gần, nhận ra đó là một cô gái. Cô mặc loại áo tunic dài và quần bò màu xanh, chân mang đôi ủng cao đến tận đầu gối. Cách ăn mặc của cô giống hệt như vị trưởng lão người Viking, người đã đưa Kady đi. Mái tóc vàng xác nhận chắc chắn cô chính là một chiến binh của Astrid Ulfsdottir. Jake nhớ lại cuộc trò chuyện về những nữ thợ săn mất tích.
Có vẻ họ đã tìm thấy một người đây.
“Đến đây nào, cậu bé”, người trinh thám ra lênh bằng giọng đanh thép và kiên quyết. “Ở đây với nàng ấy.”
Jake nhanh nhảu tiến lại, ngồi xuống, quỳ cạnh vạt áo choàng của cô ta. Người trinh sát đứng đậy, bước lại chỗ con vật của mình. Anh giơ tay khẽ vuốt cho nó dịu lại; rồi đi lại chỗ máy bơm nước bằng tay, lấy một xô để bên dưới. Đầu anh ta bám đầy lông; trùng màu lông với con chim nọ. Nhìn nét khắc khổ trên gương mặt rám nắng, Jake đoán anh ta là một thổ dân châu Mỹ.
Anh ta chìa xô nước cho con chim khổng lồ uống rồi đưa tay vuốt ve nó. Jake hướng sự chú ý trở lại cô gái. Cô mở mắt, nhưng Jake nghĩ là cô chẳng nhìn thấy gì. Cô thở khe khẽ, bờ ngực nhấp nhô, còn ngoài ra thì hoàn toàn bất động. Không nháy mắt, không co duỗi. Ngay cả khi Jake chìa tay nắm lấy bàn tay để cô biết có người đang ở bên, cô cũng chẳng phản ứng gì.
Trên vai cô găm một mũi tên đính lông vũ, máu thẫm lại quanh lớp áo gần mũi tên. Jake với tay về phía mũi tên, và…
“ĐỪNG CHẠM VÀO!” Một tiếng la thất thanh khiến Jake sững lại.
Tiếng nói phát ra từ phía cầu thang. Jake quay lại, thấy Quốc sư Zahur vừa lướt lại như con quạ đen, áo chùng bay phần phật sau lưng. Dưới ánh sao, những hình xăm đỏ trên trán ông như rực rỡ hơn.
Quốc sư Zahur ngồi sụp xuống nền đá, xua Jake đi như đuổi ruồi. Marika vừa quay lại với cha mình. Quốc sư Balam ngồi xuống cùng vị đồng sự. Quốc sư Zahur bắt đầu chẩn đoán. Ông chạm tay vào cổ họng và môi của cô gái, rồi cúi thấp xuống kiểm tra đồng tử.
Người trinh sát lại gần. “Tôi tìm thấy nàng ấy với hai người em gái bên kia của Ngọn Núi Xương. Hai em đó phải cáng theo nàng ấy, mà hai em thậm chí còn không tự đứng vững nổi nữa. Đoàn trưởng của tôi đã đưa hai em về Bomholm nhưng lệnh cho tôi đưa nữ thợ săn này về đây, xem còn hy vọng gì không.”
“Đó là nữ Thợ săn Livia.” Quốc sư Balam nói giọng đanh thép.
Marika đến gần Jake. Mặt nhỏ đầy vẻ âu lo. “Đó là em ruột của Trưởng lão Ulfsdottir. Cô ấy và mẹ tớ từng rất thân nhau, cô thường hay đọc truyện cho tớ nghe.”
“Chúng ta phải đưa cô ấy xuống phòng tôi ở dưới lầu,” Quốc sư Zahur nói, giọng ông đấy thịnh nộ. “Tất cả thuốc bôi trị thương của tôi đều ở dưới. Nhưng mà vấn đề đầu tiên là đầu mũi tên vẫn còn ghim trong da thịt cô. Chúng ta phải lấy nó ra. Ngay bây giờ.”
Thầy Balam quay về phía Jake và Marika. “Giúp cha một tay.”
Mấy vị quốc sư xoay cô gái nghiêng về một phía. Jake đỡ lấy đầu cô, còn Mari đỡ phần hông để giữ yên thân người.
Thầy Zahur nắm chặt lấy mũi tên đính lông vũ. “Tôi phải đẩy đầu của mũi tên đi xuyên ra vai cô ấy – sau đó ta có thể bẻ đầu mũi tên ra.” Thầy Zahur nhìn Jake. “Đừng có đụng vào đấy!”
Thầy Balam giữ chặt một bên cô gái, thầy Zahur siết chặt tay lại quanh mũi tên. “Nào!” Ông hổn hển, thọc mạnh mũi tên vào.
Đầu mũi tên bung ra từ sau lưng cô. Trong một khoảnh khắc, Jake thầm nghĩ đầu mũi tên nọ trông rất giống nanh rắn độc, đang sẵn sàng lao tới. Nhưng Jake chớp mắt nhìn lại thì chỉ thấy một đầu mũi tên đen ngòm như một mẩu đá vỏ chai, đen như thứ bóng đêm tăm tối nhất.
“Nhanh lên nào!” Thầy Zahur rít lên.
Thầy Balam rút từ trong túi ra một cái que ngắn. Một đầu que trông như đang bốc cháy, nhưng Jake nhìn kỹ lại thì thấy thật ra ở một đầu que là một khối ngọc nguyên chất.
Thầy Balam đưa khối ngọc chạm vào đầu mũi tên. Liền sau dó, một tiếng gào thét xé toang màn đêm vút lên trời. Thân thể cô gái mềm nhũn ra trong vòng tay họ, nhưng tiếng thét không phát ra từ cổ họng cô gái. Jake biết chắc là vậy vì nãy giờ cậu vẫn giữ phía đầu cô. Tiếng gào thét phát ra từ đầu mũi tên.
Thầy Balam lùi lại. Jake thấy đầu cây que không còn đen kịt nữa mà trở nên trong veo. Thầy Balam lẹ làng nắm lấy túm lông vũ rồi bẻ đầu mũi tên đi.
Zahura đỡ cô gái nằm xuống. Cô lại trở nên mềm nhũn. Đôi mắt cô nhắm nghiền, nhưng hơi thở đã đều hơn.
“Nàng ấy sẽ qua khỏi chứ?” Anh trinh sát hỏi.
“Bây giờ thì chưa nói được điều gì” thầy Balam trả lời. “Cô ấy bị nhiễm độc huyết thạch. Và rất có thể những mảnh vụn nhỏ vỡ ra từ đầu mũi tên vẫn ở trong cơ thể.”
Vị quốc sư người Anh hốt hoảng xuất hiện, cắt ngang câu chuyện. Ông nặng nề bước qua cánh cửa. “Tôi nghe… tôi có giúp gì được?”.
“Bình tĩnh đi nào, OsWin.” Thầy Balam bước lại, cho vị quốc sư béo tròn nọ xem đầu mũi tên gói trong mảnh da. “Chúng tôi vừa lấy nó ra.”
Mặt Oswin tái nhợt đi, nhưng ông ta vẫn cố với lấy đầu mũi tên. “Chúng ta phải khám nghiệm nó trước khi thứ thuật bên trong tan đi.”
Zahur lao đến nhanh như cắt, “Các ngài điên à? Phải tiêu hủy nó đi.”
“Nhưng nó có thể giúp ta tìm hiểu về huyết thạch…” Những câu tiếp theo nhỏ dần; trở thành mấy lời trao đổi thì thầm khẩn trương giữa ba vị quốc sư.
Jake không nghe được họ nói gì với nhau. Cậu đỡ cô gái dậy, thấy môi cô động đậy rất khẽ. Cậu cúi lại gần, áp sát tai vào, nghe được ba chữ lặp đi lặp lại nhẹ như hơi thở.
“Hắn đang đến… hắn đang đến… hắn đang đến…”
Đột nhiên cô choàng mở mắt rồi nhìn chằm chằm vào mắt Jake, nắm chặt tay nó. “Cứu tôi với…”
Jake chưa kịp phản ứng gì thì cô lại ngã xuống như cũ, mắt nhắm nghiền, môi khép chặt, không còn biết gì xung quanh.
Không ai biết chuyện gì vừa xảy ra. Zahur dứt ra khỏi mọi người, bước lại bên nữ thợ săn. “Thôi đủ rồi.” Ông chỉ tay vào người trinh sát. “Giúp tôi đưa cô ấy xuống! Tôi sẽ thuốc thang hết sức để cứu chữa.”
Jake đứng dậy. “Nhưng cô ấy…”
Zahur hích cậu sang một bên. Anh trinh sát và ba vị quốc sư dùng ngay chính áo choàng của nữ thợ săn làm cáng đưa cô xuống.
Cha Marika gọi, “Mari, dẫn Jacob về phòng ngủ đi. Đêm nay vậy là đủ lộn xộn lắm rồi.”
Marika gật đầu. Jake bước tránh sang bên, chờ cho cả toán người đi xuống cầu thang. Cậu bước lại chỗ lan can, nhìn bao quát khắp Calypsos. Cậu nhận ra con đường chính uốn lượn từ tòa lâu đài chạy dài ra cổng chính. Thật yên bình và tĩnh lặng. Nhưng chỉ cần quay người lại là thấy những giọt máu tươi chưa kịp khô trên đá, sự yên bình này chỉ là một thứ ảo ảnh lừa mị mà thôi.
(Hắn đang đến… hắn đang đến… hắn đang đến…
Jake nghĩ đến đôi mắt xanh trong sáng của người nữ thợ săn. Trong một chớp mắt ngắn ngủi, cô khiến Jake nhớ ánh mắt mẹ da diết, ánh mắt vui vẻ, trong sáng và ngập tràn tình yêu thương. Ánh mắt cậu chẳng bao giờ gặp lại được nữa.
(Cứu tôi với…
Jake rùng mình. Cậu không đủ sức cứu mẹ mình, nhưng cậu thầm nguyện rằng sẽ làm bất cứ điều gì có thể để cứu cô gái ấy. Nhưng bằng cách nào? Cậu chẳng biết gì về thế giới này. Cậu tuyệt vọng hướng mắt về phía niềtm hi vọng cuối cùng của mình.
Con rồng đá bồng bềnh trên khu rừng đen tối kế bên, ánh trăng bàng bạc soi tỏa xuống. Con rồng quay về phía rìa của thung lũng, như đang đề phòng những kẻ xâm nhập.
Jake cảm thấy câu trả lời vẫn đang lẩn khuất nơi đó. Nhưng liệu cậu có thể tìm được kịp thời không?