Jake Ransom Và Chúa Sọ

CHƯƠNG 13: TỘC NGƯỜI ĐÂU TIÊN



Jake quay trở ra ngoài phố, cậu đứng dưới mũi con tàu chiến của người Viking. Cậu nhìn Marika với Pindor. “Giờ sao nữa đây?” Jake cứ nghĩ phải mất cả buổi mới lôi được Kady ra khỏi giường. Tưởng vậy mà không phải vậy. Mọi chuyện cứ bình thường. Kady lại trở thành trung tâm của sự chú ý. Jake thấy vừa bực bội vừa nhẹ nhõm. Cậu đứng bên lề đường, không biết phải làm gì, không biết bắt đầu cuộc điều tra từ đâu.
“Chúng tớ sẽ dẫn bạn đi thăm thú nhiều nơi ở Calypsos,” Marika trả lời.
“Tớ đề nghị mình ra chợ đi,” Pindor bảo. Nó ngước nhìn lên trời, xoa xoa bụng. “Tớ đang đói chết đây này.”
“Bạn mới ăn mà?”, Marika bảo.
“Từ hồi lâu rồi”.
Marika chớp mắt. “Giờ ta cứ đi thăm thành phố được đến dâu hay đến đấy.
Marika dẫn cả bọn đi băng qua mấy con phố. Nơi nơi tràn ngập một niềm hứng khởi như có một dòng điện góp từ sự hối hả ngược xuôi của mọi người, từ những tiếng cười nói rôm rả tỏa ra xung quanh. Bên ngoài một ngôi chùa Trung Hoa, có mấy đứa bé nhỏ xíu đang tập gõ thanh la.
“Ngày xuân phân sắp đến rồi,” Marika giải thích. “Chỉ còn hai ngày nữa thôi. Thành phố tổ chức lễ hội và yến tiệc linh đình để chào đón dịp này.”
“Và đó cũng là ngay diễn ra Olympic!”, Pindor reo lên bằng giọng phấn khởi hiếm có. Trận chung kết sẽ quyết định xem tộc người nào giành được Ngọn Đuốc Vĩnh Cửu của năm. Lại đây mà xem!”
Pindor háo hức chạy đến. Có một vài gia đinh đã cắm trại ở cái công viên nhỏ ở bên ngoài tường thành lâu đài. Pindor vượt qua chỗ họ, chạy lại chỗ gờ một bức tường nhô ra, từ đó có thể nhìn bao quát cảnh vật. Nó chỉ về phía mạn bắc thành phố.
Một cái sân vận động lớn xây băng đá, nhìn như một đại hí trường La Mã thu nhỏ, vươn đến tận rìa núi lửa của thung lũng, một mặt tựa vào bờ núi dốc.
“Đó cũng là nơi để diễn kịch và văn nghệ”, Marika thêm vào. “Chứ không phải chỉ có cãi cọ và tranh giành.”
Jake để ý bên phải hí trường có một nhóm người. Bên sườn núi cạnh sân vận động nọ, có mấy ngôi nhà ăn vào lòng vách đá cheo leo. Nơi ngôi nhà cao nhất, một biệt đội mãnh cầm khổng lồ vừa tung cánh vút lên khỏi mặt đất thành phố theo một đội hình nghiêm ngặt hình chữ V.
“Người Cánh Bay”, Marika hướng mắt theo cùng quan sát với Jake, nhỏ thốt lên. Giọng nhỏ tràn ngập hứng khởi. “Họ là tộc người duy nhất biết cách thuần hóa loài chim Raz có đôi cánh khổng lồ này. Họ chăm mớm chim non từ khi chúng vừa chui ra khỏi trứng, gắn bó chim non cùng những dứa trẻ nhỏ xíu trong bộ tộc. Chúng lớn lên thân thiết còn hơn anh chị em ruột thịt.”
Một vài nhóm nữa lướt qua, Jake hình dung lại người trinh sát đáp xuống đỉnh tháp hôm qua, anh ta mặc đồ may bằng da thú, đội một chiếc mũ lông chim. Dĩ nhiên, bản thân tộc người đó không tự xưng là người Anh điêng hay người bản xứ châu Mỹ. Chính những người ngoài áp đặt những cái tên dó lên họ.
Jake nhìn lên trời, thêm vài con mãnh cầm nữa bay ngang, chúng cưỡi trên luồng khí ấm tỏa ra từ những khe núi lửa, sải cánh lên cao. Người Cánh Bay. Cái tên mới hợp làm sao.
Ba đứa dõi theo những cánh chim bay ngang bầu trời, băng qua thành trì. Rốt cuộc thì cả bọn cũng đi hết, Marika hơi choáng váng. “Trễ rồi đấy. Chúng ta nên về nhà thôi.”
Jake ngoái đầu lại nhìn phía vách đá, nhưng cậu bỗng để ý một bóng đen cắt qua rìa mấy bụi cây. Một bóng đen từ tốn lướt qua trạm gác trên vùng đá, chụp lấy một mẩu xương mấy người đi cắm trại bỏ lại rồi lại lao vào bụi rậm. Rồi bỗng dưng nó sững lại nơi rìa bụi rậm đó, chăm chăm nhìn thẳng lại Jake.
Đôi mắt mèo ánh sắc vàng lóe lên trong ánh nắng xiên khoai.
Con Rhabdofelix! Chính là con Jake đã thả ra. Vậy là nó đã thoát được, và còn kiếm được nơi có nhiều thức ăn thừa nữa chứ.
“Này, nhìn xem…” Jake quay qua định chỉ Marika, nhưng con linh miêu đã mất hút.
“Gì vậy?” Pindor hỏi.
Jake lắc đầu, vẫy tay bảo hai đứa kia cứ đi tiếp. “Không có gì cả”.
Cả bọn đi vòng qua bức tường thành ra cổng chính. Pindor tạm biệt Jake và Marika, hai đứa băng qua sân trời, bước vào khuôn viên lâu dài.
Marika không nói không rằng, như dang nghĩ gì lung lắm, nên Jake cũng không nói gì mà lặng lẽ cùng con bé leo lên ngọn tháp. Bọn cậu đi tới đầu cầu thang; Marika tra chìa khóa vào ổ, mở cửa vào nhà, rồi cũng chịu mở miệng, “Tớ tự hỏi không biết nữ Thợ săn Livia…”
Jake bỗng điếng người, ra hiệu cho Marika im lặng. Vừa bước vào phòng, cậu lập tức nhận ra không phải chỉ có bọn cậu trong phòng. Một thắng bé, có lẽ nhỏ hơn cậu một tuổi, đang đặt một tô trái cây lên bàn. Jake nhìn thằng nhỏ lạ mặt chằm chằm. Thằng nhóc nhìn lại – rồi vội vàng rút vào cánh cửa hẹp bên hông. Nó biến vào đó rồi dóng sập cửa lại sau lưng. Trước khi cửa đóng, Jake thoáng thấy mấy bậc thang tí hon đằng sau cánh cửa, nhìn giống cầu thang cho một gia nhân bí mật nào đó.
Marika trân trối nhìn phản ứng kinh hoàng của Jake. “Đó là Bach’uuk. Nó phụ trông nhà thôi mà.”
Jake hình dung lại gương mặt thằng bé lạ mặt trong đầu. Thằng bé nọ có xương gò má cách xa nhau, chân mày gồ; nhô lên từ phần trán rất dốc. Mái tóc đen, lòa xòa như rễ tre phủ hơn nửa trán. Trước khi lao đi, thằng bé còn kịp chăm chắm dán cặp mắt xanh biếc vào Jake, như thể để nhận diện cậu vậy.
Còn riêng Jake thì nhận ra thằng nhóc này, chắc như ăn bắp… hoặc ít ra, cậu biết chắc thằng nhóc này thuộc tộc người nào. Jake dám đoan chắc là vậy.
Bach’uuk… là một người Neanderthal.
( (Neanderthal là một giống người cổ biết chế tạo công cụ, từng sống ở châu Âu, Cận Đông, Trung Á, Bắc Phi và có thể cả phía tây Siberia cách đây hơn 100-000 năm và tuyệt chủng khoảng 30.000 năm trước. Họ có những đặc điểm nổi bật khác với người hiện đại, như khung đầu lớn, mặt nhô về phía trước, cơ thể nạng nề và đôi chân khá thấp nhưng mạnh mẽ, cho thấy một lối sống vất vả, phải dùng nhiều sức lực).
“Họ tự xưng là người Ur,” Marika vừa giải thích vừa đưa Jake lại ngồi xuống bàn.
Nhỏ bắt cậu ngồi xuống, chỉ cậu cách lột vỏ một loại trái cây trên bàn. Nhìn nó giống chuối, nhưng hình dạng thì xoắn giống cái ruột gà mở nút chai. Phải cẩn thận mới lột vỏ nó được. Marika gọi đó là trái kwarmabean, nhưng vị của nó không giống chuối cũng chẳng giống đậu mà hơi giống một trái đào chín rục.
Marika vản còn hơi nhăn nhó trước phản ứng hoảng hồn của Jake, nhỏ hiểu lầm hoàn toàn. “Đừng sợ, người Ưr nhìn kì dị thât đấy, nhưng họ hoàn toàn hiền lành, vô hại.”
Jake gật đầu mà đầu óc thì quay cuồng. Vậy là không chỉ những tộc người – Homo sapiens – bị đưa đến thế giới này. Những giống người cổ sơ hơn cũng bị bốc khỏi quê nhà của họ và cầm tù ở đây.
“Họ là những con người giản đơn,” Marika tiếp lời. “Mặc dù thuật đã tạo ra một tiếng nói chung cho tất cả chúng ta, nhưng người Ưr vẫn rất hiếm khi cất tiếng, và khi nói thì họ chỉ dùng những từ đơn giản nhất và làm điều đó rất chậm. Cha cho rằng tâm trí họ vẫn còn mờ mịt, nhưng bù lại họ rất khỏe mạnh và biết tuân theo những mệnh lệnh đơn giản.”
Jake vờ lột vỏ một quả kwarmabean khác để che giấu cảm xúc của mình. Cậu không phản đối Marika, nhưng cậu nhớ là hiện tại thì các nhà khảo cổ học, như cha và mẹ cậu, đều cho rằng người Neanderthal cũng thông minh như con người hiện đại vậy.
Marika nói tiếp, nhỏ có vẻ hơi trầm tư về những điều đang đề cập. “Nhưng hồi mùa hè năm ngoái, có một nhóm học giả người Sumer đột nhập vào những hang động trên vách đá của người Ur. Khi trở về, họ có mô tả về những bức tranh tường cực kì sắc sảo.” “Do người Ưr vẽ hả?”
Marika gật đầu. “Một ngày nào đó tớ muốn đến thăm những hang đá đó. Những học giả nọ kể lại rằng những bức tranh nọ vẽ hình những con quái thú họ chưa thấy bao giờ. Mà cũng đúng, người Ưr là tộc người đầu tiên đến thung lũng này, hẳn là họ đã từng thấy nhiều quang cảnh lạ lùng lắm.”
Jake chú ý trở lại. “Họ là những người đầu tiên sao?”
Marika sờ sờ căm suy nghĩ. “Người ta kể rằng họ đã ở đây từ rất sớm, trước bất kì người nào khác đặt chân đến. Những câu chuyện xưa của Calypsos kể rằng người Ur xưa sinh sống trong bóng ngôi đền Kukulkan vĩ đại thuở ban sơ chính họ đã chào đón những kẻ lạ mặt chúng ta đến với vùng đất khắc nghiệt này, đặt viên gạch đầu tiên xây dựng nên Calypsos. Và đến giờ họ vẫn còn giúp chúng ta nhiều lắm. Họ phục vụ ở Kalakryss và khai thác ngọc thô trong đá để sử dụng cho thuật giả kim của chúng ta.”
Jake trân trối nhìn cái cánh cửa hẹp ban nãy, cậu nhớ lại tối qua thức ăn được dọn sẵn, quần áo cậu được giặt thơm tho rồi để lại chỗ cũ. Có phải người Neanderthal đã trở thành một dạng người hầu kẻ hạ, hoặc tệ hơn, một thứ nô lệ lao động không? Ý nghĩ sau cùng khiến hình dung của Jake về một Calypsos hiền hòa lu mờ đi rất nhiều.
Marika thở dài. “Nhưng mà phần lớn người Ưr vẫn cứ ở lì trog những hang động của họ. Họ rất kín tiếng và ngại ngùng. Nhà của họ cũng nằm ở phía bên kia vách đá, quay mặt về hướng khu rừng tối. Bạn không việc gì phải sợ Bach’uuk cả. Nó và cha nó đã làm việc cho gia đình tớ nhiều năm qua rồi. Khi mẹ tớ bệnh… mẹ tớ…”
Giọng Marika bỗng trở nên đuối dần. Nhỏ lắc lắc đầu rồi bỗng trở nên cực kì tập trung vào trái kwarmabean. Cửa trước bỗng loạch xoạch đó, nhỏ thế là thoát, khỏi phải nói gì nữa.
Chiếc chìa khóa xoay trong ổ, cửa bật mở. Tiếng nói vang vọng vào trong mà người thì vẫn còn ngoài ngưỡng cửa.
“Nhưng ta không thể làm thêm được gì nữa đâu Oswin.” Đó là giọng của cha Marika, nghe giọng ông có vẻ mệt mỏi và ưu phiền lắm.
“Nhưng chúng ta thừa biết là vẫn còn những mẩu huyết thạch trong vết thương ở vai cô ấy, nếu không thì giờ cô ấy đã tỉnh rồi. Nếu chúng ta có thể thu nhặt vài mẩu huyết thạch, thử xem xét chúng, có thể chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về mối hiểm họa ta phải đương đầu.”
“Nguy hiểm lắm, cho cả Livia và Calypsos. Huyết thạch sẽ hủy hoại tất cả mọt thứ và hại đến tất cả mọi người xung quanh.”
‘”Nhưng chúng ta không thể sống mãi trong bóng tối thế này, không thể khi bóng tối đang đe dọa ập lên thung lũng chúng ta. Zahur thì cứ thận trọng quá đáng. Có lẽ là cố tình như vậy.”
Im lặng một lúc lâu, rồi thầy Balam kiên quyết nói, “Anh không thực sự tin vậy chứ, Oswin?”
Một tiếng thở dài thườn thượt theo sau. Marika và Jake nhìn nhau. Hai đứa không nên nghe lén thế này, nhưng cả hai vẫn ngồi yên tại chỗ.
“Tôi cũng không muốn tin vậy. Nhưng tôi cũng không bao giờ quên rằng từng có thời anh ta là môn đệ của Kalverum.”
“Phải, nhưng tất cả chúng ta đều từng có lúc này lúc khác nghiên cứu dưới trướng hắn ta mà.”
‘’Con những thí nghiệm của Zahur thì sao?” Vị tu sĩ Anh quốc nhấn mạnh bằng giọng thẽ thọt. ‘’Anh ta dùng những căn hầm của Kal. Anh ta lam trò gì đó với mấy con thú nhốt trong chuồng, hành tung rất giống tên quái vậy ấy?”
“Đó là vì anh ta học thuật chữa trị mà, phương pháp nghiên cứu đòi hỏi phải thế. Anh cũng biết thuật chữa trị đã tổn hại đến mức nào sau khi Kaiverum bị trục xuất mà.”
“Phải rồi, phải rồi, tôi biết anh đúng rồi;” Oswin thừa nhận. Chắc ngủ ít quá nên tôi trở nên bi quan, hồ đồ mất rồi. Tôi chỉ cầu cho Zahur tiến hành mọi chuyện nhanh nhanh một chút. Tôi có thể cảm thấy áp lực thời gian đang đè nặng lên chúng ta. Những lời thằng bé kia tình cờ nghe thấy. “Hắn đang đến”. Chúng ta không thể cứ ngồi lực bất tòng tâm thế này được.”
“Tôi hiểu mà Oswin. Và tôi cũng đánh giá rất cao những phuơng pháp nghiên cứu của anh. Nhờ những thí nghiệm táo bạo đó của mình mà anh đã khám phá ra rất nhiều thuật thiết thực, nâng cao đời sống của chúng ta rất nhiều, nhưng ở đây tôi đồng ý với anh. Cho dù phải trả giá bằng cái chết của Thợ săn Livia thì chúng ta cũng phải thận trọng khi dây dưa đến huyết thạch, dù chỉ là những mẩu nhỏ.”
“Tôi hi vọng anh đúng, bạn thân mến à,” Oswin nói. “Tôi thấy bóng tối đang chực chờ phía trước ta rồi.”
“Và trong bóng tối;” Balam nghiêm trang nói, “chúng ta phải tin ở ánh sáng.”
Một tiếng cười khe khẽ mệt mỏi vang lên, xóa đi căng thẳng nãy giờ. “Anh chơi không đẹp tí nào, còn trích dẫn cả lời thơ tôi nữa chứ!”
“Ông là người tài mà.”
Thêm một tiếng thở dài, “Hình như là tài hơn con trai ông ta.” Sau đó là mấy lời lẩm bẩm tạm biệt – rồi cánh cứa hé mở rộng hơn. Marika ngồi vặn vẹo trên ghế, vờ tỏ ra cực kì chú tâm lột vỏ một trái kwarmabean trong tô.
Thầy Balam bước vào phòng. Đôi lông mày thầy nhíu lại kinh ngạc khi nhìn thấy hai đứa. “A, tụi con về rồi hả.” Thấy nhìn ra cửa rồi quay lại nhìn về phía cái bàn. Thầy đưa tay vuốt vuốt tóc, nhưng kết cuộc chỉ làm nó rối bù hơn. “Vậy là tụi con nghe hết rồi hả?” “Con xin lỗi cha”, Marika nhìn thẳng vào mặt cha nhỏ, bảo. “Nhưng có phải thật vậy không cha? Livia sẽ chết thật ư?”
Thầy Balam dịu dàng nựng má con gái, rồi bước sang ngồi bên cạnh. Jake thấy thoáng ngập ngừng trên gương mặt thầy khi thầy đi vòng sau lưng Marika, thầy không biết có nên cho nhỏ biết sự thật hay không. Cuối cùng, thầy quay lại nhìn thẳng vào mắt con gái mình.
“Phải” thấy nói. “Chỉ là vấn đề thời gian thôi. Chúng ta không thể làm gì được nữa.”
Gương mặt Marika tái nhợt đi, rồi nhỏ gật đầu, đứng dậy, nhỏ ôm chầm lấy thầy. Thầy vòng tay ôm lại nhỏ.
Jake bỗng thấy ngực mình đau nhói, cậu bỗng nhớ cha mẹ mình lạ lùng đến nỗi cậu như không thở được nữa.
Hai cha con rời nhau ra. Marika níu một bên tay áo của cha, “Cha ơi, cha chẳng chịu ngủ tí nào cả. Cha phải đi tắm rồi nghỉ ngơi một chút chứ.”
Thầy Balam liếc nhìn cánh cửa thư phòng. “Nhưng cha còn nhiều việc…”
“Việc có chạy đi đâu mà vội, cha cứ nghỉ một lúc.” Nhỏ lôi cha đi, hệt như một người mẹ với đứa bé ngang bướng vậy. “Để con pha nước tắm cho cha. Lát tới giờ ăn tối con sẽ đánh thức cha dậy.”
Thầy Balam cứ để mặc cho Marika kéo mình ra đằng cầu thang.
Cả hai đi rồi, chỉ còn Jake vẫn ngồi nguyên ở bàn – nhưng giờ thì cậu chuyển qua ngắm nghía cửa thư phòng. Cậu nhớ trong đó có hàng chồng chồng giấy, hàng cuộn cuộn giấy da, rồi quá chừng sách vở nữa. Không biết cậu sẽ học gì nữa?
Jake chưa kịp ý thức chuyện gì thì đã thấy mình đứng dậy rồi. Cậu không có nhiều thời gian. Cậu vội vã chạy tới trước cửa, thử đẩy chốt. Không khóa. Cánh cửa cọt kẹt khe khẽ rồi mở ra, Jake nhăn nhó. Cậu tự nhủ vậy cũng đâu có gì là ầm ĩ lắm, rồi lách qua khe hở bước vào thư phòng.
Căn phòng hình rẻ quạt, tỏa rộng về phía hai cánh cửa sổ nhìn xuống thành phố. Dưới hai cánh cửa sổ là một cái bàn. Hai bên bàn là mấy kệ sách kê cao đến tận xà nhà, ken đặc những quyển sách và những cuộn giấy da đầy bụi bặm. Có một chỗ chất đầy mấy thứ linh tinh: cái sọ của một con thú nào đấy treo trên dây đồng, một mớ đá bóng loáng xếp thành một hàng ngay ngắn, một bộ sưu tập những khối gỗ nho nhỏ chạm khắc hoa văn trang trí của người Maya. Cảm giác khi bước vào thư phòng này thật giống như khi bước vào trong một Ngăn Khám Phá hồi còn ở nhà, lâu đài vùng bắc Hampshire của gia tộc cậu.
Nhưng Jake không có thời gian để tham quan.
Cậu băng tới chỗ cái bàn; xem xét mà không đụng vào bất cứ thứ gì. Những chồng sách chất cao đến tận vai Jake, cậu sợ sẽ làm đổ chúng mất. Nhưng Jake bỗng chú ý đến một quyển sách đang mở toang để trên bàn giấy. Bìa sách làm bằng gỗ, những trang giấy thì dày cộm và thô cứng.
Quyển sách là một trong những quyển sách chép tay hiếm có của người Maya, một trong những quyển sách vĩ đại chứa những tri thức cổ xưa. Thực dân Tây Ban Nha đã đốt sạch những quyển sách này hàng mấy thế kỷ về trước. Chỉ còn một vài quyển còn lại trên thế giới.
Jake chúi đầu vào quyển sách đang mở. Trong trang sách là bản đồ thung lũng. Một vòng tròn nguệch ngoạc đánh dấu chóp núi lửa, ở giữa vòng tròn phác thảo sơ sài hình kim tự tháp. Từ đỉnh ngôi đền, một hình xoắn ốc cách điệu uốn lượn mở rộng ra ngoài, chạm vào rìa thung lũng ở bốn điểm.
Bắc, nam, đông và tây. Jake cúi sát hơn.
Điểm phía tây có hình một cổng vòm vẽ đè lên. Mặc dù hình vẽ rất sơ sài nhưng Jake vẫn nhìn ra đó chính là Cổng Vỡ, hơn thế nữa, đó là hình ảnh chiếc Cổng Vỡ trước khi bị phá. Hình vẽ cổng vòm ở điểm phía đông có vẻ quen quen. Đó là hình con rắn hai đầu uốn thành hình số tám.
Mặc dù đó chỉ là phác thảo sơ sài, Jake vẫn nhận ra ngay. Cậu rối lắm. Cậu vội vội vàng vàng moi trong túi áo ra quyển sổ nhật ký hành trình của cha. Cậu lật ra trang đang đọc dở trong Bảo tàng Anh quốc.
(Từ cách cuộn xoăn hình số 8, di vật rõ ràng tượng trưng cho tín ngưỡng của người Maya vào bản thể bất diệt của vũ trụ.
Jake nghe giọng cha mình âm vang khi dõi theo dòng chữ, cùng lúc, cậu mường tượng lại vật tạo tác trong bảo tàng khi đó, con rắn bằng vàng ròng với đôi mắt hồng ngọc, nó là một món cổ vật trong cuộc khai quật của cha mẹ cậu.
Jake nuốt nước bọt, cậu trân trối nhìn tấm bản đồ. Hình vẽ đánh dấu ngay cổng phía đông thung lũng đúng là hình món cổ vật đó. Sao lại thế được? Đầu óc Jake quay cuồng. Cậu chỉ có thể nghĩ ra một giải thích duy nhất: có một ai đó đã trông thấy cổng vòm này rồi quay trở lại thế giới kia kể về nó.
Jake bỗng thấy tràn ngập hi vọng. Cậu chăm chú quan sát hình kim tự tháp ở trung tâm tấm bản đồ thô sơ. Cậu đoán hình vẽ xoắn ốc tượng trưng cho trường lực bảo vệ cho thung lũng này.
Cậu phải tìm hiểu thêm mới được.
Tiếng sột soạt sau lưng khiến cậu giật thót. Cậu quá chú tâm vào những điều cậu vừa khám phá ra, đến nỗi quên béng mất đã vào đây lâu quá rồi. Nếu Marika phát hiện ra cậu đã đột nhập vào đây…
Jake quay đầu lại, thấy bóng một người đứng ở cửa. Không phải Marika mà là thằng bé người Neanderthal – Bach’uuk đang đứng trước lối dẫn vào thư phòng, vẻ mặt Bach’uuk vẫn bình thản, chẳng hề tỏ ra kinh ngạc khi thấy Jake đột nhập vào đây thế này. Thằng bé chỉ nhìn. Rồi Bach’uuk quay đầu bước ra bàn ăn bên ngoài. Thằng bé đang bày biện mấy món ăn ra.
Jake theo Bach’uuk ra ngoài, đóng cửa thư phòng lại. “Tớ chỉ nhìn thôi”, Jake lẩm bẩm. Bach’uuk chẳng để ý gì đến cậu.
Một lát sau trên lầu vọng xuống tiếng Marika. “Cha, chừng nào bữa tối dọn xong con sẽ gọi cha xuống.” Marika lục đục đi xuống. “À, Bach’uuk, để chị phụ em một tay.” Marika đỡ chồng đĩa đầy nhóc thằng bé đang mang.
Thằng bé Neanderthal cúi đầu chào rồi lui xuống cánh cửa dành cho gia nhân. Sau lưng Marika, Bach’uuk đặt một ngón tay lên môi, ra dấu cho Jake đừng nói gì cả. Rồi thằng bé biến mất, khép chặt cánh cửa sau lưng.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.