Tôi dừng lại ở hành lang, im lặng tuyệt đối, và lắng nghe. Vì sàn nhà lót gỗ cứng nên âm thanh vang lên ở Buckshaw nghe rõ mồn một như ở nhà hát Royal Albert[58]. Ngay cả trong sự tĩnh mịch hoàn toàn, Buckshaw vẫn có sự im ắng độc nhất; một sự im ắng mà tôi có thể nhận thấy ở mọi nơi.
Lặng lẽ hết mức, tôi nhấc điện thoại lên và búng ngón tay vào ống nghe hai lần.
“Tôi muốn gọi một cuộc điện thoại xa đến Doddingsley. Tôi rất xin lỗi vì không có số, nhưng ở đó có quán trọ: Red Fox hoặc Ring hoặc Funnel. Tôi quên tên rồi, nhưng tôi nghĩ nó có chữ R hoặc F gì đó.”
“Vui lòng đợi trong giây lát,” một giọng nói tẻ nhạt nhưng có hiệu quả vang lên ở phía đầu kia của đường dây đang kêu rẹt rẹt.
Chắc sẽ không khó lắm, tôi thầm nghĩ. Được đặt trên đường từ ga tàu lửa, “RF” hoặc gì gì đó, là quán trọ gần nhất với nhà ga và nói cho cùng, Doddingsley cũng không phải là một thủ đô to lớn gì.
Chữ “r” và chữ “f” chắc hẳn vừa mới nổi lên từ đống bùn sình ở tít dưới đầu óc tôi.
“Địa chỉ là Doddingsley 2-3,” giọng nói vang lên. “Phòng trường hợp cần tham khảo sau này.”
“Cám ơn,” tôi lẩm bẩm vì tiếng chuông ở đầu kia bắt đầu bắt tín hiệu.
“Doddingsley, 2-3. Quán trọ Jolly Coachman. Ai đó? Cleaver đang nghe.”
Cleaver có lẽ là chủ nhà.
“Vâng, tôi muốn nói chuyện với ngài Pemberton. Tôi có việc rất quan trọng.”
Tôi học được rằng, mọi rào cản – ngay cả một rào cản khó khăn nhất – sẽ bị phá vỡ bằng cách giả vờ cấp bách.
“Ông ấy không ở đây,” Cleaver nói.
“Ôi trời,” tôi nói, hơi phóng đại lên một chút, “Tôi rất xin lỗi vì tôi rất nhớ ông ấy. Ông có thể cho tôi biết ông ấy rời đi lúc nào không? Có lẽ như vậy tôi sẽ biết mình nên đợi đến lúc nào.”
Flave ơi, tôi thầm nghĩ, mày phải có chân trong Nghị viện mới phải.
“Ông ấy rời đi hôm sáng thứ Bảy. Hai ngày trước.”
“Ô, cám ơn ông!” Tôi thở phào nhẹ nhõm, bằng giọng nói mà tôi hy vọng có thể lừa phỉnh cả Giáo hoàng. “Ông quả là tử tế.”
Tôi gác máy và đặt ống nghe về vị trí cũ nhẹ nhàng như thể nó là một con gà mới nở.
“Mày đang làm gì thế?” Một giọng nói như bị bóp nghẹt vang lên.
Tôi quay ngoắt người lại và thấy Feely đứng đó, một chiếc khăn mùa đông quấn chặt lấy phần dưới của khuôn mặt chị ta.
“Thế chị làm gì ở đây?” Tôi đánh trống lảng. “Đi trượt băng hở?”
Feely chạy đến túm lấy tôi và chiếc khăn rơi xuống, để lộ đôi môi đỏ ửng, sưng vù, giống hệt môi của loài khỉ dữ Cameroon ở Nam Cực.
Tôi sợ đến mức không cười nổi. Chất độc làm bằng hoa thường xuân mà tôi đã tiêm vào thỏi son của Feely khiến mồm miệng chị ta giống hệt miệng núi lửa bị phồng rộp. Cuối cùng thí nghiệm của tôi cũng thành công. Phải thổi kèn thật to để ăn mừng!
Thật không may là tôi không có thời gian để ghi chép vào sổ; phải đợi sau đã.
Maximilian, với hai má chằng chịt râu, đứng tựa vào vệ máng ngựa bằng đá nằm nép trong bóng của hình chữ thập ở chợ, đôi cẳng chân khẳng khiu của ông ta đu đa đu đưa trong không trung y như một người béo lùn. Ông ta nhỏ thó đến mức tôi suýt không nhìn thấy.
“Flavia!” Ông ta hét lên, và tôi phanh Gladys kêu đánh két ngay trước mũi đôi giày da tinh xảo của ông ta. Lại lỡ nữa rồi! Đáng ra phải tận dụng tối đa cơ hội mà đâm sầm vào ông ta chứ.
“Xin chào ông Max,” tôi nói. “Cháu có một câu hỏi dành cho ông.”
“Hô hô!” Ông ta nói. “Lại thế rồi! Một câu hỏi! Không trò chuyện dạo đầu à? Không nói về hai cô chị à? Không huyên thuyên về các buổi hòa nhạc vĩ đại trên thế giới à?”
“À,” tôi nói, hơi lúng túng, “cháu mới nghe The Mikado trên đài.”
“Thế nào? Nói một cách sôi nổi ấy? Họ vẫn luôn có xu hướng đáng báo động là hát nhạc của Gilbert và Sullivan, cháu biết rồi còn gì.”
“Khai sáng đầu óc,” tôi nói.
“A ha! Cháu phải nói là khai sáng theo cách nào. Arthur sáng tác một vài bản nhạc siêu phàm nhất trên đời cũng trên hòn đảo nhỏ này đấy: The Lost Chord, ví dụ thế. Gilbert và Sullivan cuốn hút tôi vô cùng. Cháu có biết rằng sự cộng tác lâu năm của họ đã bị lung lay bởi sự bất đồng về giá của một tấm thảm không?”
Tôi nhìn sát vào mặt ông ta để xem ông ta có giễu cợt mình không, nhưng ông ta có vẻ thành khẩn.
“Đương nhiên là tôi rất muốn moi tin tức từ cháu về sự việc không mấy hay ho ở Buckshaw dạo gần đây, Flavia ạ, nhưng tôi biết đôi môi cháu được cộp dấu ba lần nhờ tính khiêm tốn, trung thành và hợp pháp – và không nhất thiết phải theo đúng thứ tự đó, đúng không nào?”
Tôi gật đầu.
“Câu hỏi của cháu là gì?”
“Ông có học trường Greyminster không?”
Max cười khúc khích như một chú chim nhỏ màu vàng.
“Ồ không. Tôi đâu có được học ở một ngôi trường hoành tráng như thế. Trường tôi ở tận Lục địa châu Âu cơ, chính xác là Pháp, và không học trong nhà đâu. Nhưng người em họ của tôi, Lombard, từng học ở Greyminster. Chú ấy luôn đánh giá rất cao về trường đó – mặc dù chú ấy không tham gia các cuộc thi hay chơi nhạc nhủng gì.”
“Có bao giờ chú ấy nhắc đến ông hiệu trưởng, tức là Tiến sĩ Kissing không ạ?”
“Người sưu tầm tem hả? Cháu yêu, chú ấy hiếm khi nói về bất cứ chuyện gì khác ngoài chuyện về Tiến sĩ Kissing. Chú ấy thần tượng vô cùng người đàn ông già ấy. Những lời giả định về ông Kissing già nua hiện tại – không nhiều lắm, nhưng vẫn…”
“Cháu không nghĩ là ông ấy vẫn còn sống? Tiến sĩ Kissing ấy. Ông ấy chắc là già lắm, đúng không ạ? Cháu sẵn sàng cá cược mọi thứ để nói rằng ông ấy chết từ lâu lẩu lầu lâu rồi.”
“Thế thì cháu mất hết tiền rồi!” Max nói kèm một tiếng hò reo. “Mất cả đồng cắc cuối cùng đấy!”
Rooks End nằm lọt thỏm giữa những hốc núi của lớp đáy ấm cúng được tạo bởi Squires Hill và Jack O’Lantern, và địa danh sau là khoảng đất trồi lên mà nhìn từ xa, trông nó rất giống một nấm mồ có từ thời kỳ đồ sắt, nhưng khi đến gần, trông nó lại lớn hơn nhiều và có hình giống hệt cái đầu lâu.
Tôi lái Gladys vào đường Pooker – con đường chạy dọc theo lối hẹp, hay còn gọi là rìa phía đông. Ở cuối con đường, những hàng giậu chằng chịt khép lại hình dấu ngoặc ở lối vào của Rook’s End.
Các bãi cỏ trải dài ra hướng đông, tây và nam, trông lôi thôi và sắc nhọn. Dù mặt trời đã ló rạng, nhưng sương mù vẫn còn bồng bềnh in bóng bên trên bãi cỏ bù xù. Đây đó có những bãi cỏ bị xen ngang bởi những cây sồi to lớn, buồn tẻ. Thân cây và những cành lá rũ xuống luôn khiến tôi nhớ đến một gia đình voi đang chán nản đi thơ thẩn một mình trên thảo nguyên châu Phi.
Bên dưới các gốc cây sồi, hai người phụ nữ ăn mặc lỗi thời đang trò chuyện sôi nổi, như thể họ đang cạnh tranh với nhau vai Lady Macbeth[59] vậy. Một người mặc chiếc áo ngủ bằng vải mút-lin trong suốt, và đội chiếc mũ trùm đầu có vẻ còn sót lại từ hồi thế kỷ thứ mười tám, trong khi người bạn đồng hành lại kín mít trong chiếc váy vải bạt màu xanh xyanua và đeo đôi khuyên tai to bằng đĩa đựng súp.
Bản thân ngôi nhà vẫn thường được gọi một cách thơ mộng là “cao ốc”. Ngôi nhà do tổ tiên của dòng họ de Lacey (mà Bishop’s Lacey được đặt theo tên của gia đình này và người ta nói dòng họ này có họ hàng xa lắc xa lơ với họ de Luce) truyền lại và sa sút theo từng giai đoạn: từ một ngôi nhà thôn quê của thương gia tín đồ Tin Lành buôn vải lanh có đầu óc sáng tạo và thành đạt trở thành chính nó của ngày hôm nay, một bệnh viện tư nhân mà Daffy nhanh chóng gán cho nó cái tên “Nhà Hoang”. Giá mà chị ta đến đây giờ nhỉ!
Hai chiếc ô tô bám đầy bụi bẩn đứng túm tụm ở sân trước cho thấy sự thiếu hụt về cả nhân sự và khách viếng thăm. Dựng Gladys bên cạnh một cây bách tán cổ xưa, tôi đi về phía những bậc tam cấp phủ rêu và thủng lỗ chỗ lên cửa trước.
Trông thấy một tấm biển viết tay “Vui lòng rung chuông”, tôi kéo tay cầm tráng men. Đâu đó bên trong vang lên tiếng lách cách rỗng tuếch giống tiếng chuông đeo ở cổ con bò, báo hiệu sự có mặt của tôi với một người phía trong mà tôi chưa biết là ai.
Tôi lại rung chuông khi không thấy có gì xảy ra. Tôi ghé tai vào cánh cửa lớn, nhưng ngoài âm thanh rất nhỏ mà tôi đoán là tiếng gió trong tòa nhà thì tôi không nghe thấy gì khác. Tôi đẩy cửa và bước vào trong.
Thứ đầu tiên xộc vào mũi tôi là “hương vị” của nơi này: sự hòa trộn giữa mùi cải bắp, gối cao su, nước rửa chén và sự chết chóc. Bên dưới, giống như tấm vải lót sàn, là mùi nước khử trùng nồng nặc – dung dịch dimethyl benzyl amoni clorua, mùi tởm lợm khác thường của quả hạnh đắng giống hydro xyanua, mùi của loại ga được sử dụng để tiêu diệt bọn tội phạm trong buồng hơi ngạt ở Mỹ.
Lối vào hành lang được quét sơn màu xanh táo đúng kiểu dành cho nhà thương điên: tường xanh, đồ bằng gỗ cũng màu xanh, trần nhà cũng xanh nốt. Sàn nhà được phủ bằng vải sơn lót màu xám rẻ tiền, thủng lỗ chỗ như thể chúng được tận dụng từ Đấu trường La Mã vậy. Mỗi khi bước lên các vết lỗ chỗ như mụn mọc ấy, tôi lại phải ghi nhớ trong đầu rằng sau này nhất định tôi sẽ tìm hiểu xem màu sắc có khiến người ta buồn nôn không.
Trên một chiếc ghế tựa vào bức tường phía xa xa, một người đàn ông già nua ngồi nhìn đăm đăm vào không trung, mồm miệng há hốc, như thể ông ta đang chờ một phép màu sắp xảy ra đâu đó trên cao.
Bên kia là một chiếc bàn, hoàn toàn trống trơn trừ một quả chuông bạc và một tấm thẻ dơ dáy ghi “Vui lòng rung chuông” để thông báo cho một sự hiện diện chính thức, dù chưa được nhìn thấy.
Tôi cầm búa chuông gõ bốn cái thật nhanh. Với mỗi tiếng “tinh” của quả chuông, người đàn ông già ấy lại chớp mắt điên cuồng, nhưng vẫn không rời mắt khỏi không khí ngay phía trên đầu.
Một người phụ nữ mảnh khảnh đột nhiên xuất hiện như thể vừa trườn ra từ một cánh cửa bí mật nào đó. Cô ta mặc đồng phục trắng, đội mũ xanh, và còn đang bận lấy ngón tay trỏ vén mớ tóc màu rơm ủ rũ của mình bên dưới mũ.
“Xin lỗi?” Cô ta nói, với giọng vội vã nhưng đúng tiêu chuẩn bệnh viện.
“Cháu đến gặp Tiến sĩ Kissing,” tôi nói. “Cháu là chắt của cụ.”
“Tiến sĩ Isaac Kissing à?” Cô ta hỏi.
“Vâng,” tôi nói. “Tiến sĩ Isaac Kissing. Cô có một ông tiến sĩ nào khác nữa à?”
Không nói thêm lời nào, Bóng ma Áo trắng đó quay gót bước đi và tôi đi theo, qua cổng tò vò vào nhà tắm nắng hẹp chạy dọc tòa nhà. Đi được nửa đường cô ta dừng bước, chỉ một ngón tay mảnh khảnh như bóng ma thứ ba trong phim Scrooge, và mất hút.
Ở tít cuối căn phòng có cửa sổ cao vút, trong ánh nắng đơn điệu thâm nhập vào vòm sáng treo lơ lửng của nơi này, một người đàn ông già nua đang ngồi lặng yên trên chiếc ghế tắm đan bằng dây liễu gai. Trong mớ hỗn độn trên chiếc bàn nhỏ bên cạnh, một đống báo đang chực đổ xuống sàn.
Ông được quấn trong chiếc áo choàng màu lông chuột – giống y Sherlock Holmes, khác cái là chiếc áo này lốm đốm vết cháy trông như da báo. Bên cạnh chiếc áo choàng là bộ comple đen bạc màu kiểu cổ xưa. Mái tóc xoăn dài màu vàng xám của ông được túm gọn trên đỉnh đầu với chiếc mũ tròn nhỏ làm bằng nhung màu mận chín, và một điếu thuốc đang cháy phấp phỏng trên môi, các sợi khói xám rủ xuống như một con sên được ướp xác.
“Chào cháu, Flavia,” ông ấy nói, “ta vốn rất mong cháu đến.”
Một giờ trôi qua. Một giờ đồng hồ để tôi nhận ra sự thật, lần đầu tiên trong đời, về thứ mà chúng ta đã để mất trong Chiến tranh.
Chúng tôi không có được sự khởi đầu thật sự suôn sẻ, Tiến sĩ Kissing và tôi ấy.
“Ta phải cảnh báo cháu ngay từ đầu là ta không ở trong trạng thái tốt nhất để nói chuyện với mấy bé gái như cháu đâu,” ông ấy tuyên bố.
Tôi cắn môi và ngậm chặt miệng.
“Một bé trai thì hài lòng khi được trở thành một công dân bằng cách đánh đòn, hoặc vô số các mưu kế khác, nhưng một bé gái, vốn bị tạo hóa truất quyền, xuất phát từ sự yếu ớt về thể chất, nên mãi là chốn chưa được khai phá. Cháu có nghĩ thế không?”
Tôi nhận thấy ngay rằng đây là một trong những câu hỏi không cần trả lời. Tôi gượng một nụ cười kiểu Mona Lisa – hoặc ít nhất cũng nên lễ độ cần có.
“Vậy cháu là con gái của Jacko,” ông ấy nói. “Cháu không giống cậu ấy chút nào.”
“Người ta nói là cháu giống mẹ cháu, Harriet,” tôi nói.
“Ừ, ừ, Harriet. Một thảm kịch. Quả là khủng khiếp cho các cháu.”
Ông đưa tay với chiếc kính lúp đặt trên cùng của chồng báo bên cạnh. Với động tác tương tự, ông dò tìm và mở hộp thuốc lá Players đặt trên bàn và chọn một điếu thuốc mới.
“Ta cố gắng hết sức để theo kịp thế giới qua lăng kính của những tờ báo in này đây. Ta phải thừa nhận là đôi mắt của ta, vốn phải nhìn cuộc đời suốt chín mươi năm, đã rất mệt mỏi bởi những điều trông thấy. Tuy nhiên, đôi khi ta cũng cố nắm bắt thông tin về mấy vụ chào đời, qua đời, cưới hỏi và kết án vẫn thường xảy ra trong vùng. Đương nhiên là ta vẫn nhận đặt tờ Punch and Lillput. Ta biết cháu có hai chị gái, Ophelia và Daphne, đúng không?”
Tôi công nhận đúng là như thế.
“Theo như ta nhớ, Jacko vốn có khả năng thiên bẩm về mấy cái tên ngoại lai. Ta hầu như không bất ngờ khi đọc được rằng cậu ta đặt tên hai cô con gái đầu tiên theo tên hết sức ngộ nghĩnh của Shakespeare và cái gối cắm kim của Hy Lạp.”
“Sao ạ?”
“Daphne, đã bị Thần tình ái bắn mũi tên diệt-tình-yêu trước khi nàng bị bố biến thành một cái cây.”
“Ý cháu muốn nói về người đàn bà điên cơ,” tôi nói. “Ophelia ấy.”
“Bị đánh vào đầu,” ông ấy nói, ấn mẩu thuốc lá vào gạt tàn đầy ứ và châm tiếp một điếu thuốc khác. “Cháu không đồng ý sao?”
Đôi mắt trên khuôn mặt nhăn nheo nhìn tôi bỗng sáng bừng lên, tròn và sáng như một giáo viên đang hào hứng đứng gần bảng đen, bút chì trong tay, và tôi biết kế hoạch của mình đã thành công. Tôi không còn là một “bé gái” nữa. Dù nàng Daphne huyền bí có bị biến thành một cây nguyệt quế, tôi vẫn trở thành một đứa con trai lớp ba.
“Thưa ông, không hẳn thế,” tôi nói. “Cháu nghĩ Shakespeare muốn Ophelia là một biểu tượng hay gì gì đó – ví dụ loài thảo mộc hay hoa lá mà nàng hội tụ được.”
“Hả?” ông ấy nói. “Là gì cơ?
“Biểu tượng, thưa ông. Ophelia là nạn nhân vô tội của một gia đình hết sức nghiêm khắc, và các thành viên trong gia đình chỉ biết quan tâm đến bản thân. Ít nhất đó là điều cháu nghĩ.”
“Ta biết, rất thú vị. Nhưng,” ông ấy đột nhiên nói thêm, “nhưng cũng rất đáng hài lòng khi biết bố cháu vẫn giữ lại đủ vốn tiếng Latin để đặt tên cháu là Flavia. Một cô gái tóc vàng.”
“Tóc cháu màu lông chuột.”
“À.”
Có vẻ như chúng tôi đã lâm vào thế bế tắc vốn làm gián đoạn rất nhiều cuộc trò chuyện với những người già. Tôi bắt đầu nghĩ ông ấy đã ngủ gục dù hai mắt vẫn mở thao láo.
“Ừm,” cuối cùng ông ấy nói, “tốt hơn hết cháu hãy để ta được ngắm nàng.”
“Thưa ông?” Tôi nói.
“Con tem Ulster Avenger của ta. Tốt hơn hết cháu hãy để ta được ngắm nàng. Cháu có mang theo con tem, đúng không?”
“Cháu – vâng, thưa ông, nhưng làm sao?”
“Chúng ta hãy cùng suy luận,” ông ấy nói, khẽ khàng như thể đang thì thầm chúng ta hãy cùng cầu nguyện.
“Horace Bonepenny, một thằng nhỏ làm ảo thuật một thời và một nghệ sĩ gian dối lâu năm, chết ngắc trong vườn nhà thằng bạn thân ngày xưa, tên là Jacko de Luce. Tại sao ư? Khả năng cao nhất là tống tiền. Vì vậy, chúng ta cùng giả sử là tống tiền nhé. Chỉ trong vài giờ, con gái của Jacko lục tung đống báo lưu trữ tại Bishop’s Lacey để tìm kiếm những bài viết về cái chết của một người đồng nghiệp quá cố của ta, thầy Twining, cầu Chúa để linh hồn ông ấy yên nghỉ. Làm sao ta biết được chuyện đó ư? Ta nghĩ điều đó quá hiển nhiên rồi.”
“Cô Mountjoy,” tôi nói.
“Giỏi lắm, bé con ạ. Tilda Mountjoy – tai mắt của ta có ở khắp làng và các khu vực lân cận suốt một phần tư thế kỷ qua.”
Đáng ra tôi phải biết điều đó! Cô Mountjoy là một con ma!
“Nhưng chúng ta hãy tiếp tục câu chuyện. Trong ngày cuối cùng của cuộc đời, tên trộm Horace Bonepenny đã quyết định ở tại quán trọ Mười Ba Con Vịt. Một thằng ngu trẻ tuổi – ừm, hắn cũng không còn trẻ nữa, nhưng vẫn là một thằng ngu – và cố thực hiện kế hoạch của mình. Có lần ta nhấn mạnh với thầy Twining rằng thằng ngu đó sẽ không có kết cục tốt đẹp gì. Ta lưỡng lự khi phải chỉ ra rằng lời tiên đoán của ta đã đúng, ừm, thằng đó luôn toát ra mùi sulphur.
Nhưng ta lạc đề rồi. Chẳng mấy chốc sau khi hắn đi vào cõi vĩnh hằng, phòng trọ của Horace Bonepenny đã bị lục lọi bởi một cô bé mà ta không cần nói tên làm gì, vì hiện giờ, cô bé đó đang e dè ngồi trước mặt ta, bồn chồn chạm vào cái gì đó trong túi quần và cái đó không thể là gì khác ngoài một mẩu giấy có màu mứt cam, và trên mẩu giấy đó có in chân dung của cố Nữ hoàng Victoria, và có các chữ cái TL. Quod erat demonstrandum. Q.E.D[60].”
“Q.E.D.” Tôi nói, và không nói thêm gì nữa, tôi lôi chiếc phong bì không thấm mỡ trong túi quần ra và đưa cho ông. Với đôi bàn tay run rẩy – do tuổi già hay sự phấn khích, tôi cũng không chắc chắn – ông gỡ vành phong bì ra bằng các ngón tay còn nhuốm nicôtin. Khi các góc cạnh màu vàng cam của Ulster Avenger xuất hiện trong tầm mắt, tôi không thể không nhận thấy các ngón tay còn nhuốm nicôtin của ông và các con tem gần như có màu sắc giống y nhau.
“Tuyệt vời!” Ông nói, vẻ run rẩy thấy rõ. “Cháu đã tìm được con tem AA. Đây là con tem của Nữ hoàng, cháu biết rồi đấy. Nó bị ăn trộm trong một cuộc triển lãm ở London mới vài tuần trước thôi. Việc đó người ta viết đầy rẫy trên báo.”
Ông nhìn tôi với ánh mắt buộc tội qua cặp kiếng, nhưng rồi ngay lập tức trở về với kho báu màu sáng nằm trong đôi tay mình. Có vẻ như ông đã quên sự có mặt của tôi trong căn phòng.
“Xin chào hai bạn già,” ông nói khẽ, như thể tôi không có ở đó. “Lâu, lâu quá rồi.”
Ông lấy kính lúp và kiểm tra thật kỹ từng con tem một.
“Và anh nữa, TL nhỏ bé yêu dấu của ta: quả là một câu chuyện thú vị mà anh có thể kể được.”
“Horace Bonepenny có cả hai con tem đó,” tôi tình nguyện nói. “Cháu tìm thấy chúng trong hành lý của ông ta ở quán trọ.”
“Cháu vơ vét hành lý của hắn à?” Tiến sĩ Kissing hỏi, đôi mắt không rời khỏi chiếc kính lúp. “Phù! Cảnh sát sẽ khó lòng mà nhảy cẫng lên vui sướng khi nghe được điều đó… và cháu cũng vậy, ta dám cá là như thế.”
“Chính xác thì không phải là cháu vơ vét hành lý của ông ta,” tôi nói. “Ông ta giấu hai con tem bên dưới tờ nhãn dán tên điểm đến ở bên ngoài vali.”
“Và nhờ đó, đương nhiên là vậy, khi cháu vô tình táy máy vớ vẩn thì chúng đã rơi nhào vào tay cháu.”
“Vâng,” tôi nói. “Chính xác đó là sự việc đã xảy ra.”
“Nói cho ta biết,” ông ấy đột nhiên quay sang nhìn thẳng vào mắt tôi. “Bố cháu có biết cháu đến đây không?”
“Không,” tôi nói. “Bố cháu bị buộc tội giết người. Bố cháu đang bị giam ở Hinley.”
“Chúa ơi! Cậu ta đã làm vậy sao?”
“Không, nhưng hình như mọi người đều nghĩ là bố cháu đã làm việc đó. Đến cháu cũng đã từng nghĩ như vậy.”
“À,” ông ta nói, “thế giờ cháu nghĩ sao?”
“Cháu không biết,” tôi nói. “Lúc cháu nghĩ thế này, lúc lại thế khác. Sự việc vẫn còn rối ren lắm.”
“Mọi thứ đều rối ren trước khi chúng ổn định. Flavia, nói cho ta biết: điều gì khiến cháu say mê nhất trên đời này. Niềm đam mê lớn nhất của cháu là gì?”
“Hóa học,” tôi nói nhanh hơn cả thời gian một nửa nhịp tim đập.
“Tốt lắm!” Tiến sĩ Kissing nói. “Vào thời của ta, ta cũng đặt câu hỏi tương tự với đội quân của Hottentots, nhưng lúc nào bọn họ cũng nói tầm phào hết chuyện này đến chuyện khác. Chuyện nhăng chuyện cuội, chỉ vậy thôi. Còn cháu, thì ngược lại, cháu nói hẳn tên của sở thích đó.”
Chiếc ghế đan bằng liễu gai kêu cọt kẹt khi ông ấy xoay nửa chừng để đối diện với tôi. Trong một khoảnh khắc đáng sợ, tôi cứ nghĩ xương sống của ông ấy sẽ gãy vụn.
“Natri nitrit,” ông ấy nói. “Chắc chắn cháu rất quen thuộc với natri nitrit.”
Quen thuộc với nó ư? Natri nitrit là thuốc giải độc cho chất độc có chứa xyanua, và tôi biết mọi phản ứng khác nhau của nó như biết rõ tên họ của mình. Nhưng tại sao ông ấy lại chọn nó làm một ví dụ? Ông ấy có bị thần kinh không?
“Nhắm mắt lại,” Tiến sĩ Kissing nói. “Hãy hình dung cháu đang cầm trong tay một ống nghiệm với 30% axit clohydric. Sau đó, cháu thêm một lượng nhỏ natri nitrit. Cháu quan sát thấy gì nào?”
“Cháu không cần phải nhắm mắt,” tôi nói. “Nó chuyển sang màu vàng… vàng và đục.”
“Giỏi lắm! Màu sắc của những con tem ương bướng này, phải không? Rồi sao nữa?”
“Nếu để lâu hơn, khoảng hai mươi hay ba mươi phút, nó trong suốt.”
“Trong suốt. Ta tin là vậy.”
Như thể một gánh nặng quá sức vừa trườn khỏi vai tôi, tôi nở một nụ cười ngốc nghếch.
“Ông ơi, chắc chắn ông là một thầy giáo cực kỳ giỏi,” tôi nói.
“Ừ, đúng thế… vào thời của ta.”
“Và giờ cháu hãy giúp ta mang kho báu nhỏ này về nhà,” ông nói và liếc nhìn lại hai con tem.
Đây là điều tôi chưa tính đến; điều mà tôi chưa suy nghĩ thấu đáo. Tôi chỉ có ý định tìm xem chủ nhân của Ulster Avenger còn sống hay không. Sau đó, tôi sẽ trao con tem cho bố, và bố sẽ trao nó cho cảnh sát, và cảnh sát, với trách nhiệm của mình, sẽ hoàn trả cho chủ nhân đích thực của nó. Tiến sĩ Kissing nhận thấy sự lưỡng lự của tôi ngay lập tức.
“Hãy để ta hỏi cháu một câu,” ông ấy nói. “Nếu như hôm nay cháu đến đây và thấy ta không còn trên đời này nữa?”
“Ông muốn nói là chết ạ?”
“Đó là từ ta đang tìm đấy: chết, ừ.”
“Chắc là cháu sẽ đưa con tem của ông cho bố.”
“Để giữ lại à?”
“Bố cháu sẽ biết phải làm gì với con tem ấy.”
“Ta lại cho rằng người tốt nhất có thể quyết định là người chủ sở hữu của con tem, cháu có đồng ý với ta không?”
Tôi biết câu trả lời là “có”, nhưng tôi không thể nói ra được. Tôi biết rõ, hơn tất thảy mọi điều, là tôi muốn đưa con tem cho bố, mặc dù nó không phải là con tem của tôi. Cùng lúc, tôi cũng muốn đưa cả hai con tem cho Thanh tra Hewitt. Nhưng tại sao nhỉ?
Tiến sĩ Kissing châm một điếu thuốc nữa và nhìn đăm đăm ra cửa sổ. Cuối cùng, ông lấy một con tem ra khỏi phong bì và đưa cho tôi con tem kia.
“Đây là con tem AA,” ông ấy nói. “Nó không phải của ta, không thuộc về ta. Bố cháu có thể làm điều gì bố cháu muốn với con tem này. Ta không có quyền quyết định.”
Tôi nhận lấy con tem Ulster Avenger từ tay ông và cẩn thận gói vào khăn tay.
“Nhưng, ngược lại, con tem TL tuyệt vời này là của ta. Của ta, chắc chắn là như vậy.”
“Cháu mong là ông sẽ vui khi được dán con tem đó trở lại vào cuốn album của ông,” tôi nói với vẻ cam chịu và cất con tem còn lại vào túi quần.
“Album của ta ư?” Ông cất giọng cười ồm ộp và kết thúc bằng một trận ho. “Cuốn album của ta, như Dowson quá cố gọi, thì đã cuốn theo chiều gió rồi.”
Đôi mắt đen của ông lại hướng ra cửa sổ, ngó đăm đăm mà không nhìn bãi cỏ bên ngoài, ở đó, hai bà lão vẫn còn đang xao xuyến múa may quay tròn như hai con bướm lập dị bên dưới gốc sồi lốm đốm nắng.
Tôi đã quên nhiều, Cynara! Cuốn theo chiều gió,
Ném hoa hồng, ném hết hoa hồng cho đám đông,
Và khiêu vũ, để cố quên những bông ly đã mất;
Nhưng ta chán nản, ta cô đơn bởi niềm đam mê cũ
Phải, chờ thời gian, vì khúc nhạc còn dài
Ta đã trung thành với người, Cynara! Trong hình hài của ta.
“Trong bài Non Sum Qualis eram bonae sub rengo Cynarae. Có lẽ cháu cũng biết bài đó?”
Tôi gật đầu. “Hay lắm ạ,” tôi nói.
Ông ấy nhìn tôi như thể ông vừa kể cho tôi một câu chuyện cười. Khi tôi không nói gì, ông ấy chỉ ra cái bàn.
“Mang một trong những cuốn album đó ra đây. Cuốn trên cùng ấy, sẽ có tác dụng đấy.”
Giờ tôi mới nhận thấy có một giá sách được chèn vào bên dưới mặt bàn, và ở đó có hai cuốn album dày cộp. Tôi thổi bụi phù phù và đưa cho ông ấy cuốn album ở trên.
“Không, không… cháu tự mở đi.”
Tôi mở trang đầu tiên của cuốn album, và trong đó có hai con tem: một con màu đen, và một con màu đỏ. Nhờ các dấu hiệu còn mờ mờ của vết nhựa dính và các đường kẻ còn sót lại, tôi biết trang sổ này vốn được dán đầy tem. Tôi lật sang trang kế tiếp… và trang sau nữa. Những gì còn sót lại chỉ là tàn dư của sự mất mát: một sự tàn phá nham nhở mà ngay cả một cậu học sinh cũng phải giấu đi vì xấu hổ.
“Mỗi lần là một con tem ra đi. Không còn nhiều tem ở đó, đúng không?”
“Nhưng con tem Ulster Avenger!” Tôi nói. “Nó đáng giá cả một gia tài!”
“Thực vậy,” Tiến sĩ Kissing nói, và lại nhìn kho báu của mình đăm đăm lần nữa qua kính lúp, rồi lặng lẽ cười khan, lấy khăn tay ra lau mắt.
“Quá muộn rồi! Quá muộn rồi!” Một bà lão hét lên. “Đêm nay tiếng chàng sẽ không còn vang lên nữa!”
“Định mệnh mới thích đùa cợt làm sao,” ông nói tiếp với giọng nửa như thì thầm. “Ai nói câu ấy nhỉ? Cyrano de Bergerac[61], chẳng phải sao?”
Trong tích tắc, tôi chợt nghĩ Daffy sẽ thích biết chừng nào nếu được nói chuyện với quý ông già nua này. Nhưng chỉ trong một phần giây thôi. Và rồi tôi nhún vai.
Với nụ cười thích thú, Tiến sĩ Kissing lấy điếu thuốc ra khỏi miệng, và chạm đầu thuốc đang cháy vào một góc của con tem Ulster Avenger.
Tôi có cảm giác một vòng lửa vừa được tung vào mặt mình; như thể tim tôi bị buộc chặt bởi sợi dây thép đầy ngạnh. Tôi chớp mắt, và rồi, chết lặng vì khiếp sợ, tôi đứng im để nhìn con tem cháy âm ỉ, rồi bùng lên thành một ngọn lửa nhỏ và ngọn lửa chậm chạp lạnh lùng liếm ngang nét mặt xinh đẹp của Nữ hoàng Victoria.
Khi ngọn lửa cháy đến các đầu ngón tay mình, Tiến sĩ Kissing xoè tay ra và để đám tro tàn bay xuống sàn. Bên dưới gấu áo choàng của ông, một đôi giày đen sáng bóng lộ ra và dẫm lên đám tro tàn dư một cách tao nhã, với một vài cái day chân thật nhanh, đôi giày ấy nghiền nát đám tro bên dưới.
Trong ba nhịp tim đập vang như sấm rền, Ulster Avenger chỉ còn là vết bẩn đen sì trên vải lót sàn của Rook’s End.
“Con tem trong túi cháu vừa được nhân đôi giá trị,” Tiến sĩ Kissing nói. “Flavia, hãy bảo vệ nó cẩn thận. Bây giờ nó là con tem độc nhất trên đời.”