Kỳ Án Chim Dẽ Giun

CHƯƠNG 27



Thanh tra Hewitt đứng trong phòng thí nghiệm của tôi, chầm chậm quay đầu nhìn xung quanh, ánh mắt của ông quét ngang các thiết bị khoa học và tủ hóa học y như chùm sáng từ ngọn đèn hải đăng. Sau khi quay người trọn một vòng, ông dừng lại, và lại quay một vòng tròn nữa ở hướng đối diện.
“Phi thường!” Ông nói, chọn lọc từ kỹ lưỡng. “Đơn giản là phi thường!”
Một tia nắng sớm ấm áp tươi vui rọi qua ô cửa sổ hai cánh cao cao, rọi sáng bên trong một cốc dung dịch đo đỏ chuẩn bị được đun sôi. Tôi gạn một nửa dung dịch vào cốc sứ và đưa cho viên Thanh tra. Ông ngờ vực nhìn nó.
“Trà đấy ạ,” tôi nói, “Assam từ Fortnum & Mason. Cháu hy vọng ông không phiền khi nó được hâm nóng lên.”
“Ồ, ở sở ta cũng chỉ uống đồ uống được hâm lại,” ông nói. “Ta không thích loại nào khác.”
Vừa hớp tách trà ông vừa đi thơ thẩn quanh phòng, xem xét các dụng cụ hóa học với niềm đam mê nghề nghiệp. Ông lấy một hoặc hai chiếc lọ từ trên giá xuống và giơ từng chiếc ra trước ánh sáng, rồi cúi xuống nhìn thật sát thị kính chiếc Leitz của tôi. Tôi thấy ông gặp đôi chút khó khăn trong việc nhìn đúng cái mình muốn.
“Thứ đồ sứ làm bằng đất sét trộn với tro xương, quả là đẹp tài tình,” cuối cùng ông nói, nâng chiếc cốc lên cao tới đầu để đọc tên nhãn ở dưới đáy cốc.
“Đồ sứ tinh xảo gần như từ thời sơ khai đấy ạ,” tôi nói. “Albert Einstein và George Bernard Shaw uống trà bằng chính chiếc cốc đó khi họ đến thăm cụ cố Tarquin – đương nhiên là họ không đến thăm cụ vào cùng một thời điểm rồi.”
“Không biết hai người đó đến đây làm gì?” Thanh tra Hewitt nói và liếc nhìn tôi.
“Hai người đó,” tôi nói và liếc nhìn lại.
Viên Thanh tra hớp một ngụm trà nữa. Trông ông có vẻ bồn chồn như thể đang muốn nói gì đó, nhưng không biết nên bắt đầu như thế nào.
“Đó là một vụ khó,” ông nói. “Kỳ quái, quả thực là thế. Người đàn ông mà cháu nhìn thấy trong vườn, là một người hoàn toàn xa lạ – hoặc có vẻ như thế. Chúng ta chỉ biết hắn đến từ Na Uy.”
“Con chim dẽ giun,” tôi nói.
“Cháu nói lại được không?”
“Con chim dẽ giun chết toi nằm trên bậc cửa bếp nhà cháu. Ở Anh không bao giờ có chim dẽ giun trước mùa thu. Nó phải được mang đến từ Na Uy – giấu trong một chiếc bánh. Đó là cách ông biết nơi ông ta đến, không phải sao ạ?”
Trông viên Thanh tra có vẻ bối rối.
“Không,” ông nói. “Bonepenny đi một đôi giày mới có nhãn tên của một người đóng giày ở Stavanger.”
“Ồ,” tôi nói.
“Từ đó mà chúng ta có thể lần theo dấu vết của hắn khá dễ dàng.”
Trong khi nói, hai tay Thanh tra Hewitt vẽ một hình bản đồ trong không trung.
“Quá trình điều tra của chúng ta ở đây và ở nước ngoài cho thấy hắn đã đi thuyền từ Stavanger đến Newcastle, và đi tàu hoả từ đó đến York, rồi đến Doddingsley. Từ Doddingsley hắn bắt taxi đến Bishop’s Lacey.”
À há! Chính xác y như tôi dự đoán.
“Đúng vậy,” tôi nói. “Và Pemberton – hay cháu nên gọi là Bob Stanley? – đi theo hắn, nhưng lại dừng chân ở Doddingsley. Ông ta trọ ở quán Jolly Coachman.”
Một chân mày của Thanh tra Hewitt nhướn lên như con rắn mang bành.
“Ồ?” Ông nói, không trang trọng thái quá, “Làm sao cháu biết?”
“Cháu gọi điện đến Jolly Coachman và đã nói chuyện với ông chủ quán trọ tên là Cleaver.”
“Chỉ vậy thôi sao?”
“Bọn họ cùng ở với nhau, y như khi bọn họ giết ông Twining.”
“Stanley phủ nhận điều đó,” ông nói. “Tuyên bố rằng ông ta không liên quan gì đến vụ giết người. Sạch bong như tuyết, đại loại như thế.”
“Nhưng ở Pit Shed ông ta đã nói với cháu rằng ông ta đã giết chết Bonepenny! Ngoài ra, ít nhiều ông ta cũng thừa nhận rằng lý thuyết của cháu là đúng đắn: vụ tự tử của ông Twining chỉ là ảo giác đã được sắp đặt từ trước.”
“Ừm, việc đó cần được xem xét lại. Chúng ta đang điều tra, nhưng cần phải có thêm thời gian, mặc dù ta phải nói rằng bố cháu rất được việc. Ông ấy đã kể cho bọn ta toàn bộ câu chuyện dẫn đến cái chết thảm thương của ông Twining. Ta chỉ ước gì ông ấy quyết định hợp tác sớm hơn. Biết đâu chúng ta có thể cứu…”
“Ta xin lỗi,” ông ngập ngừng rồi nói tiếp, “ta chỉ suy đoán vậy thôi.”
“Vụ bắt cóc cháu,” tôi nói.
Tôi phải thừa nhận Thanh tra Hewitt thay đổi chủ đề rất nhanh chóng.
“Quay trở lại hiện tại,” ông nói, “hãy để ta xem liệu ta đoán có đúng không: cháu nghĩ là Bonepenny và Stanley là kẻ đồng mưu?”
“Bọn họ luôn luôn là kẻ đồng lõa,” tôi nói, “Bonepenny ăn cắp tem và Stanley bán chúng ra nước ngoài cho các nhà sưu tầm tem vô liêm sỉ. Nhưng bọn họ không tìm được cách bán hai con tem Ulster Avenger: hai con tem ấy quá nổi tiếng. Và với một con tem bị ăn cắp của Vua, sẽ mạo hiểm cho bất kỳ nhà sưu tầm nào bị phát hiện là có con tem đó trong bộ sưu tập.”
“Hay lắm,” viên Thanh tra nói. “Và?”
“Bọn họ lên kế hoạch tống tiền bố, nhưng khi thực hiện kế hoạch, chắc hẳn bọn họ bất hòa với nhau. Bonepenny từ Stavanger đến để thực hiện phi vụ, và vào thời điểm nào đó, Stanley nhận thấy ông ta có thể đi theo kẻ đồng minh, giết chết kẻ đó tại Buckshaw, lấy hai con tem và rời bỏ đất nước này. Đơn giản như vậy thôi. Và vụ việc sẽ được đổ vấy cho bố cháu. Và quả là như vậy,” tôi nói thêm, với một cái nhìn đầy trách móc.
Một sự im lặng kỳ cục.
“Flavia, cháu nghe này,” cuối cùng ông cũng nói, “cháu biết đấy, ta không có nhiều lựa chọn. Không còn ai khác nằm trong diện tình nghi.”
“Cháu thì sao,” tôi nói. “Cháu có mặt ở hiện trường vụ án mạng.”
Tôi chỉ tay về phía các chai lọ hóa chất được xếp dọc theo bức tường.
“Nói cho cùng, cháu biết rất nhiều về các chất độc. Cháu có thể bị coi là một người vô cùng nguy hiểm.”
“Ừm,” Thanh tra Hewitt nói. “Một điểm thú vị. Và cháu có mặt tại thời điểm nạn nhân chết. Nếu mọi việc không tiến triển chính xác như nó đã tiến triển, rất có thể cổ cháu mới nằm trong thòng lọng đấy.”
Tôi chưa từng nghĩ đến điều đó. Việc hình dung một con vịt đi trên ngôi mộ của tôi khiến tôi rùng mình.
Viên Thanh tra nói tiếp.
“Tuy nhiên, cháu không có động cơ thực sự nào, dù thực tế là cháu chưa hề tỏ ra sợ hãi. Thân hình kẻ sát nhân ở mức trung bình như cháu khiến cảnh sát tránh xa càng xa càng tốt, mặc dù… ừm, cháu có mặt ở khắp mọi nơi, đó là từ xuất hiện ngay trong tâm trí chúng ta. Nào, bây giờ cháu muốn nói gì?”
“Stanley phục kích Bonepenny trong vườn nhà cháu. Bonepenny bị bệnh tiểu đường, và…”
“À,” Thanh tra Hewitt nói, gần như ông đang nói với chính mình, “Insulin! Chúng ta lại không nghĩ đến việc thử nghiệm để tìm ra chất đó.”
“Không ạ,” tôi nói, “không phải insulin ạ, mà là cacbon tetraclorua. Bonepenny chết vì bị tiêm chất cacbon tetraclorua vào não. Stanley mua một chai dung dịch này từ các nhà hoá học ở Doddingsley. Cháu nhìn thấy nhãn dán trên chai khi lão ta đổ đầy xilanh trong Pit Shed. Chắc ông đã tìm thấy cái chai bên dưới đám rác rưởi ở đó.”
Qua nét mặt của viên Thanh tra tôi biết rằng họ chưa hề tìm thấy cái chai ấy.
“Vậy thì chắc nó lăn xuống cống rồi,” tôi nói. “Có một đường ống nước cũ kỹ chảy xuống sông. Phải có người tìm ra cái chai.”
Tội nghiệp Hạ sĩ Graves! Tôi nghĩ bụng.
“Stanley ăn trộm cái xilanh trong túi đồ trong phòng của Bonepenny tại quán trọ Mười Ba Con Vịt,” tôi nói thêm mà không hề suy nghĩ. Chết tiệt!
Viên Thanh tra chộp ngay lấy chi tiết này.
“Làm sao cháu biết trong phòng Bonepenny có cái gì?” Ông hỏi sắc bén.
“À… cháu sắp nói đến chỗ đó rồi,” tôi nói, “vài phút nữa thôi ạ.”
“Stanley tin rằng ông sẽ không bao giờ tìm ra bất cứ dấu vết nào của cacbon tetraclorua trong não của Bonepenny. Quả là một điều tuyệt vời khi đúng là ông không tìm ra thật. Chắc hẳn ông sẽ cho rằng thứ chất đó xuất phát từ một trong những cái lọ của bố cháu. Có đầy ụ thứ chất đó trong phòng làm việc của bố cháu.”
Thanh tra Hewitt lấy sổ tay ra và vụng về viết hai từ, và tôi đoán chừng là “cacbon tetraclorua”.
“Cháu biết đấy là cacbon tetraclorua vì Bonepenny phả hơi thở cuối cùng vào mặt cháu, trong hơi thở hấp hối cuối cùng của ông ấy,” tôi nói, nhăn mũi lại và tạo nét mặt phù hợp.
Nếu có thể miêu tả nước da của một viên Thanh tra ngay lúc này bằng hai từ thì đó là “trắng bệch”.
“Cháu chắc chắn như vậy à?”
“Cháu rất giỏi về hydrocacbua khử trùng bằng clo, cám ơn ông.”
“Cháu nói với ta rằng Bonepenny vẫn còn sống khi cháu tìm thấy ông ta à?”
“Chỉ là một chút thôi,” tôi nói. “Ông ấy… vâng… chết gần như ngay lập tức.”
Thêm những khoảng lặng dài lê thê, lạnh lẽo y như trong hầm mộ.
“Đây,” tôi nói, “cháu sẽ chỉ cho ông biết việc đó được thực hiện như thế nào.”
Tôi lấy một đầu bút chì màu vàng, xoáy hai vòng trong gọt bút chì và đưa nó lên phía góc mà khung xương bám sát vào phần cuối cùng của các sợi thần kinh.
“Cái này được trao cho cụ Tarquin quá cố, bởi nhà tự nhiên học Frank Buckland.”
Tôi nói, và xoa xoa cái đầu lâu đầy trìu mến. “Cháu gọi ông ấy là Yorick.”
Tôi không nói với Thanh tra Hewitt rằng, Buckland, khi về già, đã tặng món quà này khi nhận ra triển vọng vĩ đại của cậu Tar trẻ tuổi. “Tặng Nhà khoa học Tương lai”, Buckland đã ghi vậy trên thiệp.
Tôi đưa đầu bút chì được gọt nhọn quanh hộp sọ, chầm chậm nhét nó bên dưới cái đầu lâu khi tôi nhắc lại lời nói của Pemberton trong Pit Shed:
“Hơi lệch sang một bên, xuyên qua cơ gối đầu và cơ rối to, ấn chính xác vào dây chằng trục ngoài, và ấn ống tiêm qua vòm trục!”
“Flavia, cám ơn cháu,” Thanh tra Hewitt đột nhiên nói. “Như vậy là đủ rồi. Cháu có chắc chắn đó là điều ông ta nói không?”
“Những lời nói hoàn toàn chính xác của ông ta,” tôi nói. “Cháu đã phải tra cứu trong cuốn Gray’s Anatomy. Cuốn Children’s Encyclopaedia cũng có viết sơ qua, nhưng không chi tiết đến vậy.”
Thanh tra Hewitt xoa cằm.
“Cháu chắc chắn bác sĩ Darby có thể tìm thấy điểm đâm kim trên đầu, phía sau ót của Bonepenny,” tôi nói thêm một cách hữu ích, “… nếu ông ấy biết chỗ để tìm. Ông ấy cũng có thể kiểm tra khung xoang nữa. Cacbon tetraclorua rất ổn định trong không khí, và có thể vẫn được lưu trú ở đó, vì người đàn ông đó không còn thở nữa.”
“Và,” tôi nói thêm, “ông có thể nhắc cho bác sĩ biết rằng Bonepenny đã uống một ly rượu ở quán Con Vịt ngay trước khi ông ta khởi hành đi bộ đến Buckshaw.”
Viên Thanh tra trông vẫn hết sức bối rối.
“Tác dụng của cacbon tetraclorua sẽ tăng thêm đáng kể nhờ chất kích thích,” tôi giải thích.
“Và,” viên Thanh tra hỏi với một nụ cười thân thiện, “cháu có giả thuyết nào đặc biệt về nguyên nhân tại sao chất đó vẫn còn ở trong hệ xoang của ông ta không? Ta không phải nhà hóa học, nhưng ta tin rằng cacbon tetraclorua bốc hơi rất nhanh.”
Tôi có lý do, nhưng đó không phải là lý do tôi sẵn lòng chia sẻ với bất kỳ ai, nhất là cảnh sát. Bonepenny đã phải chịu đựng một cơn lạnh khủng khiếp trong đầu: cơn cảm lạnh mà khi hắn thốt ra từ “Vale!” trước mặt tôi, hắn đã chuyển cơn cảm lạnh đó sang tôi. Cám ơn nhiều nhé, Horace! Tôi thầm nghĩ.
Tôi cũng ngờ rằng hệ xoang của Bonepenny vẫn giữ được chất cacbon tetraclorua được tiêm vào đầu hắn, vì chất này không hòa tan trong nước – hoặc trong nước mũi – và điều này cũng góp phần ngăn cản việc hít thở không khí bên ngoài.
“Không ạ,” tôi nói. “Nhưng ông có thể đề nghị phòng thí nghiệm ở London tiến hành xét nghiệm để xác minh.”
“Không thể nói là ta biết điều đó, nó không thuộc lĩnh vực của ta,” Thanh tra Hewitt nói.
“Đó là một thí nghiệm rất hay,” tôi nói, “thí nghiệm này kiểm tra hạn định của clo tự do khi iốt được giải phóng khỏi cadmi iodua. Cháu chắc chắn họ rất quen với chất này. Cháu cũng có thể đề nghị tự mình làm, nhưng cháu không nghĩ Scotland Yard lại dễ dàng đưa chút ít não bộ của Bonepenny cho một đứa trẻ mười một tuổi.”
Thanh tra Hewitt nhìn tôi đăm đăm trong khoảng thời gian dài như mấy thiên niên kỷ.
“Được rồi,” cuối cùng ông nói. “Chúng ta hãy cùng nhìn nhận xem.”
“Nhìn nhận cái gì ạ?” Tôi nói, đeo vẻ mặt ngây thơ bị tổn thương.
“Mọi việc cháu đã làm. Hãy nhìn vào việc đó.”
“Nhưng cháu đâu có làm gì,” tôi nói. “Cháu…”
“Flavia, đừng coi ta là kẻ ngốc. Không một ai có hân hạnh sở hữu vốn hiểu biết như cháu lại tin ngay lập tức rằng cháu chưa hề làm bài tập về nhà.”
Tôi cười ngượng.
“Chỗ kia ạ,” tôi nói, chỉ về phía góc bàn có một cái thùng thủy tinh được phủ bằng một chiếc khăn lau trà ẩm ướt.
Tôi kéo mạnh tấm vải ra.
Viên Thanh tra há hốc miệng trước vật thể hồng hồng xam xám nổi lềnh phềnh trong thùng.
“Đó là một bộ óc,” tôi nói, “cháu ăn trộm trong tủ. Cô Mullet mua nó ở Carnforth hôm qua để làm bữa ăn đêm tối nay. Rồi cô ấy sẽ tức điên lên.”
“Và cháu đã…?” Ông nói và vỗ tay đen đét.
“Vâng, đúng vậy ạ. Cháu đã tiêm hai phẩy năm centi khối cacbon tetraclorua vào bộ óc này. Đó là lượng mà xilanh của Bonepenny chứa được.”
“Bộ não con người nặng trung bình khoảng một phẩy tư kilôgam,” tôi nói thêm, “và não của nam giới có thể nặng hơn thế. Cháu cắt thêm khoảng mười lăm gam nữa.”
“Làm sao cháu tìm ra điều đó?” Viên Thanh tra hỏi.
“Trong các tác phẩm của Arthur Mee[66] ạ. vẫn là cuốn The Children’s Encyclopaedia.”
“Và cháu đã thử nghiệm… bộ óc này, với sự hiện diện của cacbon tetraclorua?”
“Vâng,” tôi nói, “nhưng phải mười lăm giờ sau khi cháu tiêm chất đó vào. Cháu đoán đó là khoảng thời gian đã trôi qua giữa lúc dung dịch được tiêm vào não Bonepenny và thời gian diễn ra cuộc xét nghiệm tử thi.”
“Và?”
“Vẫn dễ phát hiện như cũ,” tôi nói. “Trò chơi của trẻ nhỏ mà. Tất nhiên là cháu sử dụng p-amino-dimethylaniline. Đó là một thí nghiệm khá mới mẻ, nhưng cũng thú vị lắm. Nó được viết trong cuốn The Analyst khoảng năm năm trước. Ông dựng ghế đẩu lên và cháu sẽ chỉ cho ông thấy.”
“Việc này sẽ không hiệu quả đâu,” Thanh tra Hewitt cười thầm.
“Không hiệu quả ư?” Tôi nói. “Đương nhiên là hiệu quả chứ. Cháu đã làm như thế một lần rồi.”
“Ý ta là cháu sẽ không làm ta hoa mắt vì mấy công việc trong phòng thí nghiệm và nói gián tiếp về con tem. Nói cho cùng, mọi việc này đều hướng về con tem đó, đúng không?”
Ông ta đã dồn tôi vào thế bí. Tôi định sẽ không nói gì về con tem Ulster Avenger, rồi sẽ âm thầm đưa nó cho bố. Để xem ai tài lanh hơn nào?
“Cháu nghe đây, ta biết cháu có con tem đó,” ông nói. “Chúng ta đã đến thăm Tiến sĩ Kissing ở Rook’s End.”
Tôi cố tạo vẻ mặt hoài nghi.
“Và Bob Stanley, tức Pemberton, đã nói với chúng ta rằng cháu ăn cắp con tem đó của ông ta.”
Ăn cắp của ông ta ư? Quả là một ý tưởng hay ho! Lão cũng xấc xược thật!
“Đó là con tem của Đức Vua,” tôi cam đoan, “Bonepenny lấy cắp nó trong một cuộc triển lãm ở London.”
“Ừm, dù con tem thuộc về bất kỳ ai thì nó cũng là thứ tài sản bị lấy cắp, và nhiệm vụ của ta là phải thấy con tem trả về đúng chỗ. Mọi thứ ta cần biết bây giờ là làm cách nào mà nó lại nằm trong tay cháu.”
Ông phải gió này! Tôi không né tránh được nữa. Tôi sắp phải thú nhận sự xâm phạm của mình đến quán Con Vịt rồi.
“Chúng ta thỏa thuận nhé,” tôi nói.
Thanh tra Hewitt cười ồ lên.
“Cô de Luce, có nhiều lúc,” ông nói, “nhiều lúc cô xứng đáng nhận được huy chương đấy. Nhưng lại có lúc cô xứng đáng được tống vào phòng giam với bánh mỳ và nước.”
“Và lần này là lúc nào thế ạ?” Tôi hỏi.
Hơ! Flavia, phải cẩn trọng từng đường đi nước bước chứ.
Ông ve vẩy ngón tay về phía tôi. “Ta đang lắng nghe đây,” ông nói.
“À, cháu đang nghĩ đây,” tôi nói. “Dạo gần đây cuộc sống của bố cháu không dễ chịu lắm. Trước hết là ông đến Buckshaw và ông quy cho bố cháu tội giết người.”
“Từ từ đã… từ từ đã,” viên Thanh tra nói. “Chúng ta xong chuyện này rồi mà. Ông ấy bị quy tội giết người vì ông ấy nhận tội mà.”
Thật sao? Tin tức mới đây.
“Và ngay khi ông ấy vừa mới nhận tội thì Flavia xuất hiện.”
“Cháu chỉ cố bảo vệ bố cháu thôi,” tôi nói. “Ở điểm này, cháu nghĩ bố cháu cũng sẽ làm vậy.”
“Và ông ấy cố bảo vệ ai?” Thanh tra Hewitt hỏi và quan sát tôi thật kỹ.
Câu trả lời, đương nhiên, là chú Dogger. Đó là điều bố muốn ám chỉ khi nói “Đó là điều bố lo sợ nhất” sau khi tôi nói với bố rằng Dogger cũng nghe lỏm được cuộc cãi vã giữa bố và Bonepenny trong phòng làm việc của bố.
Bố nghĩ chú Dogger đã giết kẻ đó; rõ ràng là như vậy. Nhưng tại sao? Liệu chú ấy có làm vậy vì lòng trung thành – hay chỉ vì chú ấy đang có tâm trạng bất thường?
Không – tốt nhất là để Dogger tránh xa chuyện này. Đó là điều tối thiểu tôi có thể làm.
“Có lẽ là cháu,” tôi nói dối. “Bố cháu nghĩ cháu đã giết chết Bonepenny. Nói cho cùng, chẳng phải cháu là người đã nhìn thấy cảnh chết chóc đó sao? Bố chỉ đang cố bảo vệ cháu.”
“Cháu tin thế thật sao?” Viên Thanh tra hỏi.
“Nghĩ như thế cũng hay mà,” tôi nói.
“Ta chắc chắn là thế,” viên Thanh tra nói. “Ta chắc chắn ông ấy bảo vệ cháu. Nào, quay trở lại con tem. Ta chưa quên việc đó đâu nhé.”
“À, như cháu đang nói, cháu muốn làm gì đó cho bố cháu; một việc giúp bố cháu vui vẻ, dù chỉ trong vài phút. Cháu muốn đưa cho bố con tem Ulster Avenger, ngay cả khi bố chỉ được chiêm ngưỡng nó trong một hai ngày. Xin hãy để cho cháu làm như vậy, và cháu sẽ nói cho ông biết mọi điều cháu biết. Cháu hứa đấy.”
Viên Thanh tra đi về phía giá sách, lấy một cuốn dày có tên Proceedings of the Chemical Society xuất bản năm 1907, và thổi lớp bụi ở trên đầu gáy sách. Ông lơ đãng lật các trang sách, như thể đang tra cứu xem mình nên nói gì tiếp.
“Cháu biết không,” ông nói, “Antigone, vợ ta, không ghét gì bằng việc đi mua sắm. Có lần, cô ấy nói với ta rằng, thà cô ấy bị trám răng còn hơn mất nửa giờ đồng hồ đi mua một cái đùi cừu. Nhưng cô ấy vẫn phải đi mua sắm; dù thích hay không đi nữa. Đó là số phận của cô ấy, cô ấy nói vậy. Để làm cho công việc ấy càng chán ngắt hơn, thi thoảng cô ấy còn mua một cuốn sách nho nhỏ màu vàng có tên You and Your Stars.”
“Ta phải thừa nhận, rằng đến tận bây giờ, ta đã chế giễu đôi điều mà cô ấy đọc cho ta nghe vào bữa sáng, nhưng sáng nay, lá số tử vi của ta nói – và ta trích dẫn thế này, ‘Sự kiên nhẫn của bạn sẽ được thử thách ở mức cao nhất’. Cháu có nghĩ là ta đang đánh giá sai những việc này không, Flavia?”
“Ông làm ơn đi mà!” Tôi nài nỉ.
“Hai mươi tư giờ,” ông ta nói, “và không hơn không kém, một phút cũng không.”
Và bỗng nhiên, câu chuyện được tuôn ra ào ào, tôi thấy mình đang kể về con chim dẽ giun mắc toi, miếng bánh trứng hoàn toàn vô tội (mặc dù không thể ăn được) của cô Mullet, việc tôi lục lọi căn phòng của Bonepenny ở quán trọ, việc tôi tìm thấy hai con tem, chuyến thăm của tôi đến chỗ cô Mountjoy và Tiến sĩ Kissing, cuộc chạm trán giữa tôi và Pemberton ở Folly và trong nghĩa trang, và việc tôi bị trói chặt ở Pit Shed.
Phần duy nhất tôi không nhắc đến chính là việc tôi hạ độc thỏi son của Feely với chiết xuất chất độc của cây thường xuân. Tại sao lại phải làm ông Thanh tra rối trí vì những chi tiết ngoài lề như vậy chứ?
Khi tôi nói, viên Thanh tra viết vội vàng vào cuốn sổ nhỏ màu đen, và tôi nhận thấy, các trang sách đều dày đặc các hình mũi tên và kí hiệu khó hiểu chắc hẳn phải được lấy cảm hứng từ các công thức thuật giả kim từ thời Trung cổ.
“Có cháu trong đấy không?” Tôi hỏi và chỉ vào cuốn sổ.
“Có.”
“Cháu xem có được không? Cháu chỉ hé mắt nhìn qua thôi?”
Thanh tra Hewitt đóng sập cuốn sổ lại.
“Không,” ông nói. “Đây là tài liệu bí mật của cảnh sát.”
“Thế ông có viết hẳn tên cháu ra không, hay là ông viết tên cháu bằng các ký hiệu?”
“Cháu có một ký hiệu rất riêng,” ông nói và ấn cuốn sổ vào túi. “À, đến lúc ta phải đi rồi.”
Ông giơ một tay ra và bắt chặt tay tôi. “Flavia, tạm biệt cháu,” ông nói. “Đó là… một kinh nghiệm.”
Ông tiến ra mở cửa.
“Ngài Thanh tra…”
Ông dừng bước và quay người lại.
“Nó là gì ạ? Ý cháu hỏi là cái ký hiệu ấy ạ?”
“Đó là chữ P,” ông nói. “Chữ P hoa.”
“Chữ ‘P’ ạ?” Tôi hỏi, và rất ngạc nhiên. “P viết tắt của từ gì ạ?” tôi nói.
“À há,” ông nói, “tốt nhất là cứ để đấy cho cháu tha hồ tưởng tượng.”
Daffy đang ở trong phòng khách, duỗi dài hai chân trên thảm và đọc cuốn The Prisoner of Zenda.
“Chị có biết là chị có cử động môi khi đọc không?” Tôi hỏi.
Chị phớt lờ tôi. Tôi quyết định đánh liều một phen.
“Nhân nói về môi với miệng,” tôi nói, “Feely đâu?”
“Phòng khám bác sĩ,” chị ta nói. “Chị ấy bị dị ứng bộc phát. Chắc thứ gì đó chị ấy tiếp xúc phải.”
À há! Thí nghiệm của tôi thành công rực rỡ rồi! Sẽ không ai biết đâu. Ngay khi có thời gian ở một mình, tôi sẽ ghi ngay vào sổ:
Thứ Ba, 6 tháng 6 năm 1950, 1:20 chiều. Thành công rồi!
Thành công như mong đợi. Công lý được thực thi.
Tôi khẽ khịt mũi. Chắc chắn Daffy nghe thấy tiếng tôi khịt mũi, vì chị ta cựa mình và bắt chéo chân.
“Không thể tin là mày lại thoát được vụ đó,” chị nói nhỏ.
“Hử?” Tôi nói. Sự bối rối vô tội chính là nét đặc trưng của tôi.
“Thế mày cho cái thứ quỷ yêu gì vào thỏi son của chị ấy hả?”
“Em không hiểu một tí tị tì ti gì về cái chị đang nói,” tôi nói.
“Đi mà nhìn mày trong gương ấy,” Daffy nói. “Tao thấy mày chưa làm nó vỡ được đâu.”
Tôi quay lưng và chầm chậm tiến về phía ống thông khói, nơi một chút dư thừa vẩn đục sót lại từ thời nhiếp chính đang buồn thảm phản chiếu căn phòng.
Tôi cúi xuống gần hơn, nhìn hình mình trong đó. Ban đầu, tôi không nhìn thấy gì ngoài vẻ mặt thông minh của mình, đôi mắt màu tím hoa violet, nước da tai tái: nhưng khi tôi nhìn đăm đăm, tôi bắt đầu nhận thấy nhiều chi tiết hơn trong hình phản chiếu của mình.
Có một vết trên cổ tôi. Một vết màu đỏ như viêm tấy. Đúng chỗ Feely đã hôn tôi!
Tôi hét lên đau khổ.
“Feely nói chị ấy sẽ trả thù mày đâu ra đấy trước khi chị ấy đứng trong hầm đủ năm giây.”
Ngay khi Daffy cựa mình và quay trở lại với cuốn sách ngu ngốc của chị ta, tôi đã nghĩ ra một kế hoạch.
Một lần, hồi tôi khoảng chín tuổi, tôi viết một cuốn nhật ký về cảm giác khi là một người mang họ de Luce, hoặc ít nhất là một de Luce đặc biệt thì như thế nào. Tôi nghĩ rất nhiều về cảm giác của mình, và cuối cùng, tôi đưa ra kết luận, rằng Flavia de Luce giống y như một chất đã làm cho trong sạch: như cặn pha lê đen còn sót lại trên thuỷ tinh lạnh của ống nghiệm bởi mùi hoa violet của iốt. Lúc đó, tôi nghĩ đó là sự miêu tả hoàn hảo, và suốt hai năm qua, chưa xảy ra chuyện gì khiến tôi thay đổi suy nghĩ của mình.
Như tôi đã nói, trong dòng họ de Luce còn thiếu một cái gì đó: sự gắn kết hóa học, hoặc thiếu hẳn sự gắn kết có thể cột chặt lưỡi bọn họ mỗi khi họ bị tình cảm chi phối. Thật khó xảy ra trường hợp một người họ de Luce nói với người kia rằng họ yêu thương người ấy biết bao, y như tình yêu thương của một người leo lên đỉnh núi Himalayas và cúi xuống thì thào những lời nói vô nghĩa ngọt ngào với các vách đá cheo leo gần kề.
Điều này được chứng minh khi Feely ăn trộm cuốn nhật ký của tôi, cậy khóa mở cuốn sổ bằng cái mở lon trong bếp, và đọc to nội dung nhật ký trong khi đứng ở trên đỉnh cầu thang và mặc thứ quần áo mà chị ta ăn trộm từ một người hàng xóm rách rưới.
Những suy nghĩ này vẫn ở trong đầu tôi khi tôi đi tới cửa phòng làm việc của bố. Tôi dừng lại… bản thân tôi không chắc chắn. Liệu tôi có thực sự muốn làm việc này không?
Tôi ngập ngừng gõ cửa. Một khoảng lặng dài trước khi bố cất tiếng, “Vào đi.”
Tôi vặn nắm cửa và bước vào phòng. Ở chiếc bàn cạnh cửa sổ, bố ngẩng mặt lên khỏi chiếc kính lúp trong một giây, và sau đó tiếp tục kiểm tra con tem màu đỏ tía.
“Con nói chuyện với bố được không ạ?” Tôi hỏi, và nhận thức được rằng, ngay cả khi tôi đã nói ra điều đó, thì câu hỏi đó cũng quả là kỳ cục, nhưng có vẻ đó vẫn là sự lựa chọn từ ngữ hoàn toàn đúng đắn.
Bố đặt kính lúp xuống, bỏ kính đeo mắt, và xoa xoa mắt. Trông bố có vẻ mệt.
Tôi thò tay vào túi và lấy ra một mẩu giấy viết màu xanh, và tôi gói gọn con tem Ulster Avenger trong đó. Tôi bước lên phía trước như một kẻ đầy tớ, đặt gói giấy lên bàn bố, và bước lùi lại.
Bố mở gói giấy ra.
“Trời đất ơi!” Bố nói, “là con tem AA.”
Bố lại đeo kính lên và giơ kính lúp của thợ kim hoàn để nhìn con tem.
Bây giờ, tôi thầm nghĩ, sẽ là phần thưởng của mình. Tôi thấy mình cứ nhìn đăm đăm vào môi bố, đợi đôi môi ấy cử động.
“Con lấy nó ở đâu?” Cuối cùng bố cũng nói, với giọng nói dịu dàng quen thuộc có thể dồn người nghe vào chân tường, y như lấy đinh ghim chặt một con bướm.
“Con tìm thấy nó,” tôi nói.
Cái nhìn của bố mang đậm tính quân đội – có vẻ tàn nhẫn.
“Chắc là Bonepenny làm rơi,” tôi nói. “Con tem đó là dành cho bố.”
Bố quan sát nét mặt tôi y như một nhà thiên văn học nghiên cứu sao băng.
“Flavia, con giỏi lắm,” mãi sau bố mới nói, với đôi chút nỗ lực lớn.
Và bố đưa cho tôi con tem Ulster Avenger.
“Con phải trả ngay con tem cho người sở hữu chính đáng của nó.”
“Vua George ạ?”
Bố gật đầu, có vẻ sầu não lắm, tôi nghĩ vậy.
“Bố không biết làm cách nào con có được con tem này, và bố cũng không muốn biết. Tự con đã đi quá xa, và giờ con phải nhìn nhận thấu đáo sự việc.”
“Thanh tra Hewitt muốn con giao con tem cho ông ấy.”
Bố lắc đầu.
“Đúng kiểu cảnh sát,” bố nói, “nhưng cũng chính thống. Không, Flavia, AA già nua này đã qua tay quá nhiều người rồi, có người cao quý, có kẻ hèn hạ. Con phải thấy rằng con là người thích hợp nhất.”
“Nhưng phải viết thư cho Đức Vua như thế nào ạ?”
“Bố tin là con sẽ tìm ra cách.” Bố nói, “Đóng giúp bố cánh cửa khi con đi ra.”
Như thể muốn lấp kín chuyện đã qua, chú Dogger đang xúc phân từ chiếc xe cút kít rắc lên vườn dưa chuột.
“Cô Flavia,” chú nói, hạ mũ và lấy ống tay áo lau trán.
“Một người phải viết thư như thế nào để gửi cho Vua đây,” tôi hỏi.
Dogger cẩn thận tựa xẻng vào nhà kính.
“Về lý thuyết, hay trên thực tế?”
“Trên thực tế.”
“Ừm,” chú nói. “Tôi nghĩ tôi phải tra cứu đâu đó đã.”
“Từ từ đã,” tôi nói. “Cuốn sách Enquire Within Upon Everything của cô Mullet. Cô ấy cất sách trong chạn.”
“Chị ấy đang đi mua đồ trong làng,” Dogger nói, “Nếu chúng ta nhanh chân nhanh tay, có thể chúng ta sẽ thoát được vụ này.”
Chỉ một phút sau, chúng tôi đã túm tụm bên cạnh chạn.
“Đây rồi,” tôi phấn khởi nói, vì cuốn sách đang nằm mở trên hai tay tôi. “Nhưng đợi đã – cuốn sách được xuất bản cách đây sáu năm. Liệu nó có còn đúng không?”
“Đúng chứ,” Dogger nói. “Trong thế giới hoàng gia mọi việc không thay đổi nhanh như thế giới của cô với của tôi đâu.”
Phòng khách trống trơn. Daffy và Feely đi đâu đó rồi, rất có thể bọn họ đang lên kế hoạch cho cuộc tấn công kế tiếp.
Tôi tìm được một tờ giấy viết thư đúng kiểu trong ngăn kéo, nhúng bút vào lọ mực, và tôi chép y nguyên lời chào trong cuốn sách dính mỡ của cô Mullet, cố viết tay thật nắn nót:
Xin gửi Quốc chủ thành kính nhất;
Xin gửi đến Đức Vua,
Xin Ngài vui lòng mở thư có đính kèm một đồ vật vô cùng quý giá vốn thuộc về Ngài và vật này đã bị ăn cắp hồi đầu năm. Làm cách nào đó vật đó lại nằm trong tay tôi (một sự tiếp xúc tử tế, tôi nghĩ vậy) không quan trọng, nhưng tôi xin cam đoan với Ngài rằng tên tội phạm đã bị bắt.
“Dễ hiểu lắm,” Dogger nói khi nhòm qua vai tôi để đọc.
Tôi đổi tư thế.
“Gì nữa không chú?”
“Không,” Dogger nói. “Chỉ cần cô ký tên nữa thôi. Mấy ông Vua thích ngắn gọn.”
Cẩn thận không làm dơ trang giấy, tôi chép phần kết trong cuốn sách:
Với sự thành kính sâu sắc nhất, tôi luôn là một bầy tôi trung thành nhất và biết vâng lời nhất của Đức Vua.
Tiểu thư Flavia de Luce
“Hoàn hảo!” Dogger nói.
Tôi gấp gọn thư lại, lấy ngón cái tạo thêm một nếp gấp sắc bén nữa. Tôi bỏ thư vào một trong những chiếc phong bì hạng nhất của bố, và viết địa chỉ:
Kính gửi Vua George VI
Cung điện Buckingham, London, S.W.I.
Anh Quốc
“Cháu có nên đánh dấu là thư riêng không?”
“Đương nhiên,” Dogger nói.
Một tuần sau, trong lúc tôi đang làm mát đôi chân trần trong hồ nước nhân tạo, xem lại các ghi chú về chất độc không màu, chất ankaloit trong cây độc cần, chú Dogger đột nhiên xuất hiện và ve vẩy cái gì đó trong tay.
“Cô Flavia!” Chú gọi và lội qua hòn đảo, chân vẫn còn đi ủng.
Quần chú ướt sũng, và mặc dù chú ấy đứng đó, nước chảy nhờn nhợt xuống dưới y như vị Thần biển, nụ cười của chú ấy vẫn sáng bóng như buổi chiều mùa hè.
Chú ấy đưa cho tôi một cái phong bì mềm mại và trắng muốt như lông tơ con ngỗng.
“Cháu có nên mở không?” Tôi hỏi.
“Tôi tin là thư đề gửi đến cô.”
Dogger nhăn mặt khi tôi xé nắp phong bì và lấy ra một tờ giấy màu kem được gấp bên trong:
Tiểu thư de Luce thân mến!
Ta rất biết ơn cô vì gần đây đã thư cho ta và trao lại món đồ tuyệt vời đó kèm theo thư, và chắc cô cũng biết món đồ đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ đối với lịch sử gia đình ta, mà còn đối với lịch sử nước Anh nữa.
Xin hãy đón nhận những lời cảm ơn sâu sắc nhất của ta.
Và thư được ký tên rất đơn giản, là “George”.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.