Nếu Như Được Làm Lại

CHƯƠNG 14



 Ông đã thuê xe này à? Andrew lên tiếng hỏi khi Pilguez ra hiệu cho anh trèo lên chiếc Ford 4×4 đen sì đậu trước cửa tòa soạn.
– Mượn thôi.
– Với cả bộ đàm cảnh sát ư, Andrew thốt lên. Ông tìm đâu ra cái xe này vậy?
– Thắt dây an toàn rồi đóng hộp để găng lại đi. Cứ coi như là chúng ta đang ở trong một thế giới nơi mà ta không phải tuân theo phép tắc gì hết. Nếu tôi từng là thầy thuốc thì tôi sẽ mượn được xe cứu thương ngay, thế đã được coi là câu trả lời cho câu hỏi của anh chưa?
– Tôi còn chưa đặt chân lên xe của cảnh sát bao giờ.
Pilguez nhìn Andrew rồi mỉm cười.
– Đồng ý, tôi hiểu rồi, vừa nói ông vừa cúi xuống hộp để găng.
Ông lôi chiếc đèn hiệu đặt lên bảng điều khiển rồi bật còi inh ỏi.
– Như thế này anh đã thấy hài lòng chưa?
– Vô cùng, Andrew vừa đáp vừa bám chặt vào ghế trong lúc Pilguez tăng tốc.
Mười phút sau, viên thanh tra đỗ chiếc Ford tại góc giao giữa phố Charles với xa lộ West End.
Andrew dẫn ông đi về phía con đường mà anh thường chạy bộ mỗi sáng. Họ dừng lại ngang tầm Cầu tàu số 4.
– Đây chính là nơi chuyện đã xảy ra, chỉ cần đến đây thôi tôi đã lại thấy đau rồi.
– Do hiệu ứng tâm lý thôi! Hít thật sâu vào sẽ khiến anh thấy dễ chịu hơn nhiều. Khi anh nghĩ lại giấc mơ báo mộng đó, anh có nhận ra vũ khí được sử dụng không? Vừa hỏi Pilguez vừa đảo mắt nhìn khắp lượt chung quanh.
– Đó không phải là giấc mơ báo mộng!
– Được rồi, chuyện đã xảy ra và nó sẽ còn xảy ra tiếp nếu chúng ta cứ mất thời giờ mà cãi vã nhau như thế này.
– Tôi bị tấn công từ phía sau. Khi hiểu được chuyện xảy ra với mình thì tôi đã tắm trong biển máu của chính tôi rồi.
– Máu đó từ đâu ra?
– Tôi khạc từ mồm và mũi ra.
– Anh cố nhớ lại xem, không có máu từ bụng à?
– Không, nhưng sao thế?
– Bởi một viên đạn nếu bắn gần sẽ gây thiệt hại ở điểm đạn đi ra nhiều hơn điểm chạm đích. Nếu anh bị bắn từ phía trên thì ruột gan anh sẽ bị xổ xuống đường, anh hiểu không?
– Thế nếu như tôi bị ngắm bắn từ phía xa hơn, chẳng hạn với một khẩu súng có ống ngắm thì sao?
– Đó chính là điều tôi đang cố để ý đây. Không mái nhà nào ở bên kia xa lộ có tầm ngắm vừa đủ chúc xuống để ngắm bắn chính xác một người chạy bộ giữa cả đống những người khác từ khoảng cách xa đến vậy. Và hơn nữa, anh nói rằng mình chết vào ngày mùng 10 tháng Bảy phải không nhỉ?
– Ngày mùng 9, sao thế?
– Anh ngẩng đầu nhìn đi: cây cối đâm chồi nảy lộc chẳng mấy chốc sẽ che khuất toàn bộ đoạn đường này. Phát đạn đã được ai đó đi theo anh bắn theo phương nằm ngang.
– Tôi không hề cảm thấy đau ở bụng.
– Thế thì anh đã bị đâm chết bằng gươm dao gì đó, giờ chỉ cần xác định xem đó là loại nào thôi. Hít thở sâu vào, tôi thấy anh lại xanh xao rồi kìa.
– Cuộc nói chuyện này chẳng hề dễ chịu chút nào.
– Ta có thể tìm anh chàng Simon đó ở đâu?
– Vào giờ này thì cậu ấy đang ở văn phòng. Cậu ấy có một xưởng ô tô cổ ở phố Perry.
– Tuyệt vời, chỗ đó cách đây có mấy bước chân thôi và tôi thì mê ô tô cũ vô cùng.
 
°
 
Pilguez há hốc mồm khi đặt chân vào ga ra. Một chiếc Chrysler Mewport, một con De Soto rồi cả một chiếc Plymouth tháo mui được màu be, một chiếc Thunderbird sản xuất năm 1956, một chiếc Ford Crestline mẫu năm 1954 cùng vô số mẫu khác xếp ngay ngắn trên nền nhà sạch bong. Viên thanh tra tiến về phía một chiếc Packard Mayfair.
– Thật không thể tin nổi, ông thì thầm, bố tôi cũng từng có cái y hệt, tôi chưa hề nhìn thấy cái nào khác từ lâu lắm rồi.
– Đây là mẫu được sản xuất cực ít, Simon vừa tiến lại gần vừa giải thích. Vả lại, tôi cũng chẳng giữ nó ở đây lâu nữa đâu, mẫu này vô cùng hiếm và đến thứ Sáu này tôi sẽ không cho mướn nó nữa, trước khi tìm ra người chủ mới cho nó.
– Thôi mấy lời tán phỉnh của cậu đi, chúng tớ đến đây không phải để mua xe đâu, Andrew vừa tiến lại gần vừa nói. Ông ấy đi cùng tớ.
– Cậu ở đây à! Dù sao cậu cũng nên báo trước cho tớ mới phải.
– Sao vậy, chẳng nhẽ tớ phải gửi giấy báo cho cậu trước khi ghé qua ư? Nếu cậu muốn, tớ có thể đi luôn.
– Ôi không, chỉ là vì…
– Cậu ta ghét bị tôi bắt quả tang khi đang phỉnh phờ tăng giá, Andrew nói với Pilguez. Ông có công nhận là cậu ta đóng vai này rất hoàn hảo không? Một chiếc ô tô vô cùng hiếm, và đến thứ Sáu này tôi sẽ không cho mướn nó nữa, trước khi tìm ra người chủ mới cho nó. Đừng có mà nghe mấy lời đường mật đó! Cậu ta đã sở hữu nó trong tay hai năm nay rồi, và chúng tôi đã lái nó đi nghỉ cuối tuần mùa hè vừa qua và chưa hết, nó còn hỏng ngay giữa chừng cơ, đó chính là điều cần nói với ông đấy!
– Thôi được rồi, tớ nghĩ là ông đây đã hiểu. Cậu muốn gì nào, bởi tớ còn việc phải làm.
– Tình bạn của các cậu dễ thương thật, Pilguez thốt lên.
– Chúng ta có thể vào phòng làm việc của cậu được không? Andrew lên tiếng hỏi.
– Mặt cậu trông lạ lắm, cậu gặp vấn đề gì à?
Andrew một mực im lặng.
– Có chuyện gì thế? Simon cố nài.
– Tốt hơn hết là vào phòng cậu nói chuyện, Pilguez tiếp lời.
Simon ra hiệu cho Andrew dùng thang bộ dẫn lên căn gác lửng.
– Xin hỏi khí không phải, Simon đang đi sau cùng quay sang hỏi Pilguez, ông là ai?
– Một người bạn của Andrew, nhưng đừng có ghen tị, giữa chúng ta không có bất cứ cạnh tranh gì đâu.
Simon mời cả hai vị khách ngồi vào hai chiếc ghế bành bằng da đối diện với anh rồi Andrew kể lại chuyện của mình cho bạn nghe.
Simon lắng nghe bạn kể mà không cắt ngang lần nào và một giờ đồng hồ sau đó, khi Andrew nói rằng mình đã kể lại tất cả, Simon nhìn bạn hồi lâu rồi nhấc điện thoại lên.
– Tớ gọi cho anh bạn bác sĩ mà tớ thường trượt tuyết cùng hằng năm, đó là một bác sĩ đa khoa đầu bảng đó. Hẳn là cậu đã mắc chứng đái tháo đường rồi. Tớ nghe nói rằng nếu lượng đường quá nhiều thì có thể gây rối loạn trí óc. Cậu đừng quá lo, dù có thế nào thì chúng ta cũng sẽ tìm ra…
– Đừng nhọc công tốn sức anh bạn, Pilguez vừa nói vừa đặt tay lên điện thoại, tôi từng đề nghị với cậu ấy đến khám chỗ bà bạn chuyên khoa thần kinh của tôi rồi nhưng bạn cậu vẫn chắc như đinh đóng cột với điều cậu ấy nói.
– Thế ông đứng ra đảm bảo cho chuyện của cậu ấy ư? Vừa nói Simon vừa quay về phía Pilguez, ảnh hưởng tốt đó, hoan hô.
– Anh chàng chủ ga ra ơi, tôi không biết liệu bạn cậu có gàn dở hay không, nhưng tôi biết đó là người thành thực. Ba mươi lăm năm trong ngành cảnh sát, tôi đã phải đối mặt với vô số vụ hoàn toàn vượt khỏi chuẩn thông thường. Nhưng không vì thế mà tôi từ bỏ đâu.
– Ông là cảnh sát à?
– Đã từng thôi.
– Về phần mình, tôi không phải là anh chàng chủ ga ra mà là dân kinh doanh nghệ thuật. Thôi bỏ qua đi. Những vụ kiểu gì thế?
– Một trong những vụ mới gần đây của tôi, một gã đã bắt cóc một phụ nữ bị hôn mê sâu ngay trên giường bệnh.
– Quả đúng là không bình thường, Simon rít lên.
– Kẻ bị tình nghi là một kiến trúc sư, một gã kỳ lạ. Tôi nhanh chóng chắc chắn về tội trạng của hắn, nhưng có gì đó không hợp lý lắm, tôi không hiểu rõ động cơ của hắn ta. Phá được một vụ án mà không xác định được động cơ của kẻ phạm tội thì mới chỉ hoàn thành được nửa việc mà thôi. Với gã đàn ông mà mọi thứ đều hoàn toàn bình thường ấy, chẳng hề có bất cứ lý do gì giải thích cho hành vi này của hắn.
– Thế ông đã làm gì?
– Tôi theo dõi hắn và đã tìm ra người thiếu phụ vài ngày sau đó. Hắn đã giấu cô trong một ngôi nhà cũ bị bỏ hoang ở sườn núi Carmel.
– Ông đã bắt hắn chứ? Simon hỏi.
– Không, hắn đã bắt cóc người phụ nữ này để giúp cô thoát khỏi tay bác sĩ và gia đình của cô ấy. Cả cái thế giới nhỏ bé quanh cô ấy đã quyết định ngắt sự sống của cô ấy. Hắn khẳng định là cô ấy đã tìm tới hắn, rằng cô ấy đã xuất hiện trong nhà hắn để cầu xin hắn giúp đỡ. Câu chuyện quá ư vô lý, đúng không? Nhưng hắn vô cùng thành thực và rồi rốt cuộc hắn cũng làm khá tốt, cô gái kia đã thoát khỏi trạng thái hôn mê chỉ ít lâu sau khi tôi đưa cô ấy trở lại bệnh viện. Thế nên, tôi đã cố tình đánh mất hồ sơ điều tra, nếu anh hiểu điều tôi muốn nói, coi như người đàn ông này đã cứu giúp một người đang gặp nguy hiểm theo một cách nhất định nào đó.
– Hơi giống cách ông đã làm với tôi phải không? Andrew ngắt lời ông.
– Tôi đã kể với anh tất thảy những điều đó vào cái tối chúng ta dùng bữa cùng nhau ngay sau vụ va chạm xe hơi nho nhỏ của chúng ta rồi, đúng không? Có phải vì thế mà anh đã cầu viện tôi giúp đỡ không? Anh tự nhủ rằng một gã đủ hâm để tin vào một câu chuyện như vậy hẳn sẽ tin vào câu chuyện của anh đúng không?
– Và tôi đã nhầm ư? Andrew mỉm cười hỏi, không phải thế sao?
– Chỉ là một bài kiểm tra nho nhỏ để trấn an tinh thần thôi mà, Simon van vỉ. Tớ không yêu cầu cậu nhiều, trái ngược với cậu đấy.
– Theo tớ biết thì tớ còn chưa yêu cầu gì cậu nhỉ?
– Cậu bảo tớ phải tin rằng cậu sẽ bị sát hại trong vài tuần nữa, và rằng cậu tin chắc mình đã chết… ngoại trừ điều đó ra thì cậu chẳng bảo tớ làm gì nhiều nhặn cả. Tốt thôi, chúng ta sẽ tìm hiểu điều tra, bởi vì khi nghe cậu nói, tớ chẳng tin là nó gấp gáp lắm.
– Phải thú thực với cậu là thoạt đầu tôi cũng có chút phản ứng giống cậu, Pilguez thổ lộ, nhưng đồng thời tôi cũng phải thú nhận rằng bạn cậu có một biệt tài.
– Tài gì thế? Simon tiếp lời.
– Tài dự báo một số tin tức trước khi nó xảy ra.
– Chỉ còn thiếu mỗi nước đó thôi. Hẳn là chính tôi cũng nên kiểm chứng mới được, bởi rõ ràng là ở đây chỉ có mình tôi thấy câu chuyện này rất khó tin…
– Thôi đi Simon, tớ chẳng hề muốn quấy quả cậu bằng mấy cái thứ này đâu, chính ông thanh tra đây đã nài nỉ tớ làm thế thôi. Chúng ta đi thôi, vừa nói Andrew vừa đứng dậy.
– Hai người đi đâu thế? Simon lao ra chặn đường bạn hỏi.
– Cậu ấy à, cậu cứ ở lại đây đi, bởi cậu đang ngập việc, còn chúng tôi, chúng tôi sẽ tiếp tục điều tra và tìm ra kẻ muốn giết bạn cậu trước khi quá muộn.
– Đợi chút đã! Tớ chẳng thích chuyện này tẹo nào, nhưng không hẳn là hoàn toàn không, Simon vừa bước từng bước dài trong phòng vừa lẩm bẩm. Sao tớ lại phải ở đây một mình trong khi cả hai người đi…?
– Mẹ kiếp, Simon! Đây không phải là chuyện đùa, mạng sống của tớ đang bị đe dọa.
– Được rồi, Simon thở dài đánh thượt rồi vớ lấy áo vest vắt trên lưng ghế. Thế tớ có thể biết hai người định đi đâu không?
– Tôi cần đảo nhanh một chuyến sang phía bên kia Chicago, vừa nói Pilguez vừa rời khỏi phòng. Tôi sẽ trở lại ngay khi có thể. Không làm phiền hai cậu nữa, tôi sẽ tự tìm đường đi.
Simon tiến lại ô cửa kính nhô cao phía trên xưởng xe nhìn viên thanh tra rời khỏi ga ra.
– Cậu thực sự có thể tiên đoán chuyện sắp xảy ra trong vài tuần tới ư?
– Chỉ những thứ mà tớ còn nhớ thôi, Andrew đáp.
– Tớ sẽ bán được một con xe chứ?
– Con Pontiac, vào đầu tháng Bảy.
– Sao cậu có thể nhớ chuyện như vậy?
– Vì cậu đã mời tớ ăn tối để ăn mừng chuyện này… và còn rao giảng đạo đức với tớ nữa chứ.
Andrew do dự rồi thở dài nhìn bạn.
– Chỉ mỗi con Pontiac thôi sao? Thời buổi đúng là khó khăn, nhớ lại năm ngoái tớ toàn bán hai chiếc mỗi tháng cơ. Cậu có tin tốt lành nào khác báo với tớ không?
– Cậu sẽ sống thọ hơn tớ, chẳng hề tồi phải không nào?
– Andrew, nếu cậu định sai khiến tớ thì giờ hãy làm đi, và tớ sẽ trao cho cậu giải Oscar dành cho diễn viên chính xuất sắc nhất, tớ chỉ hơi hơi tin cậu thôi.
Andrew không trả lời.
– Hơn nữa cũng chẳng hề chi! Điều duy nhất quan trọng chính là chuyện này là thực với cậu. Tớ hiếm khi thấy cậu nhớn nhác như lúc này. Thế ta bắt đầu từ đâu?
– Cậu nghĩ Valérie có khả năng giết tớ không?
– Nếu cậu thực sự rời bỏ cô ấy vào ngay đêm tân hôn của hai người thì tớ có thể hiểu là cô ấy sẽ căm hờn cậu. Hoặc có thể bố cô ấy sẽ muốn trả thù cho con gái.
– Tớ chưa cho ông ấy vào danh sách của mình. Thế là lại thêm một người nữa!
– Cậu biết không, tớ có ý tưởng đơn giản như thế này để tránh cho cậu điều tồi tệ nhất. Lần tới mà cậu cưới ấy, thử nâng cao cảnh giác trong vài tháng đã, điều này sẽ giúp cậu tránh được hai kẻ tình nghi cùng lúc.
– Tất cả đều là lỗi của cậu.
– Sao lại là lỗi của tớ?
– Nếu cậu không dẫn tớ tới quán bar Novecento, tớ sẽ không bao giờ…
– Nói xem nào, cậu quá lời rồi đấy, trong câu chuyện cậu vừa kể, chính cậu đã nài nỉ tớ quay lại chỗ đó.
– Tớ không thể tin là cô ấy có khả năng giết mình, dù có tức giận đến cỡ nào.
– Cậu đã nói là cậu bị sát hại bằng gươm dao gì đó, cô ấy hẳn có thể đâm cậu bằng một dụng cụ phẫu thuật, món đó không hề thiếu trong nghề của cô ấy và rồi hành động thì chính xác vô cùng, phải không nào? Phải có chút khéo léo nhất định thì mới có thể làm thế được.
– Thôi đi Simon!
– Tớ chẳng thôi cái gì sất, chính cậu đến tìm tớ đấy chứ! Cậu có thể nói với lão thanh tra về hưu của cậu là kể từ giây phút này, tớ và ông ta là đối thủ của nhau, chính tớ sẽ tìm ra kẻ sát hại cậu! Vả lại, cái lão thanh tra đó định làm gì ở Chicago vậy?
– Tớ sẽ giải thích cho cậu trên đường đi.
Simon mở ngăn kéo rồi vớ lấy chùm chìa khóa. Anh dẫn Andrew xuống tận xưởng rồi chỉ vào chiếc Packard.
– Tớ phải lái nó đến cho một khách hàng xem, tớ hẹn ở dưới nhà ông ta ở gần phố 66, tớ thả cậu xuống giữa đường được không? Dù tớ tự hỏi mình sao lại đến cuộc hẹn này bởi cậu vừa nói với tớ rằng từ giờ cho đến tháng Bảy, tớ chẳng bán được chiếc nào…
– Bởi cậu vẫn chưa tin tớ hoàn toàn.
Andrew tranh thủ chuyến đi để trả lời hết câu hỏi này cho đến câu hỏi khác của Simon. Đến trước tòa soạn The New York Times thì họ chia tay nhau.
Khi ngồi vào bàn làm việc, Andrew thấy có một lời nhắn trên máy tính của mình. Olivia Stern yêu cầu anh đến gặp cô càng sớm càng tốt. Ở phía sau tấm vách ngăn, Freddy Olson đang rì rầm nói chuyện điện thoại. Cứ khi nào Freddy nói nhỏ là y như rằng đang có sự vụ mà hắn muốn giữ riêng để mình là người biết đầu tiên. Andrew ngồi lùi sâu vào ghế rồi dán chặt tai vào tấm ngăn.
– Vụ giết người đó xảy ra khi nào? Olson hỏi người bên kia đầu dây. Và đó là vụ tấn công thứ ba theo kiểu này rồi phải không? Tôi biết, tôi biết, hắn tiếp tục. Cùng lúc đó là một nhát dao vào sống lưng, ở giữa New York này thì như thế cũng chẳng phải độc đáo gì lắm nhỉ, từ đó có thể kết luận là một tên giết người hàng loạt, khả năng anh hơi đốt cháy giai đoạn đấy. Tôi sẽ chú ý chuyện này sát sao hơn. Cảm ơn anh, tôi sẽ gọi lại nếu có tin gì mới. Một lần nữa xin cảm ơn nhiều.
Olson gác máy rồi đứng dậy, có lẽ là để đi toa lét. Đã từ lâu Andrew nghi ngờ hắn không chỉ đến đó để xả bọng đái, hoặc là bọng đái của hắn thực sự yếu lắm. Xét đến tình trạng thường xuyên bồn chồn của tay đồng nghiệp, Andrew ngờ rằng hắn đi hút xì ke.
Ngay khi Freddy khuất dạng, Andrew vội đến ngồi vào bàn của Olson rồi lướt nhanh phần ghi chép của hắn.
Một người đàn ông bị đâm bằng dao găm ngày hôm qua tại Công viên Trung tâm, gần ao rùa. Kẻ tấn công đã đâm nạn nhân ba nhát liên tiếp trước khi bỏ trốn để mặc nạn nhân chết. Tuy vậy, nạn nhân vẫn còn sống và đã được cấp cứu tại bệnh viện Lenox. Tin này đã được tường thuật chi tiết trên tờ New York Post, tờ nhật báo khổ nhỏ chuộng những thể loại tin giật gân tương tự. Ở phía cuối trang, Olson còn nguệch ngoạc hai dòng ngày tháng kèm hai địa chỉ, ngày 13 tháng Giêng, phố 141 và ngày 15 tháng Ba, phố 111.
– Tôi có thể biết anh đang làm gì ở đây không?
Giọng nói khiến Andrew giật nảy mình.
– Tôi làm việc như anh có thể thấy đấy, hình như ở đây không phải ai cũng thế?
– Anh làm việc ở bàn tôi à?
– Thảo nào tôi cứ tự hỏi sao lại không thấy đồ đạc của mình nhỉ! Andrew thốt lên. Hóa ra là tôi bị lộn chuồng, Andrew vừa đứng dậy vừa nói thêm.
– Anh coi tôi là thằng ngốc đấy chắc?
– Tôi cũng hay bị thế này ấy mà. Tôi xin lỗi, tổng biên tập gọi tôi đến gặp. Chùi mũi đi, có chút gì trăng trắng phía trên môi anh kìa. Anh đã ăn bánh kẹp à?
Freddy liền xoa xoa lỗ mũi.
– Thế ẩn ý ở đây là gì?
– Tôi chẳng có ẩn ý gì hết… Giờ anh làm ở mục tin vặt à?
– Anh nói cái gì vậy?
– Trong tập giấy nhớ của anh, có ngày tháng cùng địa chỉ kìa, đó là lũ cẩu bị xe buýt cán chết đúng không? Anh biết bạn gái tôi là bác sĩ thú y mà, nếu anh cần giúp một tay để điều tra thì…
– Một độc giả đã liên kết ba vụ án giết người bằng dao găm ở New York, anh ta khẳng định đó là một tay giết người hàng loạt.
– Và anh đồng tình với ý kiến đó?
– Ba nhát dao trong vòng năm tháng tại một thành phố hai triệu dân, số liệu này không có sức thuyết phục lắm, nhưng Olivia đã giao cho tôi phụ trách tiến hành điều tra.
– Thôi, không phải tôi không muốn ở lại nói chuyện với anh, nhưng tôi có hẹn mất rồi.
Andrew quay gót rồi thẳng tiến phòng làm việc của Olivia Stern. Cô ra hiệu cho anh vào.
– Việc tìm kiếm của anh tiến hành đến đâu rồi? Olivia lên tiếng hỏi trong lúc vẫn đang tiếp tục mổ cò trên bàn phím máy tính.
– Các nguồn tin tại chỗ đã gửi cho tôi nhiều tin mới, Andrew nói dối. Tôi có nhiều cuộc hẹn đang đợi và một hướng đi thú vị có thể buộc tôi đi xa hơn Buenos Aires một chút.
– Hướng nào thế?
Andrew gắng huy động bộ nhớ. Kể từ lúc quay ngược về quá khứ, anh chỉ dành rất ít thời gian cho cuộc điều tra vì quá bận tâm đến số phận bản thân. Để thỏa mãn trí tò mò của tổng biên tập, anh đã lục tung các kỷ niệm, những kỷ niệm về chuyến đi mà anh xem như là chưa diễn ra.
– Ortiz có lẽ sẽ đến sống trong một ngôi làng nhỏ ở chân núi không xa Cordoba là mấy.
– Có lẽ ư?
– Tôi sẽ biết rõ ràng chính xác một khi đã có mặt tại thực địa. Chưa đến hai tuần nữa tôi sẽ khởi hành.
– Tôi đã nói với anh rồi, tôi cần các bằng chứng cụ thể cùng tài liệu, một bức ảnh mới đây nhất. Tôi không thể bằng lòng chỉ với vài lời chứng hoặc trong trường hợp ấy, chúng phải xuất phát từ những nhân vật đáng tin.
– Khi nói với tôi như vậy, thật sự tôi có cảm giác cô chỉ coi tôi là một tay gà mờ, như thế khiến tôi hơi mếch lòng đấy.
– Anh quá là dễ tự ái, Andrew ạ, và cuồng á…
– Tin tôi đi, tôi có cái lý của mình, vừa đáp anh vừa đứng dậy.
– Tôi đã hao tâm tổn lực rất nhiều vì bài báo của anh rồi, đừng để tôi bị thất bại, cả anh lẫn tôi, chúng ta không có quyền mắc sai lầm.
– Thật điên rồ khi thời gian gần đây lời cảnh báo này trở nên quen thuộc với tôi quá. Nhân tiện, cô đã bảo Olson điều tra về vụ giết người hàng loạt à?
– Không, sao thế?
– Không vấn đề gì đâu, vừa đáp Andrew vừa rời khỏi phòng Olivia Stern.
Andrew quay trở lại ngồi trước máy tính của mình. Anh mở bản đồ Manhattan ở chế độ toàn màn hình rồi xác định hai địa chỉ ghi trong tập giấy nhớ của Olson. Hai vụ giết người đầu tiên được thực hiện ở ven một công viên, ngày 13 tháng Giêng trên phố 141 rồi đến ngày 15 tháng Ba tại phố 111, vụ mới đây nhất thì ở đầu dốc phố 79. Nếu là cùng một tên sát nhân, thì tên này dường như hành động từ mạn Bắc xuống mạn Nam của đảo. Andrew ngay lập tức nghĩ rằng vụ tấn công mà mình là nạn nhân sẽ kéo dài cái trục đường dẫn xuống địa ngục này. Anh tìm vài thông tin về người vừa bị tấn công rồi vớ lấy áo vest vội vã rời văn phòng.
Ra đến lối thông giữa các phòng, anh liếc mắt nhìn xuống phố qua vách kính thì chợt một chi tiết khiến anh chú ý. Anh nhấc điện thoại rồi bấm số.
– Tớ có thể biết cậu làm cái quái gì mà cắm rễ chình ình phía sau cái cây ngay cửa tòa soạn chỗ tớ không?
– Sao cậu biết? Simon hỏi.
– Bởi tớ nhìn thấy cậu, ngốc ạ.
– Cậu nhận ra tớ ư?
– Thế cái áo gió cùng cái mũ kia là gì thế?
– Phục trang để che giấu nhân thân.
– Hiệu quả thật! Cậu đang chơi trò gì thế?
– Tớ chẳng chơi bời gì sất, tớ theo dõi những nơi đi và đến của tay đồng nghiệp Olson của cậu. Ngay khi hắn rời đi, tớ sẽ theo sát hắn.
– Cậu điên mất rồi!
– Thế cậu muốn tớ làm gì nữa đây? Giờ khi đã biết rằng mình sẽ không bán nổi một chiếc xe nào trong vòng hai tháng tới thì tớ sẽ chẳng mất thời gian ở ga ra làm gì trong khi có kẻ muốn sát hại cậu! Và cậu nói nhỏ chút đi, cậu sẽ làm tớ bị phát hiện mất.
– Cậu chẳng cần đến tớ mới bị phát hiện đâu. Đợi tớ ở đó, tớ sẽ xuống gặp cậu và cậu ra khỏi chỗ cái cây đó đi!
Andrew gặp lại Simon trên vỉa hè rồi nắm lấy tay bạn kéo đi xa khỏi cửa vào tòa soạn The New York Times.
– Cứ như Philip Marlowe[1] ấy, trông cậu thật nực cười.
[1] Nhân vật thám tử tư trong loạt truyện trinh thám của tác giả Raymond Chandler.
– Cái áo khoác này đắt lòi mắt ra, hàng Burberry xịn đấy.
– Simon, trời đang nắng chang chang kia kìa.
– Cậu tự coi mình là Chúa Jesus hiện sinh và cậu định lên lớp tớ vì tớ đã đóng vai thám tử tư ư?
Andrew vẫy một chiếc taxi rồi van nài Simon lên xe và bảo tài xế chở cả hai đến góc giao giữa Đại lộ Công viên và phố 77.
Mười phút sau, chiếc taxi đỗ trước lối vào cho xe cấp cứu của bệnh viện Lenox.
Simon bước ra trước tiên rồi tiến về phía quầy lễ tân.
– Xin chào, anh nói với cô y tá, chúng tôi đến vì bạn tôi…
Andrew lại tóm lấy cánh tay bạn rồi thô bạo kéo Simon ra xa.
– Tớ lại làm cái gì à? Cậu không đến khám bác sĩ tâm thần sao?
– Simon, hoặc là cậu cư xử cho bình thường, hoặc là cậu quay về ngay tức khắc, rõ chưa?
– Tớ cứ tưởng lần này cậu đã quyết định đúng đắn. Nếu không vì cậu, sao chúng ta lại ở trong bệnh viện này?
– Có một gã đã bị đâm bằng dao găm từ phía sau. Tớ muốn hỏi gã đó một chút. Cậu sẽ giúp tớ vào phòng gã đó càng kín đáo càng tốt.
Khuôn mặt Simon để lộ niềm vui sướng được tham gia vào một vụ như thế này.
– Thế tớ phải làm gì?
– Quay lại gặp cô y tá ở quầy lễ tân rồi khẳng định cậu là anh trai của một gã Jerry McKenzie nào đó và cậu đến thăm hắn.
– Cứ như thể là sự đã rồi ấy.
– Và cởi cái áo khoác này ra nữa!
– Chẳng cần cậu phải dạy tớ làm thế nào đâu! Vừa đi khỏi Simon vừa đáp.
Năm phút sau, Simon trở lại chỗ Andrew đang ngồi đợi mình trên chiếc ghế băng nhỏ ở phòng đợi.
– Thế nào rồi?
– Phòng 720, nhưng sau 13 giờ mới được thăm nom và chúng ta không vào được đâu, có cảnh sát canh trước cửa.
– Thế thì toi rồi, Andrew làu bàu.
– Trừ phi là có một cái phù hiệu, Simon vừa nói thêm vừa dính một mẩu giấy dính lên áo khoác, như cái này này.
– Cậu có nó bằng cách nào thế?
– Tớ đã trình giấy tờ của mình cho cô nàng y tá xem, tớ nói với cô nàng rằng tay Jerry tội nghiệp kia là em trai tớ, chúng tớ không chung bố nhưng cùng mẹ nên tên họ khác nhau, rằng tớ từ Seattle đến và tớ là người thân duy nhất trong gia đình.
– Thế cô nàng tin cậu à?
– Có vẻ như tớ trông đáng tin và rồi với chiếc áo gió này, Seattle quả đúng là nơi không thể thiếu nó, trời mưa ba trăm sáu mươi lăm ngày trong năm. Tớ cũng đã hỏi xin cô nàng số điện thoại để mời cô nàng ăn tối bởi tớ chỉ có một thân một mình ở thành phố này.
– Thế cô nàng có cho cậu không?
– Không, nhưng nàng cảm thấy được ve vãn và nhờ đó, nàng đã cho tớ cái phù hiệu thứ hai… cho tay tài xế của tớ, vừa nói Simon vừa dán một miếng sticker vào áo vest của Andrew. Chúng ta đi chứ, James?
Trong lúc thang máy đang lên tầng tám, Simon đặt tay lên vai Andrew.
– Nào, nói đi, cậu sẽ thấy điều đó không hại gì cậu đâu.
– Nói gì?
– Cảm ơn, Simon.
 
°
 
Andrew và Simon bị lục soát theo đúng nguyên tắc trước khi viên cảnh sát canh gác để cho cả hai vào phòng.
Andrew lại gần người đàn ông đang ngủ gà ngủ gật. Anh ta choàng mở mắt.
– Các anh không phải bác sĩ đúng không? Các anh làm gì ở đây?
– Tôi là nhà báo, tôi không muốn hại anh đâu.
– Đi mà nói thế với một tay chính trị gia ấy…, người đàn ông vừa nhăn nhó vừa ngồi thẳng dậy trên giường. Tôi chẳng có gì để nói với anh cả.
– Tôi không ở đây vì công việc, vừa nói Andrew vừa tiến lại gần giường bệnh.
– Cút đi nếu không tôi sẽ gọi cảnh sát!
– Tôi cũng bị đâm giống như anh, và có hai người khác cũng chịu chung số phận trong hoàn cảnh tương tự. Tôi tự hỏi liệu đó có phải là do cùng một kẻ gây ra hay không. Tôi chỉ muốn biết liệu anh có nhớ được gì không? Khuôn mặt của hắn ta? Vũ khí hắn dùng tấn công anh?
– Tôi bị tấn công từ sau lưng, anh có bị ngớ ngẩn hay không!
– Thế anh không nhìn thấy gì xảy đến à?
– Tôi nghe thấy tiếng bước chân phía đằng sau. Lúc đó có rất đông người đang rời khỏi công viên, tôi chỉ cảm thấy có ai đó đang tiến lại gần. Tôi đã gặp may, chỉ cần nhích lên một xăng ti mét nữa là tên khốn đó đã đâm trúng động mạch rồi. Có lẽ tôi sẽ bị cạn sạch máu trước khi đến được đây. Hơn nữa các bác sĩ cũng bảo với tôi rằng nếu bệnh viện không ở gần như thế này thì tôi chắc sẽ không thể qua khỏi.
– Tôi thì chẳng có được cái may mắn đó, Andrew thở dài.
– Anh có vẻ rất khỏe đấy chứ.
Andrew đỏ bừng mặt rồi nhìn Simon, cậu bạn đang ngước mắt nhìn lên trời.
– Anh có bị mất ý thức ngay tức khắc không?
– Gần như thế, McKenzie đáp, tôi nghĩ là đã nhìn thấy kẻ sát nhân chạy vượt qua mình, nhưng mắt tôi mờ đi, chắc tôi không thể miêu tả hắn cho anh được. Khi ấy tôi định đi gặp một nữ khách hàng, tôi đã bị cướp mười nghìn đô la tiền hàng. Đây là vụ tấn công thứ ba trong vòng năm năm qua, và lần này tôi đang nộp đơn xin giấy phép mang vũ khí theo người và không chỉ giới hạn trong vòng hai mươi mét vuông quanh cửa hiệu kim hoàn của tôi. Thế còn anh, anh nhà báo, anh bị đâm bằng gì?
Và trong lúc Andrew cùng Simon có mặt ở bệnh viện Lenox, Freddy Olson lục tung ngăn kéo của đồng nghiệp, tìm mật khẩu truy cập máy tính của đồng nghiệp.
°
 
– Chúng ta làm gì bây giờ? Simon lên tiếng hỏi khi đã ở trên vỉa hè sau khi rời bệnh viện.
– Tớ sẽ đi gặp Valérie.
– Tớ có thể đi cùng cậu không?
Andrew im lặng.
– Tớ hiểu. Tớ sẽ gọi cho cậu sau vậy.
– Simon, hứa với tớ là không quay lại tòa soạn.
– Tớ làm điều tớ muốn thôi.
Simon chạy băng qua phố rồi nhảy lên một chiếc taxi.
 
°
 
Andrew trình thẻ căn cước tại khu vực tiếp đón. Sau khi thực hiện một cuộc gọi, viên lính gác chỉ cho Andrew đường đi.
Nơi Valérie làm việc chẳng hề giống với những gì Andrew hình dung.
Anh bước vào một khoảnh sân trong vuông vắn. Một tòa nhà dài ngoằng mà vẻ hiện đại khiến Andrew phải ngạc nhiên sừng sững vươn mình ở phía cuối sân. Chuồng ngựa án ngữ ở tầng trệt. Một cánh cửa ở giữa mở vào một hành lang dài dẫn đến các phòng thú y.
Valérie đang ở khu vực phẫu thuật. Một trợ lý của cô đề nghị Andrew đợi trong phòng nghỉ. Khi Andrew bước vào phòng, một nhân viên cảnh sát đứng bật dậy.
– Anh có tin gì mới không, ca mổ suôn sẻ chứ?
Andrew đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Người đàn ông này, với tầm vóc lừng lững và khi đối diện với anh ta, anh hẳn sẽ thú nhận mọi thứ và bất cứ thứ gì để không làm anh ta nổi giận, dường như đang vô cùng bối rối.
– Không, không có gì cả, vừa nói Andrew vừa ngồi xuống. Nhưng anh đừng lo, Valérie là bác sĩ thú y giỏi nhất New York. Chó của anh chẳng gặp được bác sĩ nào mát tay hơn đâu.
– Anh biết đấy, đó không hẳn là một con chó, người đàn ông thở dài, đó vừa là đồng nghiệp vừa là người bạn thân thiết nhất của tôi.
– Giống gì thế? Andrew hỏi.
– Giống Retriever.
– Thế thì người bạn thân của tôi cũng gần giống vậy.
– Anh cũng có một con Retriever ư?
– Không, con của tôi thuộc giống chó lai, nhưng rất khôn.
Valérie bước vào phòng và rất ngạc nhiên khi thấy Andrew ở đây. Cô đến chỗ viên cảnh sát báo cho anh ta hay rằng anh ta có thể tới thăm chú chó của mình trong phòng hồi sức, ca phẫu thuật đã thành công mỹ mãn. Trong vài tuần nữa, và sau một đợt phục hồi chức năng, nó sẽ lại sẵn sang làm nhiệm vụ. Viên cảnh sát rời đi ngay tức thì.
– Đây đúng là một điều ngạc nhiên thú vị.
– Con chó bị sao thế? Andrew hỏi.
– Nó bị trúng đạn vào phần bụng dưới.
– Nó sẽ được trao huân chương chứ?
– Anh đừng giễu cợt thế chứ, con chó này đã nhảy vào giữa kẻ tấn công và nạn nhân, em không thấy có mấy người làm được như vậy đâu.
– Anh không giễu cợt, Andrew nói vẻ suy tư. Em dẫn anh đi tham quan chứ?
Căn phòng giản dị và sáng sủa. Các bức tường cao nổi bật xây kiên cố, hai khung cửa sổ lớn mở ra khoảnh sân giữa, một chiếc bàn kính đặt trên hai cái mễ kiểu dáng cổ lỗ sĩ được dùng làm bàn làm việc của Valérie, một màn hình máy tính, hai hộp đựng bút chì, một chiếc ghế Windsor mà cô hẳn đã tìm thấy ở một tiệm buôn đồ cũ. Hàng chồng tài liệu chất đống trên chiếc bàn chân quỳ phía sau cô. Andrew nhìn mấy tấm ảnh đặt trên chiếc bàn nhỏ bằng kim loại.
– Đây là tấm hình Colette và em lúc học đại học.
– Cô ấy cũng là bác sĩ thú y à?
– Không, bác sĩ gây mê.
– Đây là bố mẹ em nhỉ, vừa nói Andrew vừa cúi xuống một khung ảnh khác. Bố em chẳng thay đổi gì cả, rốt cuộc cũng bao nhiêu năm rồi còn gì.
– Chao ôi, chẳng thay đổi gì, cả thể chất lẫn tinh thần. Vẫn luôn thiển cận và nghĩ rằng mình biết tuốt hơn tất cả mọi người.
– Hồi chúng ta còn nhỏ, ông chẳng thích anh.
– Ông ghét tất cả bạn em.
– Em có nhiều bạn đến thế cơ à?
– Vài người thôi…
Valérie chỉ tay vào một khung ảnh khác.
– Nhìn cái này này, vừa nói Valérie vừa cười.
– Ơ, lạ chưa, là anh phải không?
– Hồi đấy mọi người gọi anh là Ben.
– Em tìm thấy bức ảnh này ở đâu vậy?
– Em vẫn luôn mang theo bên mình. Nó là một phần trong đống hành lý ít ỏi mà em mang theo lúc rời Poughkeepsie.
– Em đã giữ một bức ảnh của anh ư?
– Anh là một phần thời niên thiếu của em, Ben Stilman à.
– Anh rất xúc động, chưa có giây phút nào anh từng nghĩ rằng em muốn dẫn anh đi cùng em, ngay cả khi đó chỉ là một tấm ảnh.
– Nếu em đề nghị anh đi theo em, hẳn anh sẽ không làm thế, đúng không?
– Anh không biết nữa.
– Anh mơ ước trở thành nhà báo. Anh đã tự thân lập ra tờ báo trường và anh ghi chép rất có phương pháp tất cả những gì xảy ra vào một cuốn sổ nhỏ. Em nhớ là anh từng muốn phỏng vấn bố em về nghề của ông và ông đã tống cổ anh ra khỏi nhà.
– Anh đã quên hết sạch rồi.
– Em sẽ thổ lộ với anh một bí mật nhé, vừa nói Valérie vừa tiến lại gần. Khi anh vẫn còn là Ben, anh yêu em hơn rất nhiều so với em yêu anh. Nhưng khi nhìn anh ngủ lúc đêm, em lại có cảm tưởng ngược lại. Đôi khi em tự nhủ rằng như thế thật là không ổn, rằng em không phải là người phụ nữ anh mơ ước, rằng đám cưới đó sẽ không thể diễn ra và rồi cuối cùng anh sẽ rời xa em. Và em không tài nào hiểu nổi vì sao những suy nghĩ ấy lại khiến em đau khổ như vậy.
Andrew tiến thêm một bước về phía Valérie rồi vòng tay ôm lấy cô.
– Em nhầm rồi, em chính là người phụ nữ anh không bao giờ ngừng mơ ước có được, còn thiết tha hơn cả ý nghĩ trở thành nhà báo. Em nghĩ rằng anh đã đợi em suốt cả quãng thời gian đó để rồi rời bỏ em sao…
– Andrew, anh có giữ bức ảnh nào của em không?
– Không, khi đó anh quá giận em vì đã trốn khỏi Poughkeepsie mà không để lại địa chỉ. Nhưng khuôn mặt em đã khắc sâu ở đây rồi, Andrew vừa nói thêm vừa chỉ vào trán mình, và nó chẳng bao giờ rời bỏ anh. Em không thể hình dung anh yêu em đến nhường nào đâu.
Valérie dẫn anh vào khu phẫu thuật. Andrew lợm giọng nhìn mấy miếng gạc đẫm máu vương trên tấm vải nhựa lót sàn. Anh lại gần một bàn dao rồi quan sát các dụng cụ phẫu thuật. Có đủ mọi loại kích cỡ.
– Những thứ này sắc kinh khủng đúng không em?
– Sắc như dao mổ, Valérie đáp.
Andrew cúi xuống chỗ con dao dài nhất rồi nhón tay cầm lên. Anh cầm cán dao ước đoán trọng lượng.
– Chú ý đừng để bị thương đấy, vừa nói Valérie vừa nhẹ nhàng tước con dao ra khỏi tay anh.
Andrew nhận thấy cô vô cùng khéo léo khi thao tác con dao đó. Cô xoay con dao giữa ngón trỏ và ngón giữa rồi đặt xuống bàn dao.
– Đi theo em nào, những dụng cụ này còn chưa được khử trùng đâu.
Valérie dẫn Andrew về phía vòi nước gắn trên bức tường lát gạch vuông. Cô dùng khuỷu tay mở vòi nước, nhấn vòi xà phòng rồi dùng tay rửa tay cho Andrew.
– Ngành phẫu thuật thật là hấp dẫn, Andrew thì thầm.
– Tất cả còn tùy vào người phụ tá anh, Valérie đáp.
Cô vòng tay ôm rồi hôn anh.
 
°
 
Ngồi vào bàn tại quán cà phê giữa đám cảnh sát ở đây, Andrew chợt nhớ tới thanh tra Pilguez, người mà anh đang mong tin.
– Anh đang lo lắng à? Valérie hỏi.
– Không, chỉ là do bầu không khí nơi đây thôi, anh không quen ngồi ăn giữa chừng này người mặc quân phục như vậy.
– Chúng ta sẽ quen thôi, với lại anh cứ yên tâm, không ở nơi nào trên khắp New York này anh được an toàn hơn ở đây đâu.
– Chừng nào mà chúng ta còn chưa đi thăm lũ ngựa của em…
– Em định dẫn anh đi thăm chuồng ngựa ngay sau khi anh dùng cà phê xong…
– Không được rồi, anh còn phải quay lại chỗ làm.
– Anh đúng là nhát như cáy!
– Nếu em thích thì để lần khác nhé.
Valérie quan sát Andrew.
– Sao anh lại đến tận đây, Andrew?
– Để uống cà phê với em, để thăm nơi em làm việc, em từng đề nghị anh thế còn gì và anh muốn làm như vậy.
– Anh đã băng qua cả thành phố chỉ để làm em vui thôi sao?
– Và cũng để em hôn anh ngay phía trên một cái bàn đựng toàn dụng cụ phẫu thuật… đó là khía cạnh lãng mạn của anh.
Valérie tiễn Andrew ra tận taxi; trước khi đóng cửa xe lại, anh quay về phía cô.
– Thực ra thì bố em từng làm nghề gì?
– Bố em là nhà thiết kế công nghiệp ở nhà máy.
– Thế nhà máy đó sản xuất gì vậy?
– Phụ liệu may mặc, máy tiện, kéo cắt may, kim các loại, que móc, anh từng nói rằng ông làm nghề của phụ nữ và anh chế nhạo ông. Sao anh lại hỏi em vậy?
– Chẳng có gì đâu.
Anh hôn Valérie, hứa với cô là không về muộn rồi đóng cửa taxi lại.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.