Nghiên cứu phân tâm học
2 – Phần 2 (Hết)
Chính vì thế mà xét những thèm muốn và khát vọng tiềm thức của chúng ta, thì chúng ta chỉ là một lũ sát nhân. Cũng may mà những khát vọng và thị dục đó đối với chúng tôi không có sức mạnh như đối với người bàn cổ[4]; nếu không thì nhân loại đã sụp đổ từ lâu vì người ta không còn kiêng nể gì ai, người ta sẽ thủ tiêu hết, bất chấp là thánh hiền hay người nhân đức hay vợ con.
[4] Xin coi Vật tổ và cấm kỵ, chương nói về sức mạnh vô song của ý chí.
Những khẳng định của phân tâm học không được người thường tin tưởng lắm. Người ta gạt bỏ đi vào cho là vu khống, lương tâm người ta có những lý lẽ và bằng chứng chắc chắn để bênh vực quan niệm về “thiện tâm” người ta cố ý không nói đến những dấu hiệu nhỏ mà tiềm thức vẫn thường dùng để bộc lộ sự có mặt của nó ra ngoài ý thức. Bởi vậy chúng tôi thiết tưởng nhắc lại điều sau dây cũng không phải là vô ích: nhiều nhà tư tưởng hẳn là không chịu được ảnh hưởng phân tâm học, họ phàn nàn rằng chúng ta rất dễ xóa bỏ trong tâm trí của tất cả cái gì có thể ngăn cản đường tiến của chúng ta. Không kể gì đến sự nghiêm cấm giết người. Tôi chỉ xin kể ra đây một thí dụ ai cũng biết.
Trong cuốn truyện Le Père Goriot, Balzac viện dẫn một đoạn văn của Rousseau. Rousseau hỏi độc giả sẽ làm gì nếu họ có thể chỉ ước một điều là giết được ngay một vị quan đại thần ở Bắc Kinh rất kín đáo không ai biết được, mà lại được hưởng những lợi lộc to tát. Chúng ta có thể đoán được họ không coi tính mạng của ông quan Tầu đáng là bao nhiêu. Giết ông quan trở thành một thành ngữ chỉ xu hướng kín đáo mà con người nay cũng vẫn có.
Ngoài ra chúng ta còn biết nhiều câu khôi hài, nhiều truyện tiếu lâm bỉ ổi nói đến khuynh hướng ấy, thí dụ truyện một người chống tuyên bố: “Khi nào một trong hai chúng mình chết, tôi sẽ đến Paris.” Khôi hài độc địa như thế, người ta chỉ làm được khi người ta dùng khôi hài để diễn tả một sự thật mà người ta chối cãi, nếu nói trắng ra không úp mở thì người ta không dám làm. Quả vậy, người ta hiểu quá rằng nói một cách nửa nạc nửa mỡ thì nói cái gì cũng được cả, cả những sự thật không nên nói.
Cũng như người bàn cổ, trong tiềm thức chúng ta có trường hợp mà hai thái độ đối lập nhau về cái chết gặp gỡ nhau và xung đột nhau, một thái độ cho cái chết là tiêu hủy sự sống, còn thái độ kia cho cái chết là không có thực. Trường hợp của chúng ta cũng không khác gì trường hợp của người bàn cổ: cái chết hay sự nguy hiểm xảy đến cho một người thân yêu, vợ chồng, cha mẹ, anh chị em, con cái hay bạn hữu. Một đằng, người thân yêu thuộc vào thế giới mật thiết thâm sâu của chúng ta, họ là một phần của cái tôi; nhưng đằng khác họ cũng là người lạ, là kẻ thù, ít ra một phần nào. Ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt, còn thì những thái độ yêu đương nồng nàn và êm dịu nhất cũng vẫn điểm thêm một chút ghen ghét có thể hàm ý thầm kín của tiềm thức mong cho người tình chết. Nhưng lần này thì cuộc xung đột có nguồn gốc lưỡng ứng ấy không làm xuất hiện thuyết luân hồi hay nguyên tắc đạo đức, nhưng nó đưa đến bệnh suy nhược thần kinh, mở đường cho sự quan sát rộng rãi và có thể tìm hiểu cả đời sống tâm thần bình thường.
Bác sĩ phân tâm học biết rằng họ hay thấy triệu chứng người bệnh bộc lộ sự bận tâm của họ đến người thân yêu của họ, bác sĩ cũng hay thấy những lời tự trách vô cớ của người bệnh nhân dịp có thân nhân qua đời. Nghiên cứu những triệu chứng ấy, thầy thuốc không còn nghi ngờ gì nữa: trong tiềm thức, con người thầm mong cho người thân của họ chết.
Thế nhân thường ghê tởm những tâm tình bỉ ổi như vậy, sự ghê tởm ấy cũng đủ lý lẽ chính đáng để họ cho lời nói của phân tâm học là vô lý, là khó tin. Theo tôi nghĩ thì làm như vậy rất đáng tiếc. Tôi không muốn hạ thấp ái tình, vả chăng thực tại sẽ cải chính lời nói của tôi. Hẳn là lý trí và tình cảm của chúng ta không chịu chấp nhận sự ràng buộc chặt chẽ ái tình vào với căm thù, nhưng trẻ tạo không hơn chúng ta nhiều, trẻ tạo biết lợi dụng sự phối hợp yêu và ghét để giữ cho tình yêu có màu tươi và khỏi bị lung lạc bởi sự ghét bỏ. Người ta có thể nói rằng những tâm tình đẹp đẽ nảy nở trong tình yêu của chúng ta là hậu quả của sự phản ứng lại những xung động thù ghét mà chúng ta cảm thấy trong thâm tâm của chúng ta.
Tóm lại: Tiềm thức của chúng ta và người bàn cổ có những nét chung, như không thể hình dung ra được cái chết của mình, mong cho người lạ và kẻ thù chết, thái độ lưỡng ứng đối với người thân yêu. Đem so sánh thái độ nguyên thủy trước cái chết và thái độ mà chúng ta phải có theo ước lệ của đời sống văn minh, chúng ta sẽ thấy khác nhau một trời một vực!
Rất dễ tìm xem chiến tranh có ảnh hưởng gì đến tình trạng ấy. Lớp phù sa của văn minh phủ lên trên sẽ bị cuốn đi để trơ ra con người nguyên thủy của chúng ta. Chiến tranh làm cho chúng ta phải có một thái độ anh hùng mới, một người anh hùng không cho rằng mình lại có thể chết được; chiến tranh làm cho người ngoại bang xuất hiện ra những kẻ thù mà chúng ta phải tiêu diệt hay mong mỏi cho chết; nhưng chúng ta phải giữ bình tĩnh và can đảm trước cái chết của những người thân yêu. Tuy nhiên chúng ta không thể trừ bỏ được chiến tranh. Cạnh tranh sẽ còn mãi nếu còn tồn tại những sự chênh lệch phũ phàng giữa mức sống của các dân tộc, nếu các dân tộc còn căm thù nhau sâu xa. Trong hoàn cảnh ấy câu hỏi đặt ra sẽ như sau: đã không tránh được chiến tranh thì tốt hơn hết, nên thích ứng với tình trạng có hơn không? Chúng ta nên chấp nhận rằng thái độ trước cái chết mà đời sống văn minh tạo ra cho chúng ta đã vượt chúng ta về phương diện tâm lý, như vậy thì có nên gạt bỏ thái độ ấy đi mà trở lại với sự thật chăng? Hay hơn cả, có phải là nên trả lại cho cái chết chỗ đứng của họ trong đời sống cũng như trong tư tưởng của chúng ta, và nên chú trọng hơn đến thái độ tiềm thức của chúng ta đối với cái chết, thái độ mà chúng ta vẫn cố sức đè nén xuống? Làm như thế không phải là một sự tiến bộ, trái lại là một sự thoái lui, ít ra về một vài phương diện, nhưng chúng ta có cái lợi là thành thực đối với mình và làm cho đời sống có thể chịu đựng được. Làm cho đời sống có thể chấp nhận được là bổn phận đầu tiên của con người. Ảo tưởng không có giá trị gì khi ảo tưởng chống đối lại bổn phận ấy.
Xin nhắc lại câu ngạn ngữ cổ: Si vis pacem para bellum. Nếu muốn hòa bình thì phải sẵn sàng để chiến tranh.
Có lẽ đã đến lúc phải sửa lại câu ấy như sau: Si vis vitam, para mortem. Nếu muốn chịu đựng được cuộc sống thì phải sẵn sàng để nhận cái chết.
Danh từ dùng trong bản dịch
Ấn tượng |
Impression |
Ám thị |
Suggestion |
Bảo thức năng |
Mnème mnémique |
Bản năng |
Instinct |
Bản năng sống |
Instinct de vie |
Bản năng chết |
Instinct de mort |
Bản năng dục tính |
Instinct sexuel |
Bản năng bảo tồn |
Instinct de conservation |
Bản năng phá hoại |
Instict de destruction |
Bầy ô hợp nguyên thủy |
Horde primitive |
Biểu thị |
Représentation |
Cảm giác |
Sentation |
Cảm ứng |
Induction |
Di chuyển: hiện tượng xảy ra lúc tâm phân nghiệm, con bệnh di chuyển tâm tính bị dồn nén, lấy ông thầy làm đối tượng. |
Transfert |
Dục tính Hiểu theo nghĩa rộng, năng chính yếu của sự sống một bản. |
Sexuel, sexualité |
Đứng dừng Dừng lại ở một giai đoạn phát triển thời thơ ấu. |
Fixation |
Đồng tính ái |
Homosexuel |
Đồng nhất hóa Người ta có thể đồng nhất hóa mình với một hình ảnh, một người, một đồ vật, một con vật, một tình trạng,… |
Identification |
Đối tượng |
Objet |
Đổi chỗ |
Déplacement |
Đám đông Hiểu theo nghĩa rất rộng từ một đám người tụ họp ngẫu nhiên đến những tổ chức lớn như giáo hội và quân đội. |
Foule |
Eros: chỉ bản năng chính yếu chỉ huy sự sống |
Eros |
Hành hạ (khuynh hướng) Nghĩa hẹp: thiên lệch dục tính. Nghĩa rộng: hành hạ để thỏa mãn bản năng gây gổ. Đối lập với khuynh hướng hành hạ là khuynh hướng tự hành hạ, masochisme. |
Sadisme |
Giao cảm |
Sympathic |
Giai đoạn tiền sinh dục, giai đoạn |
Phase prégénitale |
Sinh dục: chỉ những giai đoạn phát triển của bản năng dục tính. |
Phase génitale |
Hình thái học |
Morphologie |
Hệ thống phát sinh |
Excitation |
Libido. Tinh lực đại diện cho sức sống, phát hiện chính yếu là dục tính |
Libido |
Lưỡng tính hợp thể |
Amphimixie |
Lưỡng ứng tính |
Ambivalence |
Lưỡng ứng tâm tính |
Ambivalence affective |
Lưỡng dục tính |
Bisexualité |
Lo sợ, sợ hãi, kinh sợ |
Angoisse, peur, frayeur |
Lý tưởng tôi, siêu ngã |
Idéal du moi, sur-moi |
Mặc cảm |
Complexe |
Năng động |
Dynamique |
Ngoại phôi điệp |
Ectoderme |
Nhắc lại (khuynh hướng) |
Tendance à la répétition |
Nhị nguyên, đối tính |
Dualisme |
Nhập nội |
Introjection |
Nguyên tắc giữ nguyên tình trạng |
Principle de constance |
Nguyên tắc thực tại |
Principle de réalité |
Nguyên tắc khoái lạc |
Principle de plaisir |
Nguyên sinh động vật |
Protozoaire |
Ngoại thương |
Traumatisme |
Phôi thai học |
Embryologie |
Phóng rọi |
Projection |
Quần cư (bản năng) |
Instinct grégaire |
Rẽ ngang, rẽ hướng |
Dériver, dérivation |
Sự thật âm thầm |
Réalité, psychique |
Suy nhược thần kinh (bệnh) |
Névrose |
Suy nhược thần kinh sợ sệt (bệnh) |
Phobie névrotique |
Suy nhược thần kinh di chuyển (bệnh) |
Névrose de transfert |
Suy nhược thần kinh ám ảnh (bệnh) |
Névrose d’obsession |
Siêu ngã |
Ueberich, sur-moi |
Tâm thần sinh lý học |
Psychophysiologie |
Tâm thần |
Psychique |
Tâm thần biến thái (bệnh) |
Psychose |
Thần kinh tâm thần (bệnh) |
Psycho-névrose |
Tiến trình |
Procesus |
Trạng thái |
État |
Tâm từ (biểu thị) |
Représentation verbale |
Tinh lực |
Énergie |
Tinh lực không liên kết |
Énergie non liée |
Linh lực liên kết |
Énergie liée |
Tiền ý thức |
Préconscient |
Trích trùng |
Infusoire |
Tâm lý siêu hình |
Métapsychologie |
Thích xác |
Topique |
Tôi lý tưởng Tôi (ngã) Moi, ICCII |
Moi idéal |
Ưu uất (bệnh) |
Mélancolie |
U uất (bệnh) |
Hypochondrie |
Vật tổ |
Totem |
Vô thức Ca |
ES |
Xung động |
Impulsion |
Ý thức |
Conscient |
Nguồn: Nghiên cứu phân tâm học của Freud do Vũ Đình Lưu dịch. An Tiêm xuất bản lần thứ nhất, Sài Gòn 1969. Bản điện tử do talawas thực hiện.
Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Các phím WASD cũng có chức năng tương tự như các phím mũi tên.